Về người bị buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
VỀ NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015
Ngô Văn Vịnh *
Hồ Việt Phương**
*TS. Khoa Luật, Học viện Chính trị công an nhân dân
**Trưởng Công an xã Song Phương, Hoài Đức, Hà Nội
Thông tin bài viết:
Tóm tắt:
Trong phạm vi bài viết này, tác giả trình bày, phân tích làm rõ khái niệm
về người bị buộc tội, một số quyền của người bị buộc tội, chỉ ra những
tồn tại, hạn chế và vướng mắc trong quy định về quyền của người bị
buộc tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015; trên cơ sở đó,
kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2015
cho phù hợp.
Từ khóa: Người bị buộc tội,
người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài
Biên tập
Duyệt bài
: 22/11/2020
: 12/12/2020
: 13/12/2020
Article Infomation:
Abstract:
In the scope of this article, the author provides introduction, analysis
and clarifications of the concept of the accused, some of the rights
of the accused, gives out the shortcomings, limitations and issues in
the regulations on the rights of the accused in the Code on Criminal
Procedure of 2015; on that basis, it is also recommended to improve
a number of provisions of the Code on Criminal Procedure of 2015 as
appropriate.
Keywords: The
accused
persons, the arrests, the
detainees, the defendants, the
defendants, the Code of Criminal
Procedure.
Article History:
Received
Edited
: 22 Nov. 2020
: 12 Dec. 2020
: 13 Dec. 2020
Approved
Thuật ngữ “người bị buộc tội” lần đầu
tiên xuất hiện trong Hiến pháp năm 2013
thông qua quy định tại Điều 311. Để cụ thể
hóa quy định về người bị buộc tội trong
Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm
2015 đã có nhiều quy định cụ thể liên quan
trực tiếp đến người bị buộc tội, trong đó có
việc giải thích thuật ngữ “người bị buộc
tội” và xác định các quyền, nghĩa vụ của
người bị buộc tội.
Trên cơ sở các quy định về người bị
buộc tội trong Bộ luật TTHS năm 2015, tác
1. “Điều 31:
1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường
hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai…”.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
67
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
giả trao đổi và kiến nghị một số vấn đề cụ
thể sau:
sống xã hội. Trong trường hợp này, người
hoặc pháp nhân thương mại bị tình nghi
thực hiện tội phạm được đặt trong hoàn
cảnh họ bị cơ quan, người có thẩm quyền
dựa vào các căn cứ trên thực tế để xác định
rằng họ là chủ thể đã thực hiện hành vi có
dấu hiệu tội phạm hoặc đã thực hiện hành
vi phạm tội được Bộ luật hình sự quy định.
Không chỉ dừng lại ở đó, người bị buộc tội
phải là người hoặc pháp nhân thương mại
đã bị cơ quan, người có thẩm quyền đưa ra
một quyết định tố tụng cụ thể như: Lệnh
bắt; quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố
bị can; quyết định truy tố; quyết định đưa vụ
án ra xét xử… Các quyết định này dù là để
thể hiện việc áp dụng một biện pháp ngăn
chặn, biện pháp cưỡng chế hay là một quyết
định tố tụng được luật định theo các giai
đoạn tố tụng khác nhau thì đều gắn với chủ
thể bị buộc tội và họ có các quyền, nghĩa
vụ, họ trở thành người tham gia tố tụng.
1. Khái niệm người bị buộc tội
Điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS
năm 2015 đã đưa ra giải thích (khái niệm)
về người bị buộc tội như sau: “Người bị
buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo”. Có thể thấy, nội hàm của
khái niệm người bị buộc tội mới chỉ dừng
lại ở hình thức liệt kê với tư cách là các chủ
thể tham gia TTHS mà chưa làm rõ được
một cách khái quát nội dung về các thành
tố tạo nên chủ thể đó2. Do đó, cần thiết phải
nghiên cứu và tìm ra một khái niệm thống
nhất về người bị buộc tội để có cơ sở xác
định chính xác địa vị pháp lý của họ.
Trước hết, phải khẳng định người bị
buộc tội là người hoặc pháp nhân thương
mại bị tình nghi thực hiện tội phạm3. Tuy
nhiên, họ không phải bị tình nghi thực hiện
tội phạm một cách thiếu căn cứ, mà sự tình
nghi này phải được đặt trong một tiến trình
TTHS theo luật định. Việc tình nghi trong
TTHS khác hẳn với sự ngờ vực hay suy
đoán mang tính chủ quan, cảm tính của cá
nhân con người với con người trong đời
Trở lại cách giải thích thuật ngữ “người
bị buộc tội” tại điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật
TTHS năm 2015, có thể thấy người bị buộc
tội chỉ bao gồm người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo. Tác giả cho rằng, phạm vi
những người được xác định là người bị buộc
2. Khái niệm về một số người tham gia tố tụng trong Bộ luật TTHS năm 2015 đã khái quát được nội dung của
các thành tố cấu tạo nên chủ thể đó như: “Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự” (Khoản 1 Điều
60); “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (Khoản 1 Điều 61); “Bị hại là cá
nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do
tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” (Khoản 1 Điều 62); “Người làm chứng là người biết được những tình tiết
liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm
chứng” (Khoản 1 Điều 66); “Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu
chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này” (Khoản 1 Điều 67);…
3. Việc xác định cụ thể người bị buộc tội là người hoặc pháp nhân thương mại còn tùy thuộc vào tư cách tham
gia tố tụng cụ thể của họ trong vụ án. Theo đó, người bị bắt không thể là pháp nhân thương mại vì biện pháp
ngăn chặn không áp dụng đối với pháp nhân thương mại (Bộ luật TTHS năm 2015 chỉ quy định biện pháp
cưỡng chế đối với pháp nhân thương mại mà không quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn). Cũng tương tự,
người bị tạm giữ, theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Bộ luật TTHS năm 2015, là người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội
tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Cho nên người bị tạm giữ cũng không thể là pháp nhân
thương mại vì không áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với pháp nhân thương mại. Còn bị can có thể là người
hoặc pháp nhân thương mại (Xem khoản 1 Điều 60 Bộ luật TTHS năm 2015), bị cáo cũng có thể là người hoặc
pháp nhân thương mại (Xem khoản 1 Điều 61 Bộ luật TTHS năm 2015); bởi lẽ, bị can và bị cáo có thể bị áp
dụng hoặc không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn.
68
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
tội như vậy là chưa đầy đủ; theo đó, cần bổ
sung thêm cả người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp cũng là người bị buộc tội. Bởi lẽ:
nếu người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp không phải là người bị buộc tội thì quy
định về quyền “Tự bào chữa, nhờ người
bào chữa” mâu thuẫn với quy định về
người bào chữa nêu trên.
Thứ nhất, người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, dù với tối đa là 12 giờ4, nhưng
theo các trường hợp giữ người trong trường
hợp khẩn cấp được quy định tại khoản
1 Điều 110 Bộ luật TTHS năm 20155, thì
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là
người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội
được Bộ luật hình sự quy định.
Do đó, tác giả cho rằng, người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp cũng là người
bị buộc tội. Tóm lại với sự phân tích nêu
trên, có thể hiểu khái niệm người bị buộc tội
như sau: Người bị buộc tội là người hoặc
pháp nhân thương mại mà cơ quan, người
có thẩm quyền, bằng quyết định tố tụng, xác
lập tư cách của họ là người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự khi có căn cứ cho
rằng họ đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm, hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội.
Thứ hai, Điều 58 Bộ luật TTHS năm
2015 có quy định quyền và nghĩa vụ pháp
lý của người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp và người bị bắt6 là như nhau. Trong đó,
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có
quyền “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến,
không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình
có tội”7; quyền “Tự bào chữa, nhờ người
bào chữa”8. Qua nghiên cứu cho thấy, đây
đều là những quyền rất cơ bản của người
bị buộc tội9. Hơn nữa, theo khoản 1 Điều
72 Bộ luật TTHS năm 2015: “Người bào
chữa là người được người bị buộc tội nhờ
bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng chỉ định và được cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp
nhận việc đăng ký bào chữa”. Rõ ràng,
2. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội
2.1. Những hạn chế, bất cập
Với cách tiếp cận và quan niệm về
người bị buộc tội nêu trên thì quyền và
nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội
được thể hiện thông qua quyền và nghĩa vụ
pháp lý của người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Qua nghiên cứu các quyền
và nghĩa vụ này cho thấy một số hạn chế,
bất cập như sau:
4. Xem khoản 4, Điều 110 Bộ luật TTHS năm 2015
5. “Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người:
a) Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng;
b) Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy
và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi
thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ”.
6. Người bị bắt là người bị buộc tội.
7. Xem điểm d khoản 1 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2015.
8. Xem điểm g khoản 1 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2015.
9. Những người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) đều có các quyền này. Qua nghiên
cứu các quy định khác của Bộ luật TTHS năm 2015, ngoài người bị buộc tội thì chỉ có người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp mới có những quyền này.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
69
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Thứ nhất, về quyền được thông báo,
giải thích về quyền và nghĩa vụ.
thời điểm giải thích quyền và nghĩa vụ đối
với họ là khi cơ quan, người có thẩm quyền
giao cho họ quyết định khởi tố bị can, quyết
định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can mà
không quy định về việc thông báo quyền và
nghĩa vụ cho bị can.
Đây là quyền được quy định chung đối
với tất cả người bị buộc tội bao gồm quyền
của người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo. Về thời điểm thông báo, giải thích
quyền và nghĩa vụ đối với từng loại người
bị buộc tội được quy định như sau:
- Đối với người bị bắt trong trường hợp
phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết
định truy nã thì pháp luật TTHS lại không
quy định trực tiếp về thời điểm thông báo,
giải thích về quyền và nghĩa vụ của họ.
Chẳng hạn, đối với người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang, Khoản 1 Điều 114
Bộ luật TTHS năm 201513 chỉ quy định Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy
lời khai ngay và sau đó phải ra quyết định
tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt mà
không đề cập đến việc thông báo, giải thích
quyền và nghĩa vụ của người bị bắt. Tương
tự đối với người bị bắt theo quyết định truy
nã, khoản 2 Điều 114 Bộ luật TTHS năm
201514 cũng chỉ quy định sau khi lấy lời khai
người bị bắt, Cơ quan điều tra phải thông báo
ngay cho Cơ quan đã ra quyết định truy nã
đến nhận người bị bắt mà không đề cập đến
việc thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ
của người bị bắt.
- Đối với người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, khoản 3 Điều 110 Bộ luật TTHS
năm 2015 quy định: “Việc thi hành lệnh giữ
người trong trường hợp khẩn cấp phải theo
đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ
luật này” và theo khoản 2, Điều 113 Bộ luật
TTHS năm 2015 thì: “Người thi hành lệnh,
quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải
thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của
người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt;
giao lệnh, quyết định cho người bị bắt”. Từ
các quy định trên có thể thấy, Bộ luật TTHS
năm 2015 mới chỉ quy định về việc giải thích
quyền và nghĩa vụ của người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp10 mà không quy định
việc thông báo quyền và nghĩa vụ của họ.
- Đối với người bị tạm giữ, họ được
thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
khi cơ quan, người có thẩm quyền thi hành
quyết định tạm giữ11.
- Đối với bị cáo, pháp luật TTHS hiện
hành không quy định bị cáo được thông báo,
giải thích về quyền và nghĩa vụ của họ khi
- Đối với bị can, khoản 5, Điều 179
Bộ luật TTHS năm 201512 chỉ quy định về
10. Thời điểm giải thích quyền và nghĩa vụ là khi cơ quan, người có thẩm quyền thi hành lệnh giữ người trong
trường hợp khẩn cấp.
11. Khoản 3 Điều 117 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Người thi hành quyết định tạm giữ phải thông báo,
giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều 59 của Bộ luật này”.
12. “Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện
kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố
bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can”.
13. “Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12
giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”.
14. “Sau khi lấy lời khai người bị bắt theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông
báo ngay cho Cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt…”.
70
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
được giao quyết định đưa vụ án ra xét xử15,
mà họ chỉ được biết quyền này ở phần thủ
tục khai mạc phiên tòa16. Quy định này dẫn
đến tình trạng bị cáo không hiểu rõ được
quyền và nghĩa vụ của mình trước khi mở
phiên tòa; đến khi khai mạc phiên tòa mới
hiểu và đưa ra các yêu cầu thì nhiều trường
hợp không được xem xét giải quyết.
có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định
người bào chữa cho họ trong những trường
hợp luật định.
Thứ ba, về quyền khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
người bị tạm giữ.
Thứ hai, về quyền tự bào chữa, nhờ
người bào chữa.
Theo điểm h khoản 1 Điều 58 Bộ luật
TTHS năm 2015 thì người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang và người
bị bắt theo quyết định truy nã có quyền:
“Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong việc giữ người, bắt người”. Tuy
nhiên, theo khoản 2 Điều 110 Bộ luật TTHS
năm 2015, những người có thẩm quyền ra
lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
ngoài những người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng còn có cả người chỉ huy tàu bay, tàu
biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay,
bến cảng. Ngoài ra đối với việc bắt người
phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy
nã, có rất nhiều chủ thể tham gia vào việc
bắt người như: Người bắt giữ18; cơ quan
Công an, Viện kiểm sát, Ủy ban nhân dân
nơi gần nhất19; Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt… Như vậy, nếu quy định người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và
người bị bắt theo quyết định truy nã chỉ có
quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm
2015, tất cả người bị buộc tội đều có quyền
tự bào chữa, nhờ người bào chữa17. Tuy
nhiên, khoản 1 Điều 76 Bộ luật TTHS năm
2015 có quy định về việc chỉ định người
bào chữa:
“Trong các trường hợp sau đây nếu
người bị buộc tội, người đại diện hoặc người
thân thích của họ không mời người bào chữa
thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
phải chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình
sự quy định mức cao nhất của khung hình
phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
b) Người bị buộc tội có nhược điểm về
thể chất mà không thể tự bào chữa; người
có nhược điểm về tâm thần hoặc là người
dưới 18 tuổi”.
Với quy định này có thể thấy, ngoài
quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa thì
người bị buộc tội còn có quyền được cơ quan
15. Khoản 1 Điều 286 Bộ luật TTHS năm 2015 chỉ quy định: “Quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho
bị cáo hoặc người đại diện của họ; gửi cho người bào chữa, bị hại, đương sự chậm nhất là 10 ngày trước khi
mở phiên tòa…” mà không đề cập đến việc thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của bị cáo.
16. Khoản 3 Điều 301 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của
những người có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án và kiểm tra lý lịch, phổ biến quyền và
nghĩa vụ của họ”.
17. Xem các điểm g khoản 1, Điều 58; điểm d khoản 2 Điều 59; điểm h khoản 2 Điều 60; điểm g khoản 2 Điều
61 Bộ luật TTHS năm 2015.
18. Theo khoản 1 Điều 111 và khoản 1 Điều 112 Bộ luật TTHS năm 2015 thì bất kỳ ai cũng có quyền bắt người
phạm tội quả tang và người đang bị truy nã.
19. Theo khoản 1 các điều 111, 112 Bộ luật TTHS năm 2015, các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và
giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
71
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng trong việc bắt người là chưa đầy đủ.
Đối với người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, cần bổ sung việc thông báo quyền
và nghĩa vụ của họ. Theo đó, tác giả kiến
nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 113 Bộ
luật TTHS năm 2015 như sau:
Tương tự như vậy, việc quy định người
bị tạm giữ có quyền “Khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ”20 là
chưa đầy đủ bởi lẽ theo quy định tại khoản
2, Điều 117 Bộ luật TTHS năm 201521 thì
những người có thẩm quyền ra quyết định
tạm giữ, ngoài những người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng còn có có cả người chỉ huy
tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời
sân bay, bến cảng.
“Người thi hành lệnh, quyết định phải
đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết
định, thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ
của người bị bắt và phải lập biên bản về việc
bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt”24.
Tương tự như vậy, đối với bị can, cũng
cần bổ sung việc thông báo quyền và nghĩa vụ
của họ; theo đó cần sửa đổi, bổ sung khoản 5
Điều 179 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:
Thứ tư, về quyền đề nghị thay đổi
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
“Sau khi nhận được quyết định phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết
định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ
quan điều tra phải giao ngay quyết định
khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can và thông báo, giải thích
quyền, nghĩa vụ cho bị can”.
Theo các quy định về người bị buộc tội
trong Bộ luật TTHS năm 2015 (từ Điều 58
đến Điều 61), bị can, bị cáo đều có quyền đề
nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng22, còn người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt và người bị tạm giữ
không có quyền này. Tuy nhiên, theo Điều
50 Bộ luật TTHS năm 2015 thì người bị tạm
giữ cũng có quyền đề nghị thay đổi người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng23. Như vậy,
có thể thấy sự thiếu thống nhất trong quy
định của pháp luật TTHS về vấn đề này.
Đối với người bị bắt trong trường hợp
phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết
định truy nã, cần bổ sung việc thông báo, giải
thích quyền và nghĩa vụ của họ. Theo đó, tác
giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung các khoản 1, 2
Điều 114 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:
2.2. Một số kiến nghị
“1. Sau khi giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ,
bị bắt, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12
giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do
Trên cơ sở những hạn chế, bất cập nêu
trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung một
số vấn đề sau:
Thứ nhất, đối với quyền được thông
báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ.
20. Xem điểm g khoản 2 Điều 59 Bộ luật TTHS năm 2015.
21. “Những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người quy định tại khoản 2 Điều 110 của Bộ luật này có quyền
ra quyết định tạm giữ…”.
22. Xem điểm g khoản 2 Điều 60; điểm d khoản 2 Điều 61 Bộ luật TTHS năm 2015.
23. “Điều 50. Người có quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
1. Kiểm sát viên.
2. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện của họ.
3. Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự”.
24. Việc sửa đổi, bổ sung này đồng thời cũng đảm bảo quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
của người bị bắt là bị can, bị cáo.
72
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
cho người bị bắt. Đối với người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang, sau khi bắt
hoặc nhận người bị bắt, trước khi lấy lời khai,
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải
thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của
họ theo quy định tại Điều 58 của Bộ luật này.
2015 cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Tự bào chữa, nhờ người bào chữa
hoặc được cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng chỉ định người bào chữa cho họ trong
những trường hợp do Bộ luật này quy định”.
Thứ ba, đối với quyền khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng của người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị
bắt, người bị tạm giữ.
2. Sau khi thông báo, giải thích quyền
và nghĩa vụ của người bị bắt theo quyết
định truy nã và lấy lời khai của họ thì Cơ
quan điều tra nhận người bị bắt phải thông
báo ngay cho Cơ quan đã ra quyết định truy
nã đến nhận người bị bắt...”25.
Như đã phân tích, để đảm bảo tính đầy
đủ, cần bổ sung quy định quyền của người
bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị
bắt, người bị tạm giữ trong việc khiếu nại
quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền nói chung trong việc
giữ người, bắt người, tạm giữ. Theo đó, tác
giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm h khoản
1 Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:
Đối với bị cáo, để bảo đảm cho bị cáo
biết và hiểu rõ về các quyền và nghĩa vụ của
mình cần quy định việc thông báo, giải thích
quyền và nghĩa vụ của bị cáo khi giao quyết
định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo. Nói cách
khác, khoản 1 Điều 286 Bộ luật TTHS năm
2015 cần được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền trong
việc giữ người, bắt người”.
“Quyết định đưa vụ án ra xét xử
được giao cho bị cáo hoặc người đại diện
của họ; gửi cho người bào chữa, bị hại,
đương sự chậm nhất là 10 ngày trước khi
mở phiên tòa. Khi giao quyết định đưa vụ
án ra xét xử cho bị cáo phải thông báo, giải
thích quyền và nghĩa vụ của bị cáo theo quy
định tại Điều 61 của Bộ luật này…”.
Tương tự, cần sửa đổi, bổ sung điểm g
khoản 2 Điều 59 Bộ luật TTHS năm 2015
như sau:
“Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng
của cơ quan, người có thẩm quyền về việc
tạm giữ”.
Thứ hai, đối với quyền tự bào chữa,
nhờ người bào chữa.
Thứ tư, đối với quyền đề nghị thay đổi
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Để đảm bảo tính thống nhất, cần bổ
sung quyền được cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng chỉ định người bào chữa
cho người bị buộc tội trong những trường
hợp luật định trong quy định về quyền của
họ. Theo đó, điểm g khoản 1 Điều 58; điểm
d khoản 2 Điều 59; điểm h khoản 2 Điều 60;
điểm g khoản 2 Điều 61 Bộ luật TTHS năm
Để đảm bảo sự thống nhất với quy
định tại Điều 50 Bộ luật TTHS năm 2015
về quyền đề nghị thay đổi người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của người bị tạm
giữ, cần bổ sung quyền “đề nghị thay đổi
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” đối
với người bị tạm giữ trong khoản 2 Điều 59
Bộ luật TTHS năm 2015
25. Có một số ý kiến cho rằng cần phải hiểu việc thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ đối với người bị
bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã được thực hiện khi lấy lời khai
đối với họ. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS năm 2015 không quy định về trình tự, thủ tục lấy lời khai đối với người
bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã nên không có cơ sở pháp lý
để khẳng định nhận định trên.
Số 03 + 04 (427 + 428) - T2/2021
73
Bạn đang xem tài liệu "Về người bị buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- ve_nguoi_bi_buoc_toi_theo_quy_dinh_cua_bo_luat_to_tung_hinh.pdf