Vai trò và kỹ năng của nhà quản trị

Vì Sao Nhân Viên Thụ Động?  
người quản lý, đã bao giờ bạn cảm thấy khó chịu vì nhân viên quá thụ động, công việc cũng chờ lệnh  
của sếp?  
người quản lý, đã bao giờ bạn cảm thấy khó chịu vì nhân viên quá thụ động, công việc cũng chờ lệnh của sếp?  
Nếu thường rơi vào tình huống này, bạn hãy tự hỏi liệu mình có phải là nguyên nhân? Nhiều vị lãnh đạo thường nghĩ  
mình là người hoàn hảo, làm việc cũng hay, hiểu biết tất cả mọi việc và luôn làm giỏi hơn cấp dưới. Chính vì tâm lý  
đó và vì tính cầu toàn mà đôi khi những vị lãnh đạo này làm cả các công việc trước đó họ đã giao cho cấp dưới. Thế  
rồi đến lúc quá mệt mỏi, họ lại than vì sao mình phải cáng đáng cả ngàn công chuyện và nhân viên sao mà quá kém.  
Phía nhân viên cũng chẳng vui khi "được" sếp gánh việc giúp mình.Những việc như thế không mấy xa lạ trong các công  
ty nếu sự lãnh đạo, điều hành và quản lẫn lộn. Vậy đâu những nguyên nhân cơ bản của sự lệch lạc này?  
Người lãnh đạo là chuyên gia một lĩnh vực  
Nguyên nhân thứ nhất người lãnh đạo công ty hiện nay vốn một chuyên gia trong lĩnh vực khoa học, công nghệ  
hay tài chính, tiếp thị… nghĩa, họ người có tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm về vấn đề tác nghiệp trực tiếp của một  
khâu hay nhiều khâu chuyên môn.  
thế, khi được đề bạt lên vị trí quản điều hành một phòng, ban lớn hay thậm chí là lãnh đạo cả doanh nghiệp, họ  
vẫn giữ thói quen là trực tiếp "thực hiện". Sự trực tiếp "thực hiện" thể hiện qua mệnh lệnh quá cụ thể, họ không cho cấp  
dưới tham gia vào quá trình "sửa soạn" quyết định.  
Hệ lụy của sự lãnh đạo theo kiểu này là nhân viên chỉ biết phục tùng, không phải suy nghĩ hay góp sức cho các quyết  
định được đưa ra. Từ đó nhân viên trở thành một người thừa hành, thụ động. Bởi lẽ nếu công việc kết quả thì công  
đầu của sếp, còn nếu không thành công thì cũng tại sếp.  
Khi nhân viên không được động viên để tham gia sự nghiệp chung, tính sáng tạo - một tính năng then chốt của sự đổi  
mới và phát triển - của mỗi cá nhân trong công ty sẽ bị mai một. Khi nhân viên chỉ làm việc như một cái máy nhận lệnh  
thì sự trì trệ chắc chắn sẽ xuất hiện. rồi tính ỷ lại trong bộ máy thừa hành doanh nghiệp cũng sẽ đến, cấp dưới khi  
gặp việc khó hay đột xuất sẽ thụ động trông chờ sếp ra lệnh. Trong khi đó khoa học quản trị là khoa học nhân văn chứ  
không phải là khoa học máy móc.  
Người lãnh đạo quá cầu toàn  
Nguyên nhân thứ hai là người lãnh đạo quá cầu toàn, tỉ mỉ đến độ không tin sức mạnh của tập thể cấp dưới. Những  
người lãnh đạo như thế thường sợ cấp dưới làm sai, không hiểu tầm quan trọng của công việc, và vì thế họ đứng ra  
làm thay cho cấp dưới. Tình trạng này cũng sẽ tạo ra các hệ lụy là nhân viên trì trệ, thụ động ỷ lại như đã phân tích ở  
trên.  
Người lãnh đạo quá độc tài chuyên chế  
Nguyên nhân thứ ba là người lãnh đạo quá "độc tài chuyên chế" hoặc là quá tự cao. Ba hệ lụy trên rất khả năng sẽ  
xảy ra kèm thêm hệ lụy thứ tư sự đối kháng do cấp dưới quá bức xúc.Thật ra người lãnh đạo thể đảm nhận một  
số công việc chuyên môn. Tuy nhiên những công việc chuyên môn do lãnh đạo thực hiện phải được phối hợp lồng  
trong khối công tác tác nghiệp của tập thể cấp dưới.  
Tiến trình lãnh đạo điều hành nên được thiết lập theo các bước như sau: lãnh đạo ấn định mục tiêu, rồi giao mục tiêu  
cho từng phòng/ban liên quan. Sau đó các phòng/ban nghiên cứu lập kế hoạch hành động kèm với nguồn lực cần phải  
có. Lãnh đạo cùng với những người liên quan thảo luận, xem xét rồi ra quyết định. Phòng/ban liên quan sẽ thực hiện  
với sự giám sát, hỗ trợ của lãnh đạo.  
Các nhân viên dưới quyền sẽ năng động, sáng tạo, nhiệt tâm hợp tác với cấp trên khi cấp trên biết khơi dậy nguồn trí  
lực của tập thể cấp dưới. Muốn làm được điều này thì người lãnh đạo cần:  
- Hỏi cấp dưới rằng vấn đề này phải giải quyết như thế nào? Sau đó thảo luận với cấp dưới những ý kiến đó.  
- Có những phiên làm việc để giám sát, hỗ trợ cho cấp dưới.  
- Chấp nhận có làm thì có sai.  
Nếu lãnh đạo giám sát, hỗ trợ xuyên suốt thì dù sai sót có xảy ra cũng sẽ ở mức cho phép và có thể sửa sai được. Một  
khi người đứng đầu doanh nghiệp thực hiện việc lãnh đạo điều hành như thế thì cấp dưới sẽ cảm thấy hưng phấn  
trong công việc vì chính họ là tác giả của các quyết định những điều họ cần làm. Về phía người lãnh đạo, khi thực hiện  
các bước như trên sẽ có thêm thời gian để làm nhiều việc khác có lợi cho công ty đúng với tầm của mình.  
Do đó các nhà lãnh đạo trước khi trách cấp dưới sao quá thụ động, trì trệ ỷ lại hãy nên tự hỏi: "Mình có phải là  
nguyên nhân?"  
Nếu biết được lý do làm cho mọi người cư xử theo một cách nào đó, thì bạn đã nắm được chìa khóa để thu phục sự  
cống hiến của họ. Hãy cố gắng tìm hiểu nhu cầu của mọi người để động viên họ nhờ đó đáp ứng được nhu cầu của  
công ty.  
Tìm hiểu về hành vi:  
1.  
2.  
Hãy cố tác động đến hành vi, thay vì cố thay đổi tính cách  
Nên khuyến khích và khen thưởng những hành vi mang tính xây dựng  
Tìm hiểu nhu cầu con người:  
3.  
4.  
5.  
Hãy chú ý đáp ứng tốt nhu cầu cấp thấp của con người  
Hãy cám ơn mọi người bất cứ khi nào họ xứng đáng được như vậy.  
Ngoài những lời khen ngợi riêng, hãy ca ngợi một cách công khai để nâng cao lòng tự hào.  
Tìm hiểu những kiến thức cơ bản:  
6.  
7.  
8.  
9.  
Hãy đặt những cây hỏi cởi mở, khuyến khích sự trung thực.  
Hãy tạo nhiều cơ hội để mọi người bày tỏ cảm xúc thật của họ.  
Hãy đặt câu hỏi cho đến khi bạn hiểu người khác muốn nói gì.  
Hãy luyện tập kỹ năng đọc ngôn ngữ cử chỉ của mọi người.  
Xây dựng sự tự tin:  
10. Hãy đến giúp mọi người ngay nếu nhận thấy rằng nhiệm vụ nằm ngoài tầm của họ.  
11. Tránh đưa ra những cam đoan giả tạo – hãy tỏ ra thắng thắn nếu tin tức không tốt.  
12. Luôn cố gằng tạo điều kiện cho mọi người cung nhau làm việc và giao tiếp một cách do và cởi mở.  
Giao tiếp rõ ràng:  
13. Hãy rời khỏi bản làm việc và nói chuyện với nhân viên một cách thoải mái.  
14. Hãy tách các đơn vị hoạt động lớn thành những đơn vị nhỏ hơn với mối quan hệ chặt chẽ.  
15. Hãy loại bỏ các cẩm nang và biểu mẫu, chỉ thay thể những cái thật sự cần thiết.  
16. Hãy yêu cầu khách hàng gợi ý và phàn nàn.  
17. Hãy hành động nhanh chóng để loại bỏ những tin đồn nếu chúng không chính xác.  
18. Đảm bảo rằng tất cả những người trong các cuộc họp cần mặt ở đó.  
Thu phục niềm tin và sự cống hiến:  
19. Hãy tạo cơ hội cho nhân viên làm việc để chứng tỏ rằng bạn tin tưởng họ.  
20. Đảm bảo rằng bạn giải quyết được nhu cầu về trí tuệ và tinh cảm của con người.  
21. Hãy lắng nghe những nhân viên không hài lòng – họ thể bộc bạch những vấn đề nghiệm trọng.  
22. Hãy cố gắng chuyển tất cả nhân viên thành “những nhà vô địch”.  
23. Hãy tìm hiểu cẩn thận khi số liệu về tỷ lệ giữ chân nhân viên bắt đầu sụt giảm đáng kể.  
24. Hãy khuyến khích mọi người tham gia vào một dự án cá nhân.  
Điều chỉnh phương pháp:  
25. Hãy áp dụng kỷ luật nhưng kết hợp với ủy quyền sự tin tưởng.  
26. Những người yêu thích công việc của họ sẽ tạo ra những kết quả tốt nhất.  
27. Hầu hết mọi người thích trách nhiệm hơn là có quá ít công việc để làm.  
28. Cố gằng giảm bớt các tầng nấc khi cải cách qui trình làm việc.  
10 lý do hàng đầu thể dẫn đến sự thất bại của nhà quản lý  
thể rất nhiều người đã từng làm việc dưới quyền của những ông chủ rất khó chịu. thể họ không tuân thủ kỷ  
luật lao động hoặc không đủ khả nǎng để làm việc đại diện cho ông chủ của mình. Tuy nhiên, theo Tiến sỹ Morgan W.  
McCall, giáo sư về quản lý và tổ chức tại Đại học Nam California (Mỹ) thì dù người lao động lỗi thế nào đi nữa,  
người quản cũng rất thể sẽ mắc phải 1 trong các lỗi sau mà có thể sẽ khiến sự nghiệp quản của anh ta bị thất  
bại. Đó là:  
1. Không nhạy cảm  
2. Hành động một cách khác thường  
3. Phản bội lại niềm tin  
4. Kiểm soát chặt chẽ quá mức  
5. Tham vọng quá mức  
6. Không có khả nǎng suy nghĩ một cách chiến lược  
7. Không có khả nǎng thích ứng với người quản mới  
8. Quá phụ thuộc vào một người chỉ bảo cho mình  
9. Đưa ra các quyết định nhân sự không hiệu quả  
10. Không có khả nǎng giải quyết các vấn đề về hoạt động của phòng ban  
Bạn là nhà quản lý? Bạn sẽ nghĩ sao nếu mình mắc phải một trong những lỗi này. Theo McCall, có rất nhiều cách để  
phát hiện điều đó thường người khác dễ nhận thấy điều đó hơn chính bản thân bạn. Vấn đề đặt ra là liệu bạn có  
đủ can đảm để hỏi họ? Nếu có can đảm thì liệu bạn những mối quan hệ tốt với ai để họ trả lời bạn một cách thành  
thật?  
Bạn cũng thể tự mình nhận ra điều đó tùy thuộc vào lỗi bạn mắc phải. Chẳng hạn như:  
Nếu bạn nghi ngờ mình đang quản chặt chẽ quá mức, hãy đứng ra xa và xem mọi người đang thực hiện mệnh lệnh  
của bạn một cách nhiệt tình hay đơn giản họ tuân lệnh. Nếu bạn can thiệp vào một dự án mà bạn đã giao cho  
người khác, liệu họ tỏ ra không tức giận chống đối?  
Đưa ra các quyết định nhân lực không hiệu quả sẽ được thể hiện rõ trong các trường hợp khi bạn thường xuyên hình  
thành các nhóm trong tổ chức nhưng hoạt động của chúng không hiệu quả, hoặc nếu bạn thường tuyển dụng những  
người theo hình tượng riêng của mình hoặc chỉ tuyển những chuyên gia. Giáo McCall cho rằng: "Càng đảm nhận  
trọng trách quản lý cao hơn, bạn càng cần những người những kỹ nǎng khả nǎng ở tầm rộng hơn dưới quyền  
để giúp đỡ bạn lãnh đạo".  
Những dấu hiệu cho thấy bạn tham vọng quá mức chẳng hạn như quá ước ao được lên một vị trí quản lý cao hơn  
hoặc thường làm những việc người khác phải chịu phí tổn. Giáo McCall cho rằng: "Đó là khi mà một vài giá trị  
đạo đức quý báu của bạn đang chuyển sang khung màu tối. Nguồn gốc của sự lãnh đạo thành công là hiểu rõ giá trị  
của mình".  
Giáo McCall cũng cho rằng, sẽ một sai lầm khi phụ thuộc quá nhiều vào những điều tra về tình hình hoạt động.  
Ông nói: "Một số điều tra hữu ích hơn những điều tra khác. Tuy nhiên, những nhà quản lý khát khao những thông tin  
phản hồi thường tạo ra một môi trường làm việc nơi những cộng sự và nhân viên của mình sợ phải nói ra sự thật".  
Giáo McCall cho rằng nên dùng những bản tổng kết đánh giá làm một công cụ hữu ích. Ông giải thích: "Nếu có  
những khác biệt giữa những nhóm đánh giá về bạn, chẳng hạn như xếp của bạn thì nghĩ bạn rất tuyệt vời trong  
việc đó trong khi nhân viên của bạn lại nghĩ bạn không giỏi giang gì về nó, hoặc giả như bạn bị đều đánh giá thấp  
về một loạt các tiêu chí thì ít nhất bạn cũng biết phải đặt ra câu hỏi nào cho mình và cho người khác".  
lẽ thách thức lớn nhất đối với việc vượt qua những lỗi lầm hay sai lầm "chết người" nói trên là phải học cách nhận  
trách nhiệm về những lỗi lầm đó trước tiên. Ông McCall nói: "Khi tôi phỏng vấn những nhà quản lý mà sự nghiệp của  
anh ta có vẻ đang tụt dốc, tôi nhìn thấy một xu hướng gắn những điều đã xảy ra với những nguyên nhân bên ngoài.  
Họ không nhận thức được rằng một phần trong những nguyên nhân đó từ chính họ. Thậm chí nếu chỉ chiếm 10  
- 20% thì cũng điều bạn phải chú ý và tìm cách khắc phục"  
Ba phong cách lãnh đạo lớn  
Phong cách lãnh đạo trực tiếp rất thích hợp khi có một mệnh lệnh từ cấp trên mô tả những cần phải làm và phải  
làm nó như thế nào. Khi đó, nhà quản lý là người chỉ huy thực hiện nhiệm vụ, làm đúng những được yêu cầu.  
Phong cách quản lý này cũng thích hợp trong trường hợp các nhân viên còn hạn chế về kinh nghiệm hoặc thiếu  
những kỹ năng cần thiết để hoàn thành công việc. Nhà quản lý theo phong cách này đưa ra các bước đi và hành  
động, kiểm soát những khâu quan trọng để các nhân viên có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ.  
Văn hóa quản lý lâu nay vẫn được xem là cấu thành bởi rất nhiều phong cách lãnh đạo khác nhau, bao gồm: quyết  
đoán, độc đoán chuyên quyền, tổng thể, thủ lĩnh, đối tác, điều khiển, trực tiếp, ủy thác, tự do, ủng hộ, định hướng,  
nhóm… Song trên thực tế, theo các nhà nghiên cứu chỉ có ba phong cách lãnh đạo cơ bản là: lãnh đạo trực tiếp;  
lãnh đạo dựa trên nền tảng của sự trao đổi, thảo luận và lãnh đạo ủy thác. Ba phong cách này theo tiếng Anh đều  
bắt đầu bằng chữ cái D (Directing; Discussing; Delegating) nên còn được gọi là “Phong cách lãnh đạo 3-Ds” (The 3-  
Ds of Management Style).  
Mỗi phong cách lãnh đạo trên đều những điểm tích cực hạn chế nhất định, song chúng khác nhau ở một số  
điểm cơ bản như: cách truyền đạt mệnh lệnh; cách thiết lập mục tiêu; ra quyết định; quá trình kiểm soát và sự ghi  
nhận kết quả.  
1. Phong cách lãnh đạo trực tiếp  
Những nhà quản lý theo phong cách này thường nói với nhân viên rằng họ phải làm gì, làm như thế nào và khi nào  
thì phải hoàn thành. Họ phân công vai trò và gắn trách nhiệm cho từng người, thiết lập các tiêu chuẩn dự kiến  
kết quả họ mong muốn đạt được.  
- Cách thức giao tiếp với nhân viên: Nhà quản lý nói, nhân viên lắng nghe và sau đó phát biểu ý kiến của mình.  
Thông thường, những nhà quản lý có phong cách này thường đưa ra các chỉ dẫn chi tiết, vậy, nhân viên biết  
chính xác họ phải làm gì. Cách giao tiếp của nhà quản lý là rõ ràng, ngắn gọn và xúc tích, những gì màu mè và kiểu  
cách không hợp với họ. Khi muốn nhận thông tin phản hồi từ nhân viên, họ thường chỉ đặt một câu hỏi: anh đã hiểu  
cần phải làm gì chưa? - Thiết lập mục tiêu: Nhà quản sẽ thường thiết lập các mục tiêu ngắn hạn với nhân viên, ví  
dụ: “Mục tiêu của anh trong tháng này là phải bán được 15 chiếc xe ô-tô”. Khi mục tiêu đã được xác định rõ ràng và  
thời gian cũng được ấn định, thì người nhân viên biết rõ nhà quản lý mong chờ ở anh ta điều gì. Các mục tiêu và  
thời hạn thường động lực thúc đẩy con người.  
- Cách thức ra quyết định: “Tôi muốn anh dừng ngay những việc đang làm và giúp Sue chuẩn bị một phòng họp  
dành cho hội thảo”. Nhà quản thường quyết định phần lớn nếu không muốn nói là tất cả mọi việc từ lớn đến nhỏ.  
Khi nảy sinh vấn đề cần giải quyết, nhà lãnh đạo đánh giá các sự lựa chọn, ra quyết định trực tiếp hướng dẫn  
nhân viên những hành động họ cần phải thực hiện.  
- Kiểm soát sự thực hiện và cung cấp thông tin phản hồi: Những nhà quản thường thiết lập các khâu kiểm soát  
nhất định để điều khiển quá trình thực hiện công việc. Cách đưa mệnh lệnh của họ thường là: “Hãy quay trở lại gặp  
tôi vào lúc 11h trưa và báo cáo tóm tắt những công việc mà anh đã làm xong”. Các nhà lãnh đạo này thường xuyên  
cung cấp thông tin dưới dạng các hướng dẫn cụ thể về cách làm thế nào để cải tiến công việc tốt hơn.  
- Sự khen thưởng và ghi nhận công việc: Điều khiến cho nhà lãnh đạo theo phong cách trực tiếp cảm thấy hạnh  
phúc? Đó là khi nhân viên dưới quyền làm đúng theo sự hướng dẫn của họ. “Công việc rất tuyệt vời, anh đã làm  
chính xác những gì mà tôi đã nói với anh”. Đó là câu nói thể hiện thái độ hài lòng của họ đối với nhân viên.  
Phong cách lãnh đạo trực tiếp rất thích hợp khi có một mệnh lệnh từ cấp trên mô tả những cần phải làm và phải  
làm nó như thế nào. Khi đó, nhà quản lý là người chỉ huy thực hiện nhiệm vụ, làm đúng những được yêu cầu.  
Phong cách quản lý này cũng thích hợp trong trường hợp các nhân viên còn hạn chế về kinh nghiệm hoặc thiếu  
những kỹ năng cần thiết để hoàn thành công việc. Nhà quản lý theo phong cách này đưa ra các bước đi và hành  
động, kiểm soát những khâu quan trọng để các nhân viên có thể dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ.  
2. Phong cách lãnh đạo dựa trên sự trao đổi, thảo luận  
Những nhà quản sử dụng phong cách này thường tận dụng thời gian để thảo luận các vấn đề về kinh doanh.  
Điều sẽ xảy ra trong một cuộc thảo luận sôi nổi? Nhân viên đưa ra các ý kiến, đặt câu hỏi, lắng nghe, cung cấp  
thông tin phản hồi, những giả định về thách thức và các chương trình đào tạo khi cần thiết. Nhà quản lý là người  
đảm bảo chắc chắn các ý kiến đều được thảo luận cặn kẽ biến thành một cuộc tranh luận thực sự. Họ đóng vai  
trò như một nhân tố đảm bảo cho các cuộc thảo luận đi đúng hướng tất cả mọi nhân viên đều cơ hội góp ý  
kiến.  
- Cách thức giao tiếp: Giao tiếp hai chiều là quy tắc của các nhà lãnh đạo thuộc phong cách này. “Họ đi xung quanh  
bàn và tạo cho mọi người cơ hội được những người khác thảo luận về ý kiến của mình”. Nhà quản sẽ dành rất  
nhiều thời gian để đặt câu hỏi lắng nghe. Họ cùng hội thoại với nhân viên và chia sẻ các ý kiến của mình. Đặt ra  
những câu hỏi đúng tập trung vào vấn đề thảo luận vẽ ra ý tưởng của mọi nhân viên là cách thức giao tiếp phổ  
biến nhất của họ.  
- Thiết lập mục tiêu: “Ingrid, bạn nghĩ mục tiêu bán hàng của chúng ta nên thiết lập cho quý tư năm nay là gì?”. Sau  
khi thảo luận cặn kẽ, mục tiêu sẽ được thiết lập. Tận dụng sự thảo luận của nhiều người để kết nối những tài năng  
kiến thức của từng nhân viên riêng lẻ để đạt được mục tiêu đề ra là phong cách của nhà quản lý này.  
- Ra quyết định: “Chúng ta đang gặp vấn đề khó khăn về việc kiểm số lượng hàng hóa hiện đang tồn kho. Bạn  
nghĩ chúng ta nên hành động như thế nào?”. Đó là cách đặt câu hỏi trước khi ra quyết định của các nhà lãnh đạo  
thuộc phong cách này. Quyết định chỉ được đưa ra sau khi có sự cộng tác và phối hợp của nhân viên. Cả nhà quản  
lý và nhân viên đều đóng vai trò chủ động, tích cực trong việc xác định vấn đề, đánh giá sự lựa chọn và ra quyết  
định.  
- Kiểm soát việc thực hiện và cung cấp thông tin: Nhà quản lý và nhân viên cùng kiểm soát quá trình thực hiện và  
thảo luận xem cần phải tiến hành những hành động nào. Công việc sẽ đạt được kết quả tốt nhất khi cả hai bên cùng  
cởi mở và có những điều chỉnh khi thấy cần thiết.  
- Khen thưởng và ghi nhận công lao: “Jason, anh đã làm được một điều tuyệt vời khi đưa ra cơ cấu tổ chức như thế  
này”. Các nhà quản lý ghi nhận những thành quả đóng góp của các nhân viên trong cuộc thảo luận, xây dựng ý  
tưởng cùng với người khác và gợi mở ra những ý tưởng mới.  
Phong cách lãnh đạo dựa trên trao đổi thảo luận đặc biệt thích hợp khi cần câu trả lời cho các vấn đề như: “Mục  
tiêu của chúng ta là gì?”; “Tiêu chuẩn chất lượng chúng ta cần là gì?”; “Tiến trình thực hiện công việc nên tiến hành  
như thế nào?”; “Ai nên làm công việc này?”; “Dạng kiểm soát và thông tin phản hồi nào là cần thiết?”. Phong cách  
thảo luận thường hiệu quả khi nhân viên là những người có chính kiến riêng và tự tin nói ra chính kiến của mình.  
Nhà quản sẽ xác định những cần phải làm và làm như thế nào để tăng sự ràng buộc của nhân viên với những  
sẽ xảy ra.  
3. Phong cách lãnh đạo ủy thác, giao phó  
Những nhà quản sử dụng phong cách này thường giải thích hoặc những cam kết về các công việc cần được  
thực hiện và khi nào phải hoàn thành công việc đó. Còn cách thức làm việc thì toàn quyền do người nhân viên  
quyết định. - Cách thức giao tiếp: Đối với những công việc cần thực hiện, các giao tiếp thể chỉ một chiều: “Tôi  
muốn anh sẽ phát biểu một bài diễn văn 15 phút về chương trình đền mới của công ty trong buổi họp ngày thứ  
Ba”. Trong nhiều trường hợp khác lại là hai chiều: “Chúng ta hãy cùng thảo luận những việc cần làm trong kế hoạch  
tiếp thị mà anh vừa thiết kế nhé!”. Giao tiếp để xem xét lại những đã được thực hiện và cách ngăn ngừa những  
cản trở trong quá trình thực hiện.  
- Thiết lập mục tiêu: Cũng giống như cách thức giao tiếp, mục tiêu có thể được nhà quản thiết lập ngay hoặc có  
thể đưa ra sau khi đã thảo luận với nhân viên. Thất bại trong sự giao phó, ủy thác công việc thể do nhân viên  
không hiểu nhà quản lý mong gì mình hoặc không tự tin vào chính sự giao phó đó. Khi đó, nhân viên thường nói:  
“Tôi nghĩ ông chỉ muốn gợi ý cho việc thực hiện kế hoạch, chứ không nghĩ ông lại muốn tôi thực hiện kế hoạch này”.  
- Ra quyết định: “Barbara, công việc đó thực hiện thế nào là quyết định của bạn”. Quyết định thực hiện nhiệm vụ  
được chuyển cho nhân viên. Người nhân viên có quyền chọ lựa những phương cách thích hợp để đạt được kết quả  
mong đợi. Nhà quản phải tránh “tiếp tục duy trì sự giao phó” khi nhân viên không muốn tự ra quyết định mà tìm  
cách “trả lại” quyền ra quyết định cho nhà quản lý.  
- Kiểm soát quá trình thực hiện và cung cấp thông tin: “Tôi muốn trong vòng 1 tuần, anh phải cập nhật xong toàn bộ  
dữ liệu cho việc thực hiện kế hoạch”. Nhà quản thuộc phong cách này thường quyết định cách thức kiểm soát  
công việc. Số lần kiểm soát phụ thuộc vào tính chất ưu tiên của nhiệm vụ người thực hiện nó. Cung cấp thông tin  
phản hồi là trách nhiệm của nhân viên. Việc giữ để nhà quản lý không nổi giận mất bình tĩnh, đặc biệt khi kế  
hoạch bị chệch hướng, điều rất quan trọng.  
- Khen thưởng và ghi nhận kết quả: Nhà quản thường khen thưởng và ghi nhận những ai chứng minh được khả  
năng làm việc một cách độc lập. “Helen, bạn đã vượt qua rất nhiều khó khăn để hoàn thành công việc. Bạn đã tìm  
ra được cách giải quyết công việc rất tốt. Thật tuyệt vời”.  
Phong cách lãnh đạo này rất thích hợp khi nhân viên là người hiểu biết, kỹ năng động lực để hoàn thành công  
việc. Bởi vì, những nhân viên có kinh nghiệm sẽ không cần một nhà quản lý nói rằng họ phải làm gì. Họ muốn tự do  
lựa chọn cách thức thực hiện công việc. Phong cách lãnh đạo này cũng tạo cho các nhà quản lý có nhiều thời gian  
để dành cho việc thực hiện các nhiệm vụ khác như xây dựng các tiêu chuẩn, suy nghĩ chiến lược và lên kế hoạch.  
Mặc dù là ba phong cách lãnh đạo khác nhau, song không nhất thiết một nhà quản chỉ áp dụng một loại phong  
cách lãnh đạo nhất định trong quá trình điều khiển và giám sát công việc. chỉ mang một ý nghĩa tương đối và  
được xác định hoặc thay đổi tùy vào những hoàn cảnh cụ thể của từng nhà lãnh đạo.  
10 hành động phản tác dụng của lãnh đạo  
Có 10 điều mà các nhà lãnh đạo thường làm để giúp đỡ họ đương đầu với các khó khăn - nhưng những hành động  
đó thể khiến tổ chức, cuộc sống sự nghiệp của họ rối tung lên.  
“Mọi người ở đây đều khả năng làm được bất điều gì mà tôi đã làm và thậm chí còn hơn thế. Một số người sẽ  
làm và một số người thì không. Với những người không làm, là bởi bạn sẽ làm theo cách của bạn, chứ không  
phải bởi thế giới không cho phép bạn”. Tỉ phú Warren Buffet phát biểu tại trường đại học Washington.  
Vì sao các cuốn sách về quản lý, lãnh đạo chiến lược vẫn đang được xuất bản đều đặn khi mà thời gian họ dành  
ra để đọc các cuốn sách đó đủ để họ tạo ra các kết quả tích cực hơn? Tại sao các nhà lý thuyết và chuyên gia về  
quản lý và lãnh đạo vẫn liên tục sáng tạo ra các lý thuyết mới thay vì nói cho chúng ta biết rằng hãy tiếp tục kiên trì  
làm việc để đạt được thành công? Tại sao duy tích cực không phù hợp với hành động tiêu cực?  
Rất đơn giản, bộ não của con người đã trải qua hàng trăm triệu năm tiến hóa từ não động vật. Khi chúng ta gặp  
phải nghịch cảnh, não chúng ta sẽ khiến chúng ta phải chống lại hoặc buông xuôi. Điều này đã được lập trình sẵn  
trong DNA, vì nó thuộc về giai đoạn đầu của tiến hóa. Hãy so sánh điều đó với bộ não con người ngày nay, được  
lập trình để dừng lại, suy nghĩ, xem xét, đánh giá hậu quả, chọn cách hành động tốt nhất đáp trả.  
Thêm vào đó, phản ứng tức thời chống lại hay buông xuôi dẫn đến các kết quả tiêu cực lại không hề tích cực trong  
ngắn hạn. Hành vi tiêu cực bắt đầu như một cách đối phó với sự thất vọng trong ngắn hạn nhằm giải quyết sự  
thất vọng đó. Chống lại hay buông xuôi, chạy trốn những hành động tự vệ, có ích hơn là không làm gì cả.  
Giận dữ, quát mắng cấp dưới để giải tỏa căng thẳng những hành vi có thể khiến bạn mất đi sự nghiệp. Ít tính  
“phá hoại” hơn những phản ứng tự vệ/phòng vệ như thanh minh, đổ lỗi… cho người khác. Những hành động này  
thể không chấm dứt sự nghiệp của một người, nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cảm xúc của người khác và  
số người muốn đi picnic với bạn trong công ty. Lựa chọn các giải pháp như thế nào là tùy vào từng nhà lãnh đạo,  
nhưng có 10 điều mà các lãnh đạo khôn ngoan làm để giúp họ đối phó với tình huống này, nhưng ngược lại, lại  
khiến cho công ty cũng như nghề nghiệp cuộc sống của họ càng thêm xáo trộn:  
1. Tránh đối đầu. Đôi khi chính các nhà lãnh đạo mạnh mẽ lại không muốn đối đầu. Đó là vì họ không muốn làm  
người khác buồn, nhưng đằng sau đó nỗi sợ rằng những người buồn đó sẽ phản ứng không đoán định  
được và làm hại đến nhà lãnh đạo.  
2. Thuê các cố vấn, nhưng không nghe họ. Nhiều nhà lãnh đạo biết rằng họ cần đến các cố vấn từ bên ngoài để tư  
vấn về đường lối, chiến lược…Nhưng cuối cùng khả năng đoán định và thay đổi của họ lại không được thừa nhận  
và nhà lãnh đạo vẫn cứ làm theo ý mình.  
3. Không thú nhận làm sai. Một trong những lý do các nhà lãnh đạo không thừa nhận họ đã sai là vì họ sợ rằng họ  
sẽ sai lầm ở nhiều lĩnh vực khác. Điều này cũng giống như việc bạn đến bác sĩ để khám bệnh và phát hiện ra mình  
còn mắc thêm các bệnh khác.  
4. Không đối mặt với hiện thực. Điểm này khá giống với điểm trước khi nhà lãnh đạo sợ rằng đối mặt với hiện thực,  
họ sẽ phải chấp nhận nhiều điều vượt quá khả năng của họ.  
5. Chờ đợi quá lâu để giảm thiểu thiệt hại. Các lãnh đạo đã đầu tư quá nhiều công sức, thời gian và tiền bạc vào  
một dự án thất bại nào đó rất khó chấp nhận họ đã thua cuộc. Họ vẫn hy vọng và trông chờ vào một vận may đổi  
chiều nào đó. Nhưng chuyện đó không xảy ra và thiệt hại thì tăng lên.  
6. Tập trung quá nhiều năng lượng. Trước một dự án quá tiềm năng hứa hẹn, nhiều lãnh đạo không muốn nhìn  
ra những khó khăn của nó. Nhất là khi nó được các công ty tư vấn hàng đầu phân tích và đưa ra các giải pháp hoàn  
hảo đến mức không thể thực hiện được.  
7. Quá tin vào phân tích. Một điều đó logic không có nghĩa là nó có lý hay thực tế. Logic đơn thuần chỉ một quá  
trình đi từ bước này đến bước khác, và cả quá trình đó thể hoàn toàn là viển vông.  
8. Quá tin vào trực giác. Đã rất nhiều nghiên cứu khoa học đi sai đường chỉ những nhà nghiên cứu vô tình  
thiên về một kết luận nào đó bằng trực giác và họ tìm mọi cách để chứng minh cho điều mình tin là đúng. Các nhà  
lãnh đạo cũng vậy. Đôi khi họ muốn tin rằng điều gì là đúng bỏ qua mọi suy luận logic khác.  
9. Thiên vị. Khiến cho một số người cảm thấy họ quan trọng hơn những người khác sẽ phá hủy văn hóa của tổ  
chức khiến cho những người không được thiên vị hoạt động thiếu hiệu quả. Hơn thế, nó làm giảm sự tôn trọng  
đối với nhà lãnh đạo.  
10. Giảm thiểu sự quan trọng của việc họ không hiểu. Bạn càng coi nó là việc không quan trọng bao nhiêu, bạn  
càng không muốn giải quyết bấy nhiêu. Nhưng vấn đề nhiều việc vẻ như không quan trọng hóa ra lại trở  
thành rất, rất quan trọng trong dài hạn nếu như bạn không giải quyết nó.  
Học cách lắng nghe và hiểu người khác  
quyết để thành công trong vai trò lãnh đạo biết cách giao tiếp đánh giá chính xác nhân viên của mình. Đó là  
phần thách thức nhất trong việc quản của nhiều nhà chuyên nghiệp khi trong tình thế chuyển từ một người bạn  
sang vị trí điều khiển. Khi thiết lập mối quan hệ với một tập thể mới, điều quan trọng phải thẳng thắn và trung thực.  
Ngoài ra, đánh giá thực tế, khả năng làm việc của nhân viên và nói chuyện với họ về chất lượng công việc cũng cần  
thiết phải làm thường xuyên, song tránh nặng nề, quy chụp mặc bạn vẫn phải luôn yêu cầu họ làm tốt.  
Đặt nhân viên của mình lên trên hết  
Một người lãnh đạo tốt người biết cách đào tạo, hỗ trợ và khích lệ nhân viên mình. Nếu bạn không dành thời gian hỗ  
trợ nhân viên và bảo đảm đáp ứng nhu cầu hợp của họ thì họ khó có thể ủng hộ bạn làm tốt mọi việc.  
Rich Moore, một chuyên gia cao cấp tại Hiệp hội Quản lý AAMI ở Mỹ, đã nói: “Nhà quản hiệu quả nhất người biết  
được tài năng của từng đối tượng và dành thời gian để tìm hiểu nhân viên của mình".  
Để trở thành một người biết lắng nghe  
Lắng nghe là cả một nghệ thuật. Đó không chỉ đơn thuần là nghe qua. Nó đòi hỏi người nghe phải biết chủ động trong  
buổi nói chuyện cũng như biết cách kết hợp một số kĩ năng kĩ thuật nhất định. Dưới đây một vài mẹo vặt những  
phương pháp bạn thể áp dụng để trở thành một người biết lắng nghe thực sự, một người người khác luôn muốn  
trò chuyện.  
-
-
Lắng nghe một cách chủ động: Nên nhớ rằng bạn đang lắng nghe. Hãy hướng sự chú ý vào người nói và làm  
cho họ thấy rằng dường như lúc này chỉ một điều khiến bạn quan tâm: những họ đang nói.  
Tập trung: Bày tỏ sự tôn trọng với người nói là việc làm cần thiết. Xem xét những ý kiến của họ thật kĩ lưỡng.  
Không nên đánh giá thấp hay tỏ ra coi thường những bạn đang nghe, vẻ mặt cũng không được lộ sự thiếu tôn  
trọng. Dĩ nhiên bạn không nhất thiết phải đồng ý với mọi việc họ nói, nhưng hãy đợi cho đến khi họ trình bày hết  
quan điểm của mình.  
-
Đặt câu hỏi: Bạn sẽ thắc mắc về những đã nghe. Và khi gặp thời điểm thích hợp, hãy đưa ra những câu hỏi  
để xác nhận lại thông tin, cũng một cách để bạn bày tỏ sự quan tâm. Không nên lèo lái đề tài câu chuyện theo ý  
mình. Khi người nói bỗng dưng đề cập đến vấn đề nào đó khiến bạn đặc biệt quan tâm, bạn sẽ rất dễ bị lôi cuốn  
vào, rồi sẽ cắt ngang người nói để thao thao bất tuyệt với chủ đề đó. thường dẫn đến kết quả là làm cho người  
nói chuyển đề tài sang câu chuyện của bạn. Những người biết lắng nghe luôn để người kia làm chủ tình hình. Cách  
tốt nhất là ghi nhớ câu hỏi đó và sau khi người nói đã nói hết những điều họ muốn thì bạn hãy đặt câu hỏi. Trong  
lúc lắng nghe, bạn cũng không nên suy nghĩ xem đến phiên mình bạn sẽ nói gì. Vì nếu như vậy thì bạn sẽ không  
tập trung vào những người kia đang nói.  
-
-
-
Hưởng ứng người nói: Đôi lúc khi bạn muốn khuyến khích người nói tiếp tục, hãy tỏ ra rằng bạn vẫn đang rất chú  
tâm tới câu chuyện của họ chỉ bằng cách nói: "Vậy ý của bạn là..." hay "Để xem tôi có hiểu đúng ý bạn không..." Và  
lặp lại những bạn nghĩ là mình đã nghe. Đây cũng một cách hướng người nói sang chủ đề mới mà ngay chính  
họ cũng không định nói đến.  
Sử dụng ngôn ngữ cơ thể: Hãy cởi mở với người nói. Mặt đối mặt và nhìn họ. Đừng để vật tạo ra khoảng cách  
giữa bạn người nói. Nếu thể, hãy bước ra khỏi bàn và ngồi bên cạnh họ. Cũng không nên khoanh tay trước  
ngực, hướng ra xa người nói, quay mặt đi chỗ khác, nhìn vào những thứ xung quanh trong phòng, hoặc liếc nhìn  
màn hình máy tính hay đọc sách báo. Hãy thực sự chú tâm vào người nói.  
Diễn giải nội dung bạn muốn trình bày: Thường thì khi bạn không nắm vững một vấn đề, bạn sẽ chỉ chú tâm vào  
nói, nói và nói, thay vì phải diễn giải. Giải thích một cách chính xác có thể làm cho cả người nói và người nghe đều  
hiểu vấn đề. Thật không dễ dàng khi phải suy đoán ý nghĩa ẩn sau những từ ngữ, lúc này diễn giải rất cần  
thiết. Kỹ thuật này có thể giúp mọi người mở rộng cuộc nói chuyện, thể khám phá những gì mà bạn thực sự  
muốn diễn đạt.  
-
Im lặng: Im lặng làm cho người ta cảm thấy không thoải mái. Nó tạo một không khí nặng trĩu suy nghĩ đôi khi là  
nỗi đau. Một người biết lắng nghe phải thật sự thoải mái khi trong môi trường đó. Thỉnh thoảng, chờ đợi vài phút  
trong im lặng sẽ giúp người nói có thể khai thác hết những cảm xúc thầm kín trong lòng. Làm chủ được sự im lặng,  
điều đó nghĩa bạn đã thành công. Thực hiện được những yêu cầu trên, có thể nói rằng bạn một người biết  
lắng nghe thực sự. Tuy nhiên, cuộc sống không phải lúc nào cũng chỉ toàn màu hồng. đôi lúc, bản thân chúng ta  
gặp thất bại trong việc lắng nghe, một việc tưởng chừng như đơn giản nhưng lại vô cùng phức tạp. Vậy, nguyên  
nhân nào khiến đại đa số chúng ta đều từng gặp khó khăn trong khả năng tiếp thu ý kiến, nhận xét của người khác?  
Thái độ lắng nghe chưa tốt: Điếc hơn người điếc người không muốn nghe. Ta thường hay ngộ nhận là ta biết  
rồi nên không muốn nghe hoặc chỉ nghe một phần, nhưng đến khi cần nhắc lại thì ta lại không nhớ. Tệ hại hơn nữa  
là ta chỉ nghe xem đối tác có gì sai, xấu để phản ứng lại.  
-
-
Không chuẩn bị: Để nói một điều gì ta chuẩn bị rất kỹ tất cả các phương án. vậy mà trong giao tiếp ta chưa bao  
giờ chuẩn bị lắng nghe cả. Không chuẩn bị chuẩn bị cho thất bại. Đó chính là nguyên nhân làm ta nghe kém hiệu  
quả.  
Nhân tố nhà quản trị  
Nhà quản trị nhiệm vụ đề ra các chính sách đường lối, phương hướng cho sự phát triển của doanh nghiệp. điều này  
đòi hỏi các nhà quản trị ngoài trình độ chuyên môn phải tầm nhìn xa, trông rộng để thể đưa ra các định hướng  
phù hợp cho doanh nghiệp.  
Thực tiễn trong cuộc sống luôn thay đổi, nhà quản trị phải thường xuyên quan tâm đến việc tạo bầu không khí thân mật,  
cởi mở trong doanh nghiệp, phải làm cho nhân viên tự hào về doanh nghiệp, có tinh thần trách nhiệm với công việc của  
mình. Ngoài ra nhà quản trị phải biết khéo léo kết hợp hai mặt của doanh nghiệp, một mặt nó là một tổ chức tạo ra lợi  
nhuận mặt khác nó là một cộng đồng đảm bảo đời sống cho các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, tạo ra các  
cơ hội cần thiết để mỗi người nếu tích cực làm việc thì đều cơ hội tiến thân và thành công.  
Nhà quản trị phải thu thập xử lý thông tin một cách khách quan tránh tình trạng bất công vô lý gây nên sự hoang mang  
và thù ghét trong nội bộ doanh nghiệp. Nhà quản trị đóng vai trò là phương tiện thoả mãn nhu cầu và mong muốn của  
nhân viên. Để làm được điều này phải nghiên cứu nắm vững quản trị nhân sự quản trị nhân sự giúp nhà quản trị học  
được cách tiếp cận nhân viên, biết lắng nghe ý kiến của họ, tìm ra được tiếng nói chung với họ.  
Quản trị nhân sự trong doanh nghiệp đem lại kết quả như mong muốn hay không phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của  
nhà quản trị với lợi ích chính đáng của người lao động.  
Ba kỹ năng của một nhà quản giỏi  
Tìm cho mình một nhà quản giỏi, thực sự có tài và có thể điều hành tốt hoạt động hoạt động kinh doanh luôn là nỗi đau đầu đối với  
bất cứ một doanh nghiệp nào.  
Nhiều doanh nghiệp thường cố gắng tìm cho mình “một nhà quản bẩm sinh”. Liệu điều này có thật sự đúng? Câu trả lời là: doanh  
nghiệp không nên quá tin vào các “nhà quản bẩm sinh”, bởi một nhà quản giỏi thể ở bất cứ đâu khi anh ta có đủ các kỹ  
năng cần thiết.  
Mặc dầu mọi người đều thừa nhận việc lựa chọn đào tạo các nhà quản lý kinh doanh là một trong những vấn đề gay cấn nhất của  
các doanh nghiệp trên toàn thế giới, song điều đáng ngạc nhiên là bản thân những người quản lại những hình dung rất khác  
nhau về những tiêu chuẩn của một nhà quản giỏi.  
Cho đến nay, bất cứ nhà quản lý nào cũng đều biết rằng, một công ty thì cần đến tất cả các các cán bộ quản lý cho các cấp công  
việc khác nhau. Những phẩm chất cần thiết cho một giám sát viên ở cửa hàng sẽ hoàn toàn trái ngược với những phẩm chất cần  
cho một trưởng phòng phụ trách sản xuất. Tuy nhiên, chỉ nhìn vào những nhà quản lý thành đạt ở bất cứ công ty nào cũng thể  
thấy được những phẩm chất của họ khác biệt thật là xa so với bất cứ một danh sách những đức hạnh tưởng nào của nhà quản lý.  
Người ta có thể sử dụng một phương pháp hữu dụng hơn trong việc lựa chọn và phát triển các nhà quản lý. Phương pháp này  
không phải dựa trên cách đánh giá người quản giỏi người như thế nào (những đặc điểm nổi bật và tính cách bẩm sinh của anh  
ta), mà dựa trên cách đánh giá những cái họ làm (các loại kỹ năng họ trình diễn khi tiến hành công việc một cách có hiệu quả). Kỹ  
năng ở đây nghĩa những khả năng thể phát triển chứ không nhất thiết những khả năng bẩm sinh và những được biểu lộ  
ra trong khi thực hiện công việc chứ không chỉ đơn thuần tiềm năng. vậy, nên coi tiêu chuẩn có tính nguyên tắc của kỹ năng cao  
phải là: hành động hiệu quả trong những điều kiện khác nhau.  
Giả định rằng, nhà quản lý là người: (a) Định hướng các hoạt động của những người khác và (b) chịu trách nhiệm đạt những mục  
tiêu nhất định thông qua những cố gắng đó. Với giả định đó, nhà quản lý thành đạt phải dựa trên ba kỹ năng cơ bản, đó là: kỹ thuật,  
con người nhận thức. Tầm quan trọng tương đối của ba kỹ năng này sẽ thay đổi theo mức độ trách nhiệm điều hành và từ đó  
người ta có thể ứng dụng vào việc lựa chọn, đào tạo đề bạt các cán bộ quản lý, đồng thời đề xuất những phương pháp phát triển  
các kỹ năng đó.  
1. Kỹ năng kỹ thuật:  
Bao hàm sự hiểu biết và thành thạo về một loại hình hoạt động đặc biệt, nhất loại hình hoạt động có liên quan đến các phương  
pháp, các chu trình, các thủ tục hay các kỹ thuật. Chúng ta có thể mường tượng tương đối dễ dàng những kỹ năng kỹ thuật của nhà  
phẫu thuật, nhạc sỹ, nhân viên kế toán hay kỹ sư khi mỗi người trong số họ thực hiện những chức năng riêng biệt của họ. Trong số  
ba kỹ năng được tả, kỹ năng kỹ thuật là cái quen thuộc nhất bởi vì nó cụ thể nhất và vì thế, trong thời đại chuyên môn hoá ngày  
nay, kỹ năng này là kỹ năng số người đòi hỏi đông nhất. Hầu hết các chương trình hướng nghiệp đào tạo vừa học vừa làm  
chủ yếu quan tâm đến việc phát triển kỹ năng chuyên môn này.  
2. Kỹ năng con người  
Kỹ năng con người khả năng của người quản lý trong việc lao động một cách có hiệu quả với tư cách là một thành viên của nhóm  
động viên cố gắng hợp tác trong nhóm mà ông ta lãnh đạo. Nếu như kỹ năng kỹ thuật trước hết đề cập đến chuyện làm việc với  
“các đồ vật” (các chu trình hay các đối tượng vật chất) thì kỹ năng con người trước hết đề cập đến chuyện làm việc với mọi người.  
Kỹ năng này được trình diễn thông qua cách thức một cá nhân nhận thức các cấp trên của nhà quản lý anh ta, nhận thức được  
những người ngang cấp với anh ta và những người cấp dưới của anh ta, cũng như trong cách mà anh ta hành động sau đó. Người  
kỹ năng con người phát triển cao là người đủ nhạy cảm đối với những nhu cầu động cơ của những người khác trong tổ  
chức đến mức anh ta có thể đánh giá những phản ứng thể những hậu quả của những cách hành động khác nhau mà anh ta có  
thể làm. Với sự nhạy cảm như vậy, anh ta có khả năng và mong muốn hành động theo cách nào đó nhưng luôn tính đến nhận thức  
và thái độ của những người khác.  
3. Kỹ năng nhận thức:  
Kỹ năng này bao gồm khả năng bao quát doanh nghiệp như một tổng thể. Khả năng này bao gồm việc thừa nhận các bộ phận khác  
nhau của tổ chức phụ thuộc lẫn nhau như thế nào và những thay đổi trong một bộ phận bất kỳ ảnh hưởng đến tất cả những bộ phận  
khác ra sao. Khả năng này cũng mở rộng đến việc hình dung được mối quan hệ giữa một thể với tất cả các ngành công nghiệp,  
với cả cộng đồng và các lực lượng chính trị, hội và kinh tế trên cả nước với tư cách là một tổng thể. Thừa nhận những mối quan  
hệ này và nhận thức được những yếu tố nổi bật trong bất kỳ tình huống nào, người quản lý khi đó sẽ thể hành động theo cách  
nào đó để nâng cao phúc lợi tổng thể của toàn bộ tổ chức. thế sự thành công của bất cứ quyết định nào đều phụ thuộc vào kỹ  
năng nhận thức của những người đưa ra quyết định những người chuyển quyết định thành hành động. Không chỉ việc phối  
hợp một cách có hiệu quả các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp mà toàn bộ đường hướng sắc thái, toàn bộ tính chất phản  
ứng của tổ chức quyết định “bản sắc của công ty” đều phụ thuộc vào kỹ năng nhận thức của người quản lý. Trên thực tế, những  
kỹ năng này có liên quan mật thiết với nhau đến mức khó mà xác định được đâu điểm một kỹ năng kết thúc và kỹ năng khác bắt  
đầu. Tất cả ba kỹ năng đều quan trọng tại mỗi cấp quản lý, song tầm quan trọng tương đối của kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng con người  
kỹ năng nhận thức của nhà quản cũng thay đổi tuỳ theo những cấp trách nhiệm khác nhau. Tại các cấp thấp hơn, kỹ năng kỹ  
thuật yếu tố tạo ra nhiều điểm ưu việt của công nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, kỹ năng kỹ thuật tầm quan trọng lớn nhất tại  
những cấp quản lý bên dưới. Khi nhà quản lý ngày càng tiến lên cao hơn so với hoạt động vật chất thực tế thì nhu cầu về kỹ năng kỹ  
thuật trở nên ít quan trọng hơn.  
Đã nhiều năm nay, nhiều người khẳng định rằng, khả năng lãnh đạo vốn có trong một số cá nhân nhất định được lựa chọn. Chúng  
ta thường nói về “những lãnh tụ bẩm sinh”, “những nhà quản lý doanh nghiệp bẩm sinh”, “những người bán hàng bẩm sinh”. Có một  
sự thật không cần bàn cãi là một số người năng khiếu hay khả năng tự nhiên hay bẩm sinh lớn hơn về những kỹ năng nhất định.  
Tuy nhiên, các nghiên cứu trong ngành tâm lý học và sinh lý học cũng chỉ ra rằng: thứ nhất, những người năng khiếu hay khả  
năng mạnh thể tăng cường, phát triển kỹ năng của họ thông qua thực tiễn đào tạo; thứ hai, ngay cả những người thiếu khả  
năng tự nhiên cũng thể nâng cao thành tích và hiệu quả chung của họ. Phương pháp ba kỹ năng này nhấn mạnh rằng, những nhà  
quản giỏi không nhất thiết phải bẩm sinh, họ thể được phát triển mà thành. tại tất cả các cấp đều đòi hỏi phải một trình độ  
nào đó về mỗi kỹ năng trong số ba kỹ năng đã nói trên. Ngay cả các nhà quản tại những cấp thấp nhất cũng phải liên tục sử dụng  
tất cả các kỹ năng này. Nhận thức rõ ràng về những kỹ năng này và về những phương pháp đo lường trình độ của các nhà quản lý  
về mỗi loại kỹ năng sẽ là công cụ hiệu quả cho những người quản cấp cao nhất, không chỉ để hiểu hành vi điều hành mà còn để  
chọn lựa, đào tạo đề bạt các cán bộ quản lý trên tất cả các cấp trong doanh nghiệp.  
Nghệ thuật giải quyết xung đột trong công việc  
Xung đột nảy sinh trong công việc điều chẳng làm bạn phải ngạc nhiên. Những con người khác nhau với những mục đích và nhu  
cầu hoàn toàn khác nhau luôn dễ dẫn đến xung đột. Kết quả của xung đột thể dẫn đến thù oán lẫn nhau.  
Tuy nhiên xung đột thể động lực của sự phát triển. Nếu biết giải quyết chúng một cách khoa học thì biết đâu chúng là một trong  
những động lực mang tính đột phá cho doanh nghiệp của bạn.  
Để giải quyết thành công xung đột nảy sinh trong công việc điều không hề đơn giản đòi hỏi bạn phải nhận biết một cách chính  
xác nguồn gốc nảy sinh xung đột đưa ra hướng giải quyết hợp lý.  
Kết quả giải quyết tốt xung đột  
Giải quyết tốt xung đột sẽ dẫn đến các kết quả sau:  
Tăng cường hiểu biết: Thảo luận một phương pháp nhanh nhất giải quyết xung đột, hãy để họ nói về những suy nghĩ của mình,  
nếu bạn người cầm trịch thì hãy cố gắng hiểu họ một cách thật khách quan, hơn nữa hãy cho họ biết rằng họ hoàn toàn có thể đạt  
được mục tiêu của họ cũng như mục tiêu của tổ chức mà không cần “đụng chạm” đến người khác vì trong công ty của bạn thành tích  
luôn được nhận biết đánh giá một cách khoa học;  
Tăng cường sự liên kết: Một khi xung đột được giải quyết hiệu quả, họ sẽ thấu hiểu nhau hơn về tình cảm, sở thích, hoàn cảnh…,  
điều này tạo cho họ niềm tin vào khả năng làm việc nhóm cũng như cùng hướng đến mục tiêu của tổ chức; và  
Nâng cao kiến thức bản thân: Xung đột đẩy những cá nhân phải nỗ lực hơn để nhanh chóng vượt qua “đối thủ” của họ, giúp họ hiểu  
những vấn đề thật sự quan trọng nhất đối với họ, hướng họ đến thành công nhanh hơn.  
Tuy nhiên, nếu xung đột không được giải quyết một cách có khoa học hiệu quả, chúng có thể gây nên những hậu quả khôn  
lường. Xung đột thể nhanh chóng dẫn đến sự thù hằn cá nhân. Công việc của nhóm bị phá vỡ, tài năng bị bỏ phí, và dễ kết thúc  
bằng việc phản đối đổ lỗi lẫn nhau và những điều này rất không có lợi cho công ty của bạn.  
Để tránh những hậu quả trên. Bạn cần hiểu được hai thuyết về giải quyết xung đột sau:  
Hiểu biết về thuyết những dạng xung đột: Trong những năm 1970 Kenneth Thomas và Ralph Killman đã đưa ra 5 dạng chính liên  
quan đến xung đột trong công việc. Họ cho rằng con người những hướng giải quyết đặc thù mà họ quen áp dụng với mọi trường  
hợp. Tuy nhiên họ cũng cho rằng mọi xung đột đều hướng giải quyết thích hợp trong những hoàn cảnh khác nhau.  
5 dạng xung đột  
Cạnh tranh: Tuýp người này luôn hướng đến việc cạnh tranh để một vị trí tốt hơn công ty, họ biết họ muốn gì. Họ thường bắt đầu  
khởi nghiệp từ một người quyền lực, họ bị lôi kéo bởi chức vụ, địa vị hội, họ thông minh, và có tầm nhìn. Tuýp người này có thể  
hữu ích trong trường hợp khẩn cấp cần một quyết định tức thì. Nhưng khi họ ra quyết định không phù hợp thì họ tìm mọi cách  
biện hộ cho mình một cách ích kỷ rất dễ đến xung đột. Tuy nhiên họ lại cảm thấy không bằng lòng, cảm thấy chán nản khi phải  
làm những công việc không có sự thử thách.  
Cộng tác: Tuýp người này hướng đến việc cố gắng dung hòa và thừa nhận rằng tất cả mọi người đều quan trọng như nhau. Tuýp  
người này rất hữu ích khi bạn cần kết hợp những quan điểm của mọi người để đưa ra một giải pháp tốt nhất mọi người đều cảm  
thấy hài lòng; khi đã sự xung đột trong nhóm từ lâu; hoặc khi bạn gặp một trường hợp rất quan trọng chỉ thể giải quyết  
bằng sự thoả hiệp giữa các thành viên.  
Thoả hiệp: Tuýp người này hướng đến việc thoả hiệp nhằm cố gắng tìm ra một giải pháp để thỏa mãn tất cả mọi người. Người bị  
thỏa hiệp phải từ bỏ một thứ đó khi thoả hiệp, người thoả hiệp cũng phải từ bỏ một điều đó. Sự thoả hiệp thể hữu ích khi  
sự xung đột trong nhóm trở nên nghiêm trọng, khi việc cân bằng sự đối lập bế tắc.  
Thích nghi: Tuýp người này sẵn sàng đối mặt với việc đánh đổi những nhu cầu họ đang để đạt được những nhu cầu khác, họ dễ  
dàng chấp nhận sự thuyên chuyển công tác. Họ biết khi nào thì cần nhượng bộ người khác. Những người này không có tính quyết  
đoán nhưng lại có tính hợp tác cao. Họ xem trọng hoà bình hơn sự chiến thắng.  
Ngăn ngừa: Tuýp người luôn lẫn tránh xung đột và xung đột. Họ mẫu người thực thi các quyết định, không ý kiến và không muốn  
đụng chạm đến ai. Họ thích hợp làm những công việc ít mang tính ganh đua, tranh luận đối với họ việc rẻ tiền. vậy, đây một  
tuýp người tỏ ra rất yếu thế.  
Điều quan trọng bạn phải nhận ra từng loại tuýp người này trong công ty của bạn, bạn thể sử dụng chúng chỉ khi nào bạn nghĩ  
đó hướng giải quyết tốt nhất vấn đề bạn đang gặp phải. Bạn cũng thể giải quyết chúng theo bản năng, kinh nghiệm của mình và  
học cách làm sao thay đổi phương pháp giải quyết nếu cần thiết.  
Phương pháp giải quyết xung đột  
Hiểu biết về thuyết “Phương pháp mối quan hệ dựa trên lợi ích” (The "Interest-Based Relational Approach" – “IBR”)  
Để giải quyết xung đột, bạn nên làm theo những phương pháp sau:  
Giữa tốt mối quan hệ mối quan tâm hàng đầu: Chắc rằng bạn đối xử lịch thiệp điềm đạm với mọi người, xây dựng văn hóa tôn  
trọng lẫn nhau và tránh để mọi người cảm thấy bị áp lực trong mối quan hệ hàng ngày;  
Tách vấn đề ra khỏi con người; Điều này giúp bạn một cuộc tranh luận sôi nổi mà không ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các  
đồng nghiệp với nhau;  
Chú ý đến những lợi ích hiện có: Bằng việc lắng nghe một cách cẩn thẩn bạn sẽ hiểu được tại sao mọi người chấp nhận vị trí hiện tại  
của họ;  
Hãy lắng nghe trước khi nói: Để giải quyết một vấn đề một cách hiệu quả bạn cần phải lắng nghe để hiểu được họ đang mong muốn  
mình sẽ được gì sau khi kết thúc chuyện này;  
Đưa ra “sự việc”: Đồng ý và thiết lập mục tiêu, những yếu tố đáng lưu ý sẽ tác động lên quyết định; và  
Đưa ra nhiều lựa chọn: Đưa ra ý kiến về những sự lựa chọn đó và cùng nhau bàn luận.  
Bằng việc làm theo những phương pháp trên, bạn thể giải quyết xung đột trong sự bình tĩnh lịch sự. Điều này giúp bạn ngăn  
ngừa sự phản đối đối lập thể dẫn đến “ẩu đã” trong công ty của bạn.  
Các bước giải quyết xung đột  
Dựa trên những luận ở trên, điểm đầu tiên khi đối diện với những xung đột bạn phải nhận ra loại xung đột đang mắc phải. Theo  
thời gian, khả năng tự giải quyết xung đột sẽ trở nên hiệu quả và nhanh chóng. Việc nhận ra được dạng xung đột rất quan trọng,  
tuy nhiên cần phải hiểu được từng loại xung đột sẽ khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau. Hãy nhìn vào khía cạnh bình  
thường nhất nghĩ về dạng xung đột thể xảy ra tương ứng. Sau đó sử dụng lần lượt các bước sau đây để giải quyết:  
Bước 1: Thiết lập một bức tranh tổng quát  
Tùy tình huống thể xảy ra, bạn thể ứng dụng phương pháp IBR hay một phượng pháp nào đó của riêng bạn. Nhưng bạn phải  
bảo đảm rằng bạn hiểu được bản chất của xung đột cũng như những vấn để liên quan đến chúng, mẫu thuẫn thể được giải quyết  
tốt thông qua thảo luận, đối thoại hơn là tranh chấp nóng nảy. Nếu vấn đề cần giải quyết có liên quan đến bạn thì phải luôn tự nhắc  
nhở mình phải bình tĩnh không thiên vị cho cá nhân nào. Sử dụng kỹ năng nghe để đảm bảo rằng bạn nghe và hiểu được những  
quan điểm của họ.  
* Trình bài lại những vấn để đã nghe  
* Làm đơn giản vấn đề  
* Tóm tắt lại toàn bộ những đã biết  
phải bảo đảm rằng khi nói, bạn phải dùng một thái độ thật bình tĩnh và mang tính xây dựng chứ không phải bằng một giọng điệu  
khiêu khích, moi móc…  
Bước 2: Tập hợp những thông tin đã có  
Bây giờ bạn cẩn phải làm nổi bật lên lợi ích, nhu cầu cũng như điều bạn lo lắng bằng cách hỏi những người xung quanh về vấn đề  
bạn đang phải đối mặt, phải bảo đảm rằng bạn đang tôn trọng những ý kiến đóng góp của họ cũng như mong muốn họ góp phần  
trong việc giải quyết chúng. Cố gắng hiểu động lực mục đích của họ cũng như hành động tiếp theo của bạn sẽ ảnh hưởng đến họ  
như thế nào. Bạn phải luôn đặt ra những câu hỏi như: Hành động của bạn sẽ có tác dụng như thế nào? Nó sẽ ảnh hưởng đến khách  
hàng ra sao? Nó có cản trở công việc của công ty hay không?...Và bạn phải luôn tự nhắc mình không để những tình cảm cá nhân  
liên quan trong khi giải quyết vấn đề.  
* Lắng nghe và hiếu được những quan điểm của những người xung quanh  
* Nhận dạng vấn đề rõ ràng và chính xác  
* Duy trì tính linh họat  
* Phân biệt những luồng tư tưởng  
Bước 3: Kiểm định lại vấn đề  
Bước 3 cũng giống như bước 2 trên, bạn lần lượt nhìn lại những bạn xác định và hãy kiểm định xem chúng có thật sự chính xác  
chưa? Sự phân biệt các dạng xung đột khác nhau sẽ dẫn tới việc chọn ra hướng giải quyết khác nhau.  
Bước 4: Phát thảo hướng giải quyết thể có  
Một giải pháp thật sự hiệu quả khi chúng thỏa mãn được yêu cầu của số đông. Cho nên, phát thảo những giải pháp có thể có là một  
phương pháp hiệu quả tạo điều kiện cho mọi người tham gia đóng góp giải pháp của mình.  
Bước 5: Thương lượng để tìm ra giải pháp  
Xung đột chỉ thật sự được giải quyết chỉ khi và chỉ khi hai bên hiểu được mong muốn của đối phương giải pháp thật sự khi nó  
thỏa mãn được đòi hỏi của cả hai phía. Tuy nhiên cũng những giải pháp đòi hỏi phải sự thỏa hiệp từ cả hai bên. Trong trường  
hợp này bạn thể xử dụng phương pháp thương lượng W-W ( win-win). Phương pháp này có thể giúp bạn tìm ra giải pháp tốt nhất  
để thỏa mãn cả hai phía trong hòang cảnh khó khăn nhất. Có 3 nguyên tắc trong thương lượng là: nhẫn nại, bình tĩnh và tôn trọng  
đối phương.  
Lời khuyên:  
Xung đột thể làm mất đi tính đoàn kết cũng như hiệu quả trong công việc của nhóm hay công ty. Quản lý không đúng cách sẽ sinh  
ra xung đột trong công ty. Nó sẽ mau chóng lớn nhanh nếu không được giải quyết thỏa mãn. Và khi tính đoàn kết bị mất đi, những  
công việc đòi hỏi sự cộng tác sẽ trở thành nỗi ám ảnh của nhân viên. Trong tình huống này, bạn nên làm cho xung đột này dịu  
xuống. Thảo luận một cách bình tĩnh với thái độ xây dựng tập trung vào thẳng vấn đề chứ không vào cá nhân. Nếu làm được điều  
này thì mọi người đều lắng nghe cẩn thận hiểu được vấn đề cũng như cùng đưa ra giải pháp nhằm giải quyết vấn đề một cách  
hiệu quả.  
doc 12 trang yennguyen 06/04/2022 7320
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò và kỹ năng của nhà quản trị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docvai_tro_va_ky_nang_cua_nha_quan_tri.doc