Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG  
VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY  
TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai  
Học-viện-Chính-trị-khu-vực-II  
Tóm tắt:  
Thông tin bài viết:  
Trước yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý xã hội đáp ứng mục tiêu bảo  
vệ và phát triển đất nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp  
quyền xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống  
pháp luật là đòi hỏi cấp bách. Sự quan tâm sâu sắc của Hồ Chí Minh,  
cả trên phương diện lý luận lẫn tổ chức thực tiễn, để lại những chỉ dẫn  
rất giá trị, có tính chất nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam, soi đường thắng  
lợi cho xây dựng pháp luật ở Việt Nam.  
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh;  
xây dựng và hoàn thiện pháp luật.  
Lịch sử bài viết:  
Ngày nhận bài : 23/10/2020  
Biên tập  
: 07/11/2020  
: 12/11/2020  
Duyệt bài  
Article Infomation:  
Keywords: Ho Chi Minh’s  
Abstract:  
It is facing the needs to improve the efficiency of social management  
to meet the national protection and development goals, to develop and  
improve the rule of law for the socialist state, the construction and  
improvement of the legal system are urgently needed. President Ho  
Chi Minh expressed his deep interests, both in terms of theory and  
practices, which provide very valuable instructions, ideological  
foundation, guidelines for law developments in Vietnam.  
thoughts,  
improvements of laws.  
developments  
and  
Article History:  
Received  
Edited  
: 23 Oct. 2020  
: 07 Nov. 2020  
: 12 Nov. 2020  
Approved  
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng  
pháp luật  
Hồ Chí Minh trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo toàn  
bộ quá trình xây dựng pháp luật của nước  
Việt Nam mới trong hơn hai thập niên đầu.  
Văn bản đầu tiên khởi động quá trình xây  
dựng pháp luật của nước Việt Nam Dân chủ  
Cộng hòa được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký  
ngày 20/9/1945 - Sắc lệnh số 34/SL quyết  
định thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp  
gồm 7 thành viên. Đứng đầu Ủy ban này, Hồ  
Chí Minh có vai trò đặc biệt quan trọng cho  
sự ra đời của văn bản luật đầu tiên - Hiến  
pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm  
1946, Hiến pháp năm 1959, 16 đạo luật,  
hàng chục sắc lệnh và nhiều văn bản liên  
quan khác. Số lượng và giá trị tiến bộ trong  
nội dung các văn bản luật, đặc biệt là Hiến  
pháp năm 1946, đã định hình một cách rõ nét  
và vững chắc nền pháp lý của nước Việt  
Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã  
hội chủ nghĩa Việt Nam.  
Nếu như chính quyền là vấn đề cơ bản  
của mọi cuộc cách mạng thì pháp luật là vấn  
đề cốt yếu của mọi chính quyền, quan điểm  
này thể hiện rõ nét cả trong trước tác và thực  
tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh,  
đặc biệt trong những năm trên cương vị  
người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân  
chủ Cộng hòa. Do đó, trong tư tưởng Hồ Chí  
Minh, xây dựng pháp luật từ chỗ là nhu cầu  
nảy sinh ngay trong sự phê phán chế độ thực  
dân và khát vọng giải phóng dân tộc, đã  
được hiện thực hóa bằng thực tiễn thiết lập  
và không ngừng hoàn chỉnh nền pháp lý của  
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kể từ sau  
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (1945).  
Trên cương vị người đứng đầu nhà nước  
(1945 - 1969) và Chủ tịch Đảng (1951 - 1969),  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
8
Số 24 (424) - T12/2020  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, xây  
dựng pháp luật là sự phức hợp nhiều hoạt  
động, do nhiều chủ thể có vị trí, chức năng,  
quyền hạn khác nhau tiến hành, theo trình  
tự, thủ tục chặt chẽ, nhằm chuyển hóa ý chí  
của đảng cầm quyền thành những quy tắc xử  
sự có tính bắt buộc chung, thể hiện chúng  
dưới những hình thức pháp lý nhất định.  
Như vậy, xây dựng pháp luật không chỉ đơn  
thuần là hoạt động chuyên môn mà còn có  
tính chất chính trị. Ở khía cạnh chính trị, xây  
dựng pháp luật phải hướng đến phản ánh bản  
chất dân chủ Nhân dân của chế độ chính trị  
mới được kiến tạo từ sau thắng lợi của Cách  
mạng tháng Tám (1945). Hệ thống pháp luật  
suy cho cùng phải là sự thể chế hóa đường  
lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam  
cầm quyền; đảm bảo và phát huy vị thế là  
chủ và quyền làm chủ của Nhân dân; phục  
vụ sự nghiệp cách mạng Việt Nam vì mục  
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.  
Trên cương vị người đứng đầu, Chủ tịch  
Hồ Chí Minh có những đóng góp cho công  
tác xây dựng hệ thống pháp luật của nước  
Việt Nam mới chủ yếu ở những định hướng  
nguyên tắc có tính chất “soi đường” và lãnh  
đạo quá trình tổ chức thực tiễn. Cùng với các  
“thao tác” chuyên môn - nghiệp vụ, việc xác  
định đường hướng và lãnh đạo tổ chức quá  
trình thực tiễn là hai nhiệm vụ quan trọng  
hàng đầu, diễn ra trước hết và xuyên suốt,  
quyết định các hoạt động khác nói riêng, tổng  
thể quá trình xây dựng pháp luật nói chung.  
1.1. Xác lập các nguyên tắc căn bản  
của nội dung văn bản pháp luật là hoạt  
động thường được Hồ Chí Minh thực hiện  
trước hết trong quá trình lãnh đạo xây  
dựng pháp luật  
Thứ nhất, dân chủ được Hồ Chí Minh  
nhắc đến đầu tiên và nhấn mạnh xuyên suốt  
quá trình lãnh đạo xây dựng pháp luật.  
Người khẳng định: “Tính chất Nhà nước là  
vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề  
nội dung giai cấp của chính quyền. Chính  
quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi của ai?  
Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của  
Hiến pháp”1. Hệ thống pháp luật của nước  
Việt Nam mới phải là hiện thân của nền dân  
chủ cộng hòa; thể hiện quyền là chủ và làm  
chủ của Nhân dân; phản ánh và bảo vệ  
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều  
thuộc về Nhân dân.  
Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên  
của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh xác  
định sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước  
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có:  
Vấn đề thứ ba - Trước chúng ta đã bị chế  
độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế  
độ thực dân không kém phần chuyên chế,  
nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân  
ta không được hưởng quyền tự do dân chủ.  
Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi  
đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng  
hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ  
phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái  
mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu  
cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo,  
dòng giống, v.v..”2. Nguyên tắc “phải có một  
hiến pháp dân chủ” lần đầu được Hồ Chí  
Minh nhắc đến trên cương vị người đứng  
đầu Nhà nước, trở thành nguyên tắc nền tảng  
trong xây dựng bản hiến pháp đầu tiên của  
đất nước và toàn bộ công tác xây dựng hệ  
thống pháp luật Việt Nam.  
Nguyên tắc dân chủ được hiện thực hóa  
trong quá trình xây dựng bản Hiến pháp năm  
1946. Dân chủ tiếp tục được quán triệt trong  
quá trình xây dựng Hiến pháp 1959. Trên  
cương vị Trưởng ban dự thảo Hiến pháp sửa  
đổi, phát biểu khai mạc phiên họp đầu tiên  
của Ban sửa đổi Hiến pháp (27/02/1957), Hồ  
Chí Minh quán triệt rất kỹ yêu cầu xây dựng  
một Hiến pháp dân chủ: “Nó sẽ là bản Hiến  
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng pháp  
luật, Hồ Chí Minh ưu tiên xác lập những  
nguyên tắc chính trị và luôn thể hiện nhất  
quán điều này trong hơn hai thập kỷ kể từ khi  
tuyên ngôn độc lập, khai sinh Nhà nước Việt  
Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 – 1969); theo  
đó, có thể khẳng định những nguyên tắc sau:  
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.370.  
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.1 - 3.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
9
Số 24 (424) - T12/2020  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
pháp của một nước dân chủ Nhân dân tiến  
dần lên chủ nghĩa xã hội. Nó phải là một bản  
Hiến pháp đảm bảo được quyền tự do dân chủ  
cho các tầng lớp Nhân dân…”3. Trong Lời nói  
đầu, Hiến pháp 1959 khẳng định: “Hiến pháp  
mới là một Hiến pháp thực sự dân chủ”.  
Thứ hai, phục vụ đường lối chính trị của  
sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh  
đạo của Đảng chân chính cách mạng cũng  
là nguyên tắc quan trọng, được Hồ Chí Minh  
nêu bật. Khi lãnh đạo xây dựng các văn bản  
luật, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xác định cho  
rõ sự cần thiết và mục tiêu hướng đến.  
Hiến pháp năm 1946 được hình thành từ  
nhu cầu xây dựng một nhà nước dân chủ  
Nhân dân hợp hiến sau thắng lợi của Cách  
mạng tháng Tám (1945). Trong bối cảnh thù  
trong, giặc ngoài và nhiều khó khăn chồng  
chất, sự cấp bách của nhu cầu đó khiến cho  
quá trình xây dựng Hiến pháp năm 1946  
được tiến hành rất khẩn trương. Mặt khác, vì  
đây là văn bản luật đầu tiên đặt nền móng  
cho một nhà nước mới, một tuyên ngôn của  
chế độ chính trị của nước Việt Nam mới, nên  
dù khẩn trương nhưng phải đảm bảo và toát  
lên những giá trị phổ biến phù hợp với lợi  
ích của Quốc dân và xu thế tiến bộ của nhân  
loại. Trên cương vị đứng đầu Nhà nước và  
Ủy ban dự thảo Hiến pháp, Hồ Chí Minh đã  
quán triệt sự cần thiết và mục tiêu hướng đến  
một cách rõ ràng trước khi diễn ra các bước  
đi có tính chuyên môn – nghiệp vụ của khoa  
học pháp lý. Sự thông suốt tinh thần đó giúp  
cho Ủy ban dự thảo Hiến pháp năm 1946  
xây dựng một đạo luật rất ngắn gọn, súc tích  
nhưng thể hiện rõ nét, đầy đủ các khía cạnh  
cơ bản của chế độ dân chủ cộng hòa và  
đường hướng vận động của sự nghiệp cách  
mạng Việt Nam.  
pháp năm 1946 đã được dự thảo và thông  
qua trong thời gian ngắn nhưng chất lượng  
rất tốt. Một trong những nguyên nhân chủ  
yếu đó là quá trình xây dựng đã thông suốt  
về nhu cầu cần thiết và mục tiêu hướng đến  
của nội dung văn bản luật.  
Tháng 12 năm 1959, Báo cáo trước  
Quốc hội tại kỳ họp thứ 11 (khóa XI), Chủ  
tịch Hồ Chí Minh đã có những phân tích rất  
kỹ để luận chứng về sự cần thiết xây dựng  
Hiến pháp năm 1959: “Tóm lại, cách mạng  
Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới.  
Chúng ta có nhiệm vụ mới. Điều kiện trong  
nước và trên thế giới đều thuận lợi cho ta.  
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp dân chủ đầu  
tiên của nước ta, thích hợp với tình hình và  
nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đó. Nó đã  
hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với  
tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới  
hiện nay thì nó không thích hợp nữa. Vì vậy  
mà chúng ta phải sửa đổi Hiến pháp ấy”4. Về  
mục tiêu hướng đến của Hiến pháp năm  
1959, cả trong “Diễn văn khai mạc phiên  
họp đầu tiên của Ban sửa đổi Hiến pháp”  
(27/02/1957) đến “Báo cáo về Dự thảo Hiến  
pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội  
khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”  
(12/1959), Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh  
Hiến pháp “phải phản ánh đầy đủ tình hình  
thực tế của chế độ ta” và “phản ánh đúng đắn  
con đường đang tiến lên của dân tộc ta”5.  
“Dự thảo Hiến pháp sửa đổi ghi rõ những  
thắng lợi to lớn của Nhân dân ta trong những  
năm qua và nêu rõ nhiệm vụ cách mạng mới  
trong giai đoạn lịch sử mới”6. Như vậy, mục  
tiêu mà Hiến pháp hướng đến được quán  
triệt ngay từ giai đoạn “khởi động” quá trình  
xây dựng luật – phiên họp đầu tiên của Ban  
sửa đổi Hiến pháp, đến khi đã có “sản phẩm”  
để báo cáo xin ý kiến Quốc hội. Điều đó thể  
hiện rõ nét sự nhất quán giữa tư tưởng và  
hành động ở Người.  
Trước rất nhiều khó khăn mà đất nước  
đang phải đối diện, trước rất nhiều nhiệm vụ  
đặt ra đối với một nhà nước non trẻ, Hiến  
3
4
5
6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.510.  
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.369.  
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.510.  
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.369.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
10  
Số 24 (424) - T12/2020  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Thứ ba, kế thừa và phát triển, phù hợp  
các giá trị phổ quát của dân tộc và nhân loại  
là nguyên tắc cũng được Hồ Chí Minh lưu ý  
trong quá trình lãnh đạo xây dựng pháp luật.  
Hiến pháp năm 1946 dù được xây dựng  
trong thời gian ngắn, có nội dung ngắn gọn  
nhưng đã toát lên tinh thần “cùng nhịp với  
trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà  
bình của nhân loại”7. Lãnh đạo xây dựng  
Hiến pháp năm 1959, Hồ Chí Minh cũng nêu  
rõ trước các thành viên Ban sửa đổi Hiến  
pháp: “Bản Hiến pháp của chúng ta sẽ thảo  
ra phải là bản Hiến pháp phát huy tinh thần  
tiến bộ của Hiến pháp năm 1946”. Điều rất  
đặc biệt, Hồ Chí Minh vượt qua những suy  
nghĩ hẹp hòi của sự khác biệt về ý thức hệ  
khi yêu cầu “Ban sửa đổi Hiến pháp” (1959),  
“phải tham khảo Hiến pháp của các nước  
bạn và của một số nước tư bản có tính chất  
điển hình”8.  
Hồ Chí Minh thường nhắc đến từ  
“khéo” trong những chỉ dẫn phương pháp  
thực hiện việc cách mạng. Lãnh đạo xây  
dựng pháp luật, một trong những điểm  
“khéo” của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ xử  
lý rất tốt mối quan hệ giữa nhu cầu xây dựng  
văn bản luật mới (trên cơ sở chỉ ra sự không  
phù hợp của văn bản hiện hành trong bối  
cảnh mới) với yêu cầu phải kế thừa, phát huy  
giá trị của văn bản luật hiện hành để xây  
dựng văn bản luật mới. Hồ Chí Minh  
nghiêng về chỉ ra sự không phù hợp của văn  
bản hiện hành trước yêu cầu, nhiệm vụ, đặc  
điểm tình hình của bối cảnh mới, mà không  
phê phán giá trị của văn bản đó. Nghĩa là, ở  
văn bản luật hiện hành, sẽ có những điểm  
không còn phù hợp với bối cảnh mới nhưng  
cũng có những điểm còn nguyên giá trị. Chỉ  
ra những điểm không còn phù hợp với bối  
cảnh mới để cho thấy sự cần thiết phải xây  
dựng văn bản luật mới; nhắc nhở phải kế  
thừa và phát triển giá trị của văn bản luật  
hiện hành cũng để đảm bảo cho nội dung văn  
bản luật mới được xây dựng tốt. Trong sự  
“phê phán” có tính xây dựng và xây dựng  
được thực hiện trên tinh thần “phê phán”. Đó  
là phương pháp làm việc biện chứng trong  
quá trình lãnh đạo xây dựng pháp luật.  
1.2. Xác định chủ thể và tổ chức lực  
lượng thực hiện là vấn đề được Hồ Chí  
Minh đặc biệt quan tâm trong lãnh đạo xây  
dựng pháp luật  
Xác định đúng đắn chủ thể và tổ chức  
hiệu quả lực lượng là yếu tố quyết định sự  
thành bại của sự nghiệp cách mạng Việt  
Nam. Là một phần trong hệ thống “việc cách  
mạng” Việt Nam, chất lượng xây dựng pháp  
luật cũng chịu sự ảnh hưởng quyết định của  
yếu tố đó. Trong toàn bộ quá trình lãnh đạo  
xây dựng pháp luật, Hồ Chí Minh rất quan  
tâm nhắc nhở quán triệt rõ chủ thể và tổ chức  
tốt lực lượng thực hiện. Theo đó:  
+ Quốc hội là cơ quan duy nhất và cao  
nhất có quyền lập pháp.  
Đề cập đến chủ thể của hoạt động xây  
dựng pháp luật, Hồ Chí Minh khẳng định:  
“Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập  
pháp. Những vấn đề quan trọng nhất của  
Nhà nước trong phạm vi toàn quốc đều do  
Quốc hội quyết định”9. Hồ Chí Minh nói rõ  
nguyên nhân của thẩm quyền đặc biệt đó ở  
chỗ nước ta là nước dân chủ, tất cả mọi  
quyền lực trong nước đều thuộc về Nhân  
dân; Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất  
của Nhà nước; Nhân dân sử dụng quyền lực  
thông qua Quốc hội do Nhân dân bầu ra và  
chịu sự kiểm soát của Nhân dân. Báo cáo  
trước Quốc hội về xây dựng Hiến pháp năm  
1959, Hồ Chí Minh nói rõ: Quốc hội quyết  
định chủ trương thực hiện sửa đổi Hiến  
pháp; quyết định thành lập Ban dự thảo Hiến  
pháp; xem xét, cho ý kiến để hoàn chỉnh dự  
thảo; thông qua Hiến pháp. Như vậy, Hồ Chí  
Minh khẳng định vai trò quyết định và toàn  
diện của Quốc hội đối với hoạt động xây  
7
8
9
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946.  
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.510.  
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.376.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
11  
Số 24 (424) - T12/2020  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
dựng Hiến pháp nói riêng, xây dựng pháp  
luật ở Việt Nam nói chung.  
+ Thành lập bộ phận chuyên trách dự  
thảo và hoàn chỉnh văn bản luật.  
trình xây dựng pháp luật. Hiến pháp năm  
1959 được xây dựng theo quy trình: (1) Từ  
nhu cầu thực tiễn, Quốc hội quyết định tiến  
hành “sửa đổi Hiến pháp”; (2) Quốc hội  
thành lập “Ban sửa đổi Hiến pháp”; (3) Ban  
sửa đổi Hiến pháp dự thảo, lấy ý kiến và  
hoàn chỉnh trình Quốc hội; (4) Quốc hội thảo  
luận, điều chỉnh và thông qua Hiến pháp; (5)  
Chủ tịch nước ký lệnh ban hành Hiến pháp.  
Trong quy trình nêu trên, Hồ Chí Minh  
nói rất rõ quá trình dự thảo, lấy ý kiến và  
hoàn chỉnh của “Ban sửa đổi Hiến pháp”.  
Bản dự thảo sau khi hoàn thành lần đầu đã  
được thảo luận, lấy ý kiến nhiều lần11. Đối  
tượng lấy ý kiến rất rộng rãi, từ cán bộ đến  
Nhân dân, cả đồng bào ở miền Nam và kiều  
bào ở nước ngoài. Hình thức lấy ý kiến đa  
dạng, từ hội nghị trực tiếp đến thông qua cơ  
quan báo chí và cả góp ý qua thư. Mỗi lần  
lấy ý kiến thì bản dự thảo lại điều chỉnh, bổ  
sung để hoàn thiện hơn. Sau đó, dự thảo  
Hiến pháp được trình Quốc hội thảo luận,  
cho thêm ý kiến; hoàn chỉnh và thông qua.  
Đó là kết quả làm việc rất nỗ lực và trách  
nhiệm “Ban sửa đổi Hiến pháp”.  
Cơ chế làm việc của các lực lượng thực  
hiện xây dựng pháp luật là tập trung dân chủ.  
Dân chủ không chỉ được phản ánh trong nội  
dung của hai văn bản luật đặc biệt quan  
trọng nêu trên mà còn thể hiện ngay trong  
quá trình xây dựng. Nghĩa là, dân chủ không  
chỉ thể hiện ở “sản phẩm” mà còn ở ngay  
trong phương thức làm việc để tạo ra sản  
phẩm. Thảo luận dân chủ diễn ra trong toàn  
bộ quá trình xây dựng hai bản Hiến pháp  
năm 1946 và năm 1959. Lấy ý kiến xây  
dựng Hiến pháp đã “trở thành một phong  
trào quần chúng rộng rãi có đủ các tầng lớp  
Nhân dân tham gia”. Ngay trong sự đa dạng  
của thành phần ban dự thảo Hiến pháp cũng  
Mặc dù là cơ quan duy nhất và cao nhất  
có thẩm quyền lập pháp, song, vì đặc điểm  
đông thành viên và cơ chế làm việc đặc thù  
nên toàn thể, Quốc hội khó có thể trực tiếp  
thực hiện việc dự thảo và hoàn chính văn  
bản luật; trong điều kiện đất nước có chiến  
tranh thì điều đó càng không thể. Do vậy,  
việc dự thảo và hoàn chỉnh văn bản luật  
được giao cho một bộ phận chuyên trách. Hồ  
Chí Minh rất quan tâm đến bộ phận này.  
Trên cương vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời  
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một trong  
những sắc lệnh sớm nhất được Hồ Chí Minh  
ký ngày 20 tháng 9 năm 1945 (số 34) quyết  
định thành lập “Ủy ban dự thảo và đệ trình  
Quốc hội một bản Hiến pháp cho Việt Nam  
dân chủ cộng hòa”. Ủy ban này gồm 7 thành  
viên10 do Hồ Chí Minh đứng đầu. Đây là Ủy  
ban có đa dạng thành phần, bao gồm cả  
những nhà lãnh đạo chính trị, người giỏi  
chuyên môn – nghiệp vụ về khoa học pháp  
lý nhà khoa học ở lĩnh vực khác; cả đảng  
viên cộng sản và người “ngoài Đảng”; cả  
người tham gia cách mạng lẫn người đã từng  
là đối tượng đấu tranh của cách mạng, đứng  
đầu chế độ quân chủ vừa bị lật đổ; cả người  
đang giữ cương vị của Đảng lẫn của chính  
quyền;… Hiến pháp năm 1959 cũng được  
dự thảo bởi một Ủy ban gồm 28 người do  
Hồ Chí Minh đứng đầu.  
+ Xác lập quy trình, cơ chế hoạt động  
và tinh thần làm việc trong xây dựng pháp  
luật.  
Qua một số văn bản được Hồ Chí Minh  
trình bày liên quan đến xây dựng một số văn  
bản luật đã gián tiếp cho thấy yêu cầu về quy  
10 Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy (Cựu hoàng Bảo Đại), Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn  
Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh).  
- Tháng 7 năm 1958, thảo luận trong cán bộ trung cấp và cao cấp thuộc các cơ quan quân, dân, chính,  
đảng.  
- Ngày 1 tháng 4 năm 1959, công bố để toàn dân thảo luận và góp ý kiến xây dựng.  
11 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.510.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
12  
Số 24 (424) - T12/2020  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
cho thấy sự dân chủ trong xây dựng văn bản  
luật gốc của một Nhà nước của dân, do dân,  
vì dân. Quá trình dân chủ đó được thực hiện  
trên nền tảng tập trung với sự chỉ đạo, lãnh  
đạo nhất quán; với sự phục tùng các quyết  
định của tập thể, phục tùng nghị quyết của  
Quốc hội thông qua Hiến pháp.  
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và  
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến  
năm 2010, định hướng đến năm 2020. Tại  
phiên họp thứ hai của Ban Chỉ đạo xây  
dựng Đề án tổng kết Nghị quyết số 48-  
NQ/TW, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị  
Kim Ngân nhận định: “Hệ thống pháp luật  
của nước ta đã có bước chuyển quan trọng  
sang hệ thống pháp luật của thời kỳ đổi mới  
toàn diện đất nước, tạo nền tảng thuận lợi  
cho phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế  
sâu rộng. Với vai trò là công cụ quản lý nhà  
nước và xã hội, pháp luật còn là công cụ để  
Nhân dân làm chủ, kiểm tra và giám sát  
quyền lực nhà nước”15. Tuy nhiên, về tổng  
thể, “Hệ thống pháp luật chưa thật sự hoàn  
chỉnh, đồng bộ; hiệu lực và tính khả thi  
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Pháp luật  
trên một số lĩnh vực còn thiếu ổn định, tính  
dự báo chưa cao, chất lượng chưa bảo đảm;  
việc sửa đổi, bổ sung còn nhiều. Quy trình  
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật qua  
nhiều tầng nấc, làm chậm tiến độ ban hành  
và tổ chức thực hiện16.  
Ở khía cạnh vận dụng tư tưởng Hồ Chí  
Minh vào công tác xây dựng pháp luật, có  
thể khẳng định, trong 15 năm qua, xây dựng  
pháp luật còn hạn chế ở một số khâu vốn khi  
sinh thời Hồ Chí Minh yêu cầu phải làm tốt,  
cụ thể:  
(1) Việc thể chế hóa chủ trương, đường  
lối của Đảng còn những hạn chế, có trường  
hợp tập trung vào sự phù hợp của văn bản  
luật đối với đường lối, chủ trương, thay vì  
thể chế hóa để hiện thực hóa; đối với những  
chính sách lớn hoặc đối với những dự án, dự  
Hồ Chí Minh quán triệt rõ tinh thần  
trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong quá  
trình xây dựng pháp luật. Đối với ban dự  
thảo hai bản Hiến pháp, Hồ Chí Minh luôn  
nhấn mạnh: “Đó là một nhiệm vụ rất nặng  
nề nhưng rất vẻ vang”12; “đó là một công tác  
đòi hỏi khá nhiều ngày giờ và đòi hỏi một sự  
cố gắng đặc biệt của toàn ban và của mỗi  
một ủy viên”13. Trong xây dựng luật, Hồ Chí  
Minh yêu cầu phải có sự nghiên cứu kỹ cả  
thực tiễn và lý luận. Về thực tiễn, Hồ Chí  
Minh nhấn mạnh phải nghiên cứu tình hình  
đất nước để văn bản luật phản ánh đúng đắn,  
phù hợp. Về lý luận, Hồ Chí Minh yêu cầu  
nghiên cứu văn bản luật trước đó, văn bản  
luật của các nước khác và điều rất đặc biệt  
là nghiên cứu cả văn bản luật của một số  
quốc gia tư bản điển hình. Khai mạc phiên  
họp đầu tiên của Ban sửa đổi Hiến pháp, Hồ  
Chí Minh nói: “chúng ta cần phải nghiên cứu  
kỹ tình hình của nước ta, nghiên cứu lại bản  
Hiến pháp 1946, phải tham khảo Hiến pháp  
của các nước bạn và của một số nước tư bản  
có tính chất điển hình”14.  
2. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện  
pháp luật ở Việt Nam hiện nay theo tư  
tưởng Hồ Chí Minh  
Năm 2020 đánh dấu 15 năm thực hiện  
Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005  
12 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.511.  
13 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.510.  
14 Trích theo Văn Chúc, Tổng kết 15 năm triển khai Nghị quyết số 48 của Bộ Chính trị, Báo Nhân dân điện  
15 Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04 tháng 04 năm 2016, của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị  
quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật  
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.  
16 Báo cáo đánh giá 3 năm thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 của Bộ Tư pháp,  
Tài liệu Hội nghị Đánh giá 3 năm thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, ngày  
13-12-2018, tr. 35.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
13  
Số 24 (424) - T12/2020  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
thảo văn bản quy phạm pháp luật có tác động  
lớn, phức tạp, nhạy cảm chưa kịp thời xin ý  
kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư,  
Ban Cán sự Đảng và các cấp uỷ Đảng17.  
(2) Phát huy dân chủ, lấy ý kiến trong  
xây dựng luật, đặc biệt là ý kiến của Nhân  
dân cũng còn những hạn chế. Lấy ý kiến  
phản biện độc lập của các chuyên gia một số  
mặt còn chưa tốt, trong đó có một phần  
nguyên nhân từ quy định mức chi chưa tạo  
được động lực. “Cơ chế để Nhân dân tích  
cực tham gia vào các hoạt động xây dựng  
pháp luật và giám sát thi hành pháp luật chưa  
được phát huy”18.  
(3) Hạn chế trong tổ chức lực lượng xây  
dựng pháp luật: Giữa các cơ quan trong xây  
dựng và tổ chức thực thi pháp luật chưa có  
cơ chế phân công, phối hợp đồng bộ, có lúc  
còn phân tán, có nơi còn cục bộ. “đội ngũ  
cán bộ, công chức làm công tác xây dựng  
pháp luật chưa được tăng cường để đáp ứng  
yêu cầu nhiệm vụ”19.  
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự  
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.  
Trong điều kiện hiện nay, cần nghiên cứu để  
xác lập cho được những nguyên tắc chính trị  
cơ bản mà mọi văn bản luật khi xây dựng  
phải đáp ứng. Các nguyên tắc được Hồ Chí  
Minh thể hiện đương thời: (1) Nội dung văn  
bản luật phải phản ánh chế độ chính trị của  
dân, do dân, vì dân; (2) Nội dung văn bản  
luật phải phản ánh thực tiễn đất nước, phục  
vụ đường lối chính trị của sự nghiệp cách  
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản  
Việt Nam; (3) Nội dung văn bản luật phải thể  
hiện sự kế thừa và phát triển, phù hợp với  
các giá trị tiến bộ phổ biến của luật pháp  
quốc tế. Các nguyên tắc này còn nguyên giá  
trị. Trên cơ sở các nguyên tắc này nghiên  
cứu vận dụng vào điều kiện kiện nay để xác  
lập những nguyên tắc đúng đắn định hướng  
nội dung của văn bản luật trong quá trình  
xây dựng.  
Hai là, hình thành được lực lượng  
chuyên trách, chuyên nghiệp thực hiện công  
tác dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.  
Điều này luôn cần thiết khi đội ngũ cán bộ,  
công chức làm công tác xây dựng pháp luật  
chưa được tăng cường để đáp ứng yêu cầu  
nhiệm vụ. Từ thực tiễn chỉ đạo xây dựng  
pháp luật của Hồ Chí Minh, lực lượng  
chuyên trách công tác dự thảo văn bản luật  
chỉ cần đủ, không cần đông; lấy yêu cầu xây  
dựng luật làm cơ sở để định mức “đủ”. Lực  
lượng dự thảo văn bản luật nên có thành  
phần đa dạng, có cả những người lãnh đạo  
chính trị và người am hiểu chuyên môn  
nghiệp vụ. Mạng lưới chuyên gia xây dựng  
pháp luật cần phải được phát huy, trong đó  
cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến tầm  
vóc chuyên môn của chuyên gia, tránh chỉ  
nghiêng nặng vào khía cạnh chính trị; tránh  
(4) Quy trình xây dựng luật còn tồn tại  
hạn chế với nhiều tầng nấc dẫn đến có trường  
hợp thụ động, làm chậm tiến độ ban hành và  
tổ chức thực hiện. Việc tổng kết thực tiễn,  
nghiên cứu lý luận về pháp luật trên bình diện  
chung hay đối với nhiều văn bản cụ thể có  
lúc còn chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn  
và nhiệm vụ quản lý nhà nước; trong đó có  
nghiên cứu, tham khảo luật pháp quốc tế và  
của các quốc gia có tính điển hình.  
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây  
dựng pháp luật, trong thời gian tới việc xây  
dựng và hoàn thiện pháp luật của nước ta cần  
thực hiện tốt một số giải pháp sau:  
Một là, xác định rõ các nguyên tắc, đặc  
biệt các nguyên tắc chính trị chủ yếu, để  
công tác xây dựng pháp luật được thực hiện  
đúng định hướng chính trị - xây dựng Nhà  
17 Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04 tháng 04 năm 2016, của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị  
quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật  
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.  
18 Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04 tháng 04 năm 2016, của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị  
quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật  
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.  
NLGHPIÊPNHCÁPU  
14  
Số 24 (424) - T12/2020  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
tư duy “người nhà”, “người quen” khi quy tụ  
chuyên gia dẫn đến lực lượng chuyên trách  
dự thảo pháp luật bị bó hẹp. Nghiên cứu cơ  
chế thu hút khi mời chuyên gia là người Việt  
Nam ở nước ngoài và chuyên gia là người  
nước ngoài để gia tăng nguồn tư vấn xây  
dựng luật, góp phần tham khảo hiệu quả tư  
duy và kinh nghiệm xây dựng luật ở các quốc  
gia tiến bộ. Trong cơ chế quy tụ chuyên gia  
vào quá trình tư vấn, hoàn thiện dự thảo luật  
cần chú ý cơ chế đãi ngộ tương xứng đối với  
các chuyên gia trong nước; đối với chuyên  
gia là người Việt Nam ở nước ngoài, bên  
cạnh cơ chế đãi ngộ về vật chất, cần chú ý  
khơi gợi lòng yêu nước, tinh thần trách  
nhiệm xây dựng và phát triển Tổ quốc - điều  
mà Hồ Chí Minh đã thể hiện rất rõ và rất  
hiệu quả.  
Ba là, thực hiện phương châm toàn dân  
xây dựng và thực hiện pháp luật; không chỉ  
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ  
nghĩa mà còn phải xây dựng xã hội pháp  
quyền. Sản phẩm dự thảo luật của lực lượng  
chuyên trách chỉ có thể phản ánh ý chí,  
nguyện vọng của Nhân dân để được đồng  
thuận và thực hiện tốt khi có sự tham gia tốt  
của Nhân dân vào quá trình xây dựng.  
Những hạn chế trong giáo dục ý thức chấp  
hành pháp luật trong Nhân dân có phần lý do  
từ hiểu biết chưa đầy đủ của Nhân dân về  
pháp luật. Điều đó tác động xấu đến hoạt  
động xây dựng pháp luật. Hồ Chí Minh đã  
lãnh đạo xây dựng pháp luật với sự tham gia  
đóng góp rộng rãi của các tầng lớp Nhân  
dân. Người thực hiện điều đó với tinh thần  
kính dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, hết sức  
cầu thị nên ngay cả trong điều kiện chiến  
tranh vẫn có sự tham gia rộng rãi của Nhân  
dân vào quá trình xây dựng luật, cả Nhân  
dân ở miền Nam đang bị xâm lược và ở nước  
ngoài. Đó cũng chính là quá trình tuyên  
truyền, phổ biến pháp luật ở Nhân dân; thực  
hiện toàn dân xây dựng và thực hiện pháp  
luật. Hiện nay, lấy ý kiến Nhân dân phải chú  
ý hai chiều: (1) Người lấy ý kiến phải thực  
sự cầu thị với tinh thần trọng dân, hiểu dân;  
(2) Nhân dân – người được lấy ý kiến – phải  
thể hiện ý thức trách nhiệm trước đất nước.  
Muốn vậy cần chú ý chỉ rõ sự liên quan của  
văn bản luật với đời sống của Nhân dân và  
khơi dậy tinh thần trách nhiệm của Nhân  
dân. Đặc biệt, cần hiểu dân, hiểu nếp sống,  
văn hóa, truyền thống, hiểu cách thức tiếp  
nhận cái mới của dân, để từ đó làm ra các  
văn bản quy phạm pháp luật đi vào lòng dân,  
tức là, mỗi văn bản quy phạm pháp luật ngay  
từ khi dự thảo đã phải được chuyển tải tới  
Nhân dân để tránh những “cú sốc” pháp lý  
khi văn bản ra đời.  
Bốn là, mạnh dạn, dứt khoát đối với  
những “trở lực” ảnh hưởng tiêu cực đến xây  
dựng và thực thi pháp luật. Hồ Chí Minh  
luôn tỏ thái độ kiên quyết đối với những biểu  
hiện tiêu cực, những suy nghĩ và hành vi sai  
trái, những yếu tố cản trở sự nghiệp cách  
mạng Việt Nam, trong đó có xây dựng pháp  
luật. Hồ Chí Minh xử lý nghiêm minh những  
sai trái trong quá trình thực hiện pháp luật.  
Trong phương thức làm việc, Hồ Chí Minh  
loại trừ tư tưởng và thói quen đã trở thành  
lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn, cản trở  
sự vận động và phát triển. Người phê phán  
thái độ xem nhẹ dân; Người luôn thể hiện  
tinh thần cầu thị, lắng nghe ý kiến của Nhân  
dân và tiếp thu sửa chữa những đóng góp  
hợp lý. Hiện nay, quá trình xây dựng pháp  
luật đã bộc lộ nhưng yếu tố trở lực, được  
tổng kết và chỉ rõ. Cần học tập và vận dụng  
tinh thần kiên quyết của Hồ Chí Minh để  
sớm loại trừ các yếu tố này, tránh tình trạng  
“thấy” nhưng để kéo dài, chậm xử lý. Xây  
đi đôi với chống luôn là quy luật thắng lợi  
đã được Hồ Chí Minh nêu lên và thực hiện  
ở mọi công việc cách mạng  
Hồ Chí Minh quan tâm đến vấn đề chính  
quyền bao nhiêu thì cũng dành bấy nhiêu tâm  
sức lãnh đạo xây dựng nền pháp quyền, xây  
dựng pháp luật. Sự quan tâm đó khởi phát từ  
nhu cầu công lý trong đấu tranh giải phóng  
dân tộc, tiếp tục trở thành hoạt động thực tiễn  
trong hơn hai thập kỷ Hồ Chí Minh đứng đầu  
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Di  
sản tư tưởng và thực tiễn đó là mẫu mực về  
lãnh đạo xây dựng pháp luật, trở thành tài sản  
tinh thần to lớn và quý giá, soi đường cho  
công tác xây dựng pháp luật hiện nay  
n
NLGHPIÊPNHCÁPU  
15  
Số 24 (424) - T12/2020  
pdf 8 trang yennguyen 20/04/2022 1680
Bạn đang xem tài liệu "Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvan_dung_tu_tuong_ho_chi_minh_vao_xay_dung_va_hoan_thien_pha.pdf