Bài giảng Phát triển kỹ năng quản trị (Phần 2)

CHƢƠNG 5: QUYỀN LỰC VÀ ẢNH HƢỞNG  
5.1. Xây dựng nền tảng quyền lực và sử dụng sức ảnh hƣởng khéo léo  
Sử dụng quyền lực một cách hiệu quả yếu tố then chốt nhất của quản lý. Nhà nghiên  
cứu Warren Bennis, khi nghiên cứu 5 yếu tố then chốt cho một nhà quản trị hiệu quả đã phỏng  
vấn 90 ngƣời đã từng đƣợc các đồng nghiệp bầu ngƣời đứng đầu ảnh hƣởng nhất trong tất  
cả mọi lĩnh vực của hội. Bennis đã nhận thấy rằng những ngƣời này đều một đặc điểm  
chung: họ làm cho người khác cảm thấy sức mạnh, quyền lực. Những ngƣời lãnh đạo  
này có quyền lực bởi họ học đƣợc cách xây dựng một nền tảng về quyền lực trong công ty  
hoặc trong tổ chức của họ. Hgây được ảnh hưởng bởi họ sử dụng sức mạnh của mình để  
giúp đỡ đồng nghiệp cấp dưới hoàn thành tốt nhiệm vụ khó khăn. Để hoàn thành  
những công việc thông thƣờng thì không cần một sức mạnh đặc biệt nào (kỹ năng hoặc tài  
năng bẩm sinh). Nhƣng không thể thực hiện đƣợc những công việc thực sự khó khăn mà  
không có những ―mánh khoé‖.  
5.1.1. Thiếu quyền lực  
Quyền lực là một công cụ đƣợc sử dụng hàng ngày trong các tổ chức, nhiều tổ chức sẽ  
không tồn tại nếu không có quan hệ quyền lực. Để mọi thứ đƣợc thực hiện, các nhà lãnh đạo cần  
ảnh hƣởng đến ngƣời khác. Điều này có nghĩa rằng quyền lực là một công cụ rất quan trọng trong  
việc đạt đƣợc các mục tiêu và mục tiêu của tổ chức. Weber (1980) quyền lực có nghĩa là mọi cơ  
hội / khả năng tồn tại trong một mối quan hệ xã hội, cho phép ngƣời ta thực hiện ý chí của riêng  
mình, thậm chí chống lại sự kháng cự và bất kể cơ sở mà cơ hội có thể dựa dẫm. Guardini (1998)  
đƣa ra một định nghĩa ngắn gọn về quyền lực: ―Quyền lực là khả năng di chuyển sự xác thực‖.  
Pfeffer (1992) quyền lực là cơ hội để xây dựng, tạo ra, để di chuyển lịch sử theo một hƣớng khác.  
Russell (2004) cho rằng: quyền lực có thể đƣợc định nghĩa là trình bày các ảnh hƣởng dự định.  
Nhà khoa học chính trị Mỹ Robert Dahl: "A có quyền lực trên B đến mức anh ta có thể khiến B  
làm điều gì đó mà B sẽ không làm điều khác."  
Thƣờng thì mọi ngƣời cảm nhận quyền lực với một ý nghĩa tiêu cực, nó gợi lên hình ảnh  
những ông chủ độc đoán, xảo quyệt luôn tìm cách đàn áp cấp dƣới. Tuy nhiên, đây chỉ những  
cái nhìn hạn hẹp về quyền lực. Quyền lực không nhất thiết phải gắn với sự tấn công, sự quá  
khích, gắn với sức mạnh hoặc sự đàn áp. Quyền lực thể được xem như một dấu hiệu về sự  
86  
hiệu quả cá nhân. Rees & Porter (2008) cho rằng: Quyền lực có thể đƣợc định nghĩa là ‗khả năng  
sắp xếp tài nguyên con ngƣời, thông tin hoặc vật chất để hoàn thành công việc.Quyền lực có thể  
đƣợc sở hữu bởi tất cả mọi ngƣời trong tổ chức và không nhất thiết chỉ bởi những ngƣời có thẩm  
quyền. Nó có thể đƣợc phân chia tới tất cả các cấp độ của phân cấp và có thể đƣợc thực hiện lên,  
xuống hoặc theo chiều ngang. Quyền lực có thể ảnh hƣởng đến một tập hợp các quyết định trong  
tổ chức. Những ngƣời quyền lực thƣờng tạo nên môi trƣờng xung quanh họ, trong khi những  
ngƣời không có quyền thƣờng bị môi trƣờng xung quanh dẫn dắt. Rollo May, đã cho rằng  
những ngƣời không muốn thực thi quyền lực ảnh hƣởng thì thƣờng phải gặp nhiều điều  
không vui trong suốt cuộc đời họ.  
Không điều gì gây thất vọng hơn là cảm giác bạn có một ý kiến rất độc đáo sáng tạo về  
một vấn đề gì đó rất quan trọng đối với công ty bạn nhƣng sau đó phải đối diện với sự bất lực.  
Khía cạnh này có thể đƣợc minh họa từ những sinh viên mới tốt nghiệp. Họ tự tin về năng lực  
bản thân, kiến thức và sự nhiệt tình nhƣng họ nhanh chóng cảm thấy thất vọng và cây đắng.  
Nhà quản lý khôn ngoan hiểu rằng, trong dài hạn không ai có lợi từ việc phân phối quyền  
lực không cân xứng. Kinh nghiệm rằng: ―những thành viên không có quyền lực trong tổ chức trở  
nên giận dữ hoặc cố gắng phá loại tổ chức hoặc sẽ trở nên lãnh đạm và xa lánh. Dù khía cạnh  
nào đi nữa mọi ngƣời đều mất mát, cả nhà quản trị và nhân viên‖.  
Kanter (1979) cũng đã xác định nhiều chỉ tiêu của quyền lực của một nhà quản lý xuất phát  
từ cấp trên cũng nhƣ cấp dƣới trong một tổ chức (xem khung).  
Một nhà quản lý có quyền lực có thể:  
o Đứng ra can thiệp cho những ngƣời đang gặp rắc rối.  
o thể bố trí đƣợc một vị trí công tác thuận lợi cho một cấp dƣới năng lực.  
o thể đƣợc cấp trên thông qua cho những khoản chi vƣợt dự toán.  
o Đƣa vào hoặc gạt bỏ những vấn đề ra khỏi chƣơng trình các cuộc họp.  
o Nhanh chóng gặp tiếp xúc đƣợc với những ngƣời ra quyết định cao nhất.  
o Duy trì đƣợc các mối liên hệ đều đặn thƣờng xuyên với các nhà lãnh đạo cao  
nhất.  
o những thông tin nhanh về các thay đổi trong quyết định và chính sách.  
5.1.2. Lạm dụng quyền lực  
Sự lạm dụng quyền lực vốn không còn xa lạ, nhất là trong lịch sử. Sopholé đã cảnh  
cáo rằng con ngƣời không nên thèm khát quyền lực trừ phi chúng ta hiểu đƣợc kết cục của nó.  
87  
Quá khao khát quyền lực cuối cùng sẽ dẫn tới sự thất bại kết cục bi đát. Trong một cuộc  
nghiên cứu gần đây đối với những nhà quản lý thành công và thất bại (McCall và  
Lombardo, 1983) cũng chỉ ra kết quả tƣơng tự. Nghiên cứu của Trung tâm quản trị sáng tạo đã  
xác định đƣợc gần 20 nhà kinh doanh lãnh đạo công ty của họ và so sánh với hơn 20 nhà  
kinh doanh khác thất bại trong sự nghiệp. Khởi đầu cả hai nhóm này đều gia nhập các công ty  
với những tiền đề nhƣ nhau. Không có sự khác biệt đáng kể trong trình độ học vấn cũng nhƣ  
khả năng chuyên môn và những đặc điểm khác. Tuy nhiên, dần dần sự nghiệp của những  
ngƣời nhóm hai đã càng ngày càng tuộc dốc do những yếu tố cá nhân (xem khung dƣới đây).  
Tuy nhiên cũng cần lƣu ý rằng rất nhiều vấn đề nảy sinh do sử dụng quyền lực  
không hiệu quả trong những mối quan hệ cá nhân.  
Những đặc điểm không tốt đối với nghề nghiệp của một nhà quản trị  
o
o
o
o
o
o
Kém nhạy cảm đối với ngƣời khác, trơ lỳ, gây sợ hãi.  
Lạnh lùng, xa cách, kiêu căng.  
Phản bội sự tin tƣởng của ngƣời khác.  
Quá tham vọng, mƣu mô và luôn cố gắng leo cao.  
Không thể uỷ thác cho ngƣời khác hoặc xây dựng một nhóm.  
Quá phụ thuộc vào ngƣời khác ( ngƣời hƣớng dẫn).  
5.1.3.Tạo quyền lực cho ngƣời khác  
Không có quyền lực lạm dụng quyền lực đều làm suy nhƣợc phản tác dụng. Trái  
lại là khái niệm ―tạo quyền lực‖ (empowerment). Điểm tối ƣu nhất của nhà quản trị ở đỉnh  
cao của đƣờng cong quyền lực. Muốn vậy, cần có hai công cụ hỗ trợ quan trọng để đạt đƣợc  
quyền lực biến chuyển quyền lực trở thành ảnh hƣởng cá nhân song vẫn tránh đƣợc sự lạm  
dụng quyền lực.  
5.2. Các chiến lƣợc để có quyền lực trong tổ chức  
Hai yếu tố cơ bản xác định quyền lực của một cá nhân trong một tổ chức: Các đặc  
điểm cá nhân và các đặc điểm vị trí công tác. Tầm quan trọng của từng yếu tố phụ thuộc  
vào từng công ty khác nhau.  
Cả hai nguồn này đều phải đƣợc phát triển nếu họ muốn xây dựng một nền tảng quyền lực  
bền vững. Một ngƣời nắm giữ một trị quan trọng trong tổ chức song lại không có những kỹ  
năng cá nhân cần thiết để huy động đƣợc hết các lợi thế do vị trí mang lại thì cũng không thể  
khai thác đƣợc hết các nguồn lực tiềm năng của vị trí đó. Ngƣợc lại, một cá nhân có những  
88  
đặc điểm phù hợp đề nắm giữ quyền lực song chỉ một công việc nhỏ bé, ít ý nghĩa thì  
cũng không khai thác đƣợc hết năng lực của mình.  
Tạo lập quyền lực  
Ảnh hƣờng  
THÀNH  
TÍCH CÁ  
NHÂN  
Lạm dụng quyền lực  
Thiếu quyền lực  
Không nh  
hƣởng  
Thiếu  
Vừa đủ  
Tha  
QUYỀN LỰC CÁ NHÂN  
Hình 5.8. Mối quan hệ giữa quyền lực và thành tích  
5.2.1. Các thuộc tính cá nhân  
Có 4 thuộc tính cá nhân có thể mang lại quyền lực đó là: kiến thức chuyên môn, sự hấp  
dẫn nhân, các nỗ lực và tính hợp pháp  
5.2.1.1. Kiến thức chuyên môn  
Kiến thức chuyên môn là một nguồn gốc quan trọng của quyền lực đặc biệt là trong  
thời đại công nghệ cao ngày nay. Kiến thức chuyên môn có thể được từ sự giáo dục, đào tạo  
chính thức cũng như là các kinh nghiệm từ thực tiễn. Điều này đặc biệt quan trọng trong các  
công ty kinh doanh do tiến trình ra quyết định dựa trên tiêu chuẩn hợp lý. Trong một môi  
trƣờng mà các quyết định đƣợc đƣa ra trên cơ sở đánh giá các thông tin một cách khách quan  
cho mỗi phƣơng án thì một ngƣời kiến thức sẽ dễ dàng tăng thêm quyền lực. Điều này có thể  
gây ra vấn đề khi cấp dƣới nhiều kiến thức hơn cấp trên. Những cấp dƣới giỏi chuyên môn  
này phải làm cho kiến thức của họ trở thành kiến thức của cấp trên theo cách không đƣợc đe  
doạ quyền lực của cấp trên trong việc ra quyết định sau cùng, song đồng thời phải củng cố vị  
thế chuyên gia của cấp dƣới.  
89  
Kiến thức chuyên môn sẽ cung cấp một nền tảng quyền lực mạnh mẽ trong các tổ chức  
lớn, công nghệ cao và tốc độ thay đổi nhanh. Trong môi trƣờng này, các chuyên gia kỹ thuật  
đặc biệt quyền lực bởi vì các nhà quản trị cấp cao ở tƣơng đối tách biệt với các hoạt động  
cơ bản hằng ngày của tổ chức. Các nhà quản trị thƣờng ít biết đến những bƣớc tiến mới  
trong nghiên cứu cơ bản, các cải tiến sản xuất mới nhất từ phía đối thủ cạnh tranh hoặc các thay  
đổi từ lực lƣợng lao động. Do đó, sự phản ứng để dẫn đạo trong các lĩnh vực này đặc biệt  
dành cho đội ngũ các chuyên gia chức năng, những ngƣời hầu nhƣ độc quyền về kiến thức  
trong lĩnh vực của họ.  
Nhƣ vậy, hai yếu tố của quyền lực: từ các đặc điểm cá nhân và từ vị trí công tác đều có  
tầm quan trọng nhƣ nhau. Nếu chỉ xem xét quyền lực từ vị trí của các chuyên gia, bạn thể  
kết luận rằng họ rất ít quyền lực. Vai trò của họ trong tổ chức không rõ ràng lắm nếu so với  
các nhà quản trị trực tuyến. Công việc của họ thƣờng những công việc hàng ngày đƣợc  
định trƣớc nhiệm vụ của họ, xét về bản chất nói chung không gắn với mục tiêu chủ chốt  
nhất cũng nhƣ là các mối quan tâm của công ty. Song một chuyên gia có thể trừ cho sự  
thiếu quyền lực do vị trí bằng cách phát triển các kiến thức chuyên môn trong một lĩnh vực cụ  
thể của tổ chức: dụ một hệ thống kế toán mới, chế độ thuế, các quy định về an toàn và  
môi trƣờng hoặc những quy định mới về mua lại doanh nghiệp.  
Cần rất nhiều thời gian để trở thành một chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó. Tuy nhiên  
nếu bạn muốn tiến cao hơn nữa trên nấc thang của tổ chức, tên gọi ‖chuyên gia‖ thể là một  
trở ngại. dụ, nếu bạn trở thành chuyên gia của công ty trong các mối quan hệ với chính phủ  
các nƣớc vùng Nam Mỹ, kiến thức của bạn thể là không thể thiếu đƣợc đối với chi nhánh  
nhiều nhà máy Mêhicô. Các nhà quản trị trử phải cẩn thận, không nên quá giới hạn các  
cơ hội phát triển lâu dài bằng cách tập trung vào những lĩnh vực quá hẹp của kinh doanh.  
Điều này là rất khó đối với những ngƣời muốn thiết lập một nền tảng quyền lực. Luôn có  
những ngách nhỏ trong tổ chức những ngƣời khao khát quyền lực thể tạo dựng sức mạnh  
từ đó. Chỉ khi họ rơi vào những chiếc bẫy đó, họ mới nhận ra đƣợc tầm quan trọng của việc xây  
dựng một kiến thức nền rộng liên quan đến nhiều hoạt động của doanh nghiệp để thể tạo  
dựng những cơ hội phát triển trong dài hạn.  
90  
Một khía cạnh quan trọng khác của kiến thức chuyên môn là ―ấn tƣợng quản trị‖.  
Ngƣời ta đánh giá kiến thức của bạn không chỉ dựa trên số lƣợng bằng cấp mà bạn tích luỹ, số  
lƣợng các khoá đào tạo bạn đã trải qua, hoặc số năm kinh nghiệp, họ còn dựa trên cách mà  
bạn ứng xử. Nếu bạn liên tục nhắc đến cách thực hiện công việc trong quá khức, họ thể  
cho rằng kiến thức của bạn đã lỗi thời. Nếu bạn viết một bản báo cáo dài dòng và quá nhiều từ  
kỹ thuật, cấp trên có thể nghi ngờ về khả năng truyền thông của bạn. Khái niệm ―ấn tƣợng quản  
trị‖ đôi khi đƣợc xem là đồng nghĩa với các mánh khóe, tiểu xảo. Tuy nhiên, ở đây từ này đồng  
nghĩa với sự cần thiết phải cƣ xử phù hợp với sự mong đợi. Mọi ngƣời một hình ảnh nhất  
định nào đó về cách thức một chuyên gia cƣ xử và hành động để thể đóng góp nhất định  
cho tổ chức. điều quan trọng những ngƣời đƣợc xem nhƣ là chuyên gia về kỹ thuật không  
đƣợc làm giản đi độ tin cậy của họ bằng cách vi phạm những mong đợi này.  
5.2.1.2. Sự hấp dẫn cá nhân  
Sự hấp dẫn cá nhân đƣợc thể hiện theo nhiều cách:‖ Khi cô ấy trình bày trong cuộc  
họp, bài trình bày của cô có sức mạnh đến nỗi bất cứ thông điệp nào cũng rất hoàn hảo‖,  
Tính cách của anh ta đã giúp anh ta thu hút đƣợc những ngƣời giỏi nhất tận tuỵ nhất làm  
việc với anh ta.‖ Nhƣ vậy, có hai nguồn gốc cơ bản của sự hấp dẫn cá nhân: hành vi dễ thƣơng  
bề ngoài hấp dẫn.  
Các nhà tâm lý học đã xác định đƣợc nhiều yếu tố quyết định cái mà họ gọi ―khả năng  
đƣợc ƣa thích‖. Những hành vi này là những hành vi tốt thƣờng gắn liền với tình bạn. Thực  
tế, nghiên cứu đã phát hiện ra nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến sự thu hút cá nhân (xem khung).  
Chúng tôi thích một ai đó khi chúng tôi tin rằng họ sẽ:  
o
o
o
o
o
o
Ủng hộ một mối quan hệ cởi mở, chân thành và lâu dài.  
Có thái độ thân tình.  
Có thái độ thiện cảm sự chấp nhận điều kiện.  
Chấp nhận hy sinh vài thứ nếu cần thiết cho mối quan hệ.  
Luôn tỏ ra dễ mến, thông cảm.  
Cam kết trong các trao đổi hội cần thiết để duy trì một mối quan hệ.  
Vậy những thông tin về tình bạn thể có liên quan gì đến vấn đề chúng ta đang bàn  
luận? phải điều đó nghĩa bạn phải trở thành những ngƣời bạn tốt với đồng nghiệp, cấp  
dƣới hay sếp của bạn? Không nhất thiết. Rất nhiều ngƣời chọn lựa làm việc với ai đó là do  
kiến thức chuyên môn, ngay cả khi họ biết rằng không hợp với nhau. Hơn thế nữa, thƣờng  
91  
không phù hợp lắm để thiết lập một tình bạn gần gũi với ai đó cùng quan bạn. Đo đó, ngƣời  
ta không nhất thiết phải trở thành bạn của nhau trong công việc, nhƣng những ngƣời có tính  
cách dễ thƣơng đối với đồng nghiệp (và nếu hoàn cảnh cho phép, sẽ dẫn tới một tình bạn)  
thƣờng dễ cảm thấy đƣợc trao quền lực hơn.  
Nền tảng thứ hai của sự cuốn hút cá nhân là sự hấp dẫn bề ngoài (hình thức). Nghiên  
cứu đã chỉ ra rằng những ngƣời có hình thức bề ngoài hấp dẫn sẽ đƣợc đánh giá là có tính  
tình dễ thƣơng dễ thành công trong cuộc sống. Ngƣời ta cũng dễ cho rằng họ nghề nghiệp  
tốt và có ngƣời bạn đời thành công, cũng nhƣ là gia đình danh giá. Ngoài ra, những ngƣời hấp  
dẫn đƣợc đánh giá là có thể làm chủ số phận mình, theo đuổi mục đích riêng, thấm nhuần sứ  
mệnh riêng chứ không bị dẫn dắt bởi bên ngoài. Nói chung, dƣờng nhƣ ngƣời ta cho rằng  
những ngƣời hình thức đẹp cũng rất hiệu quả và có đạo đức tốt.  
Trong thực tế, nhiều lĩnh vực ngƣời đẹp dễ thành công hơn. dụ, các nghiên  
cứu về dân số học đã chỉ ra rằng những ngƣời phụ nữ kết hôn với những ngƣời ở tầng lớp  
hội cao hơn thì có sắc đẹp trên trung bình. Các sinh viên hình thức đẹp cũng thƣờng đƣợc  
thiện cảm hơn từ phía giáo viên. Trong môi trƣờng công việc, các bản báo cáo của những ngƣời  
đẹp thƣờng dễ đƣợc đánh giá cao, và họ cũng dễ đƣợc cấp trên ƣu ái hơn.  
Các phát hiện trên dƣờng nhƣ rất khó chuyển thành những hành động cụ thể để phát triển  
lĩnh vực giao tiếp trong kinh doanh. Ngƣời ta ít có thể làm đƣợc để thay đổi hình dáng bên  
ngoài cũng nhƣ những tính cách cơ bản hay chiều cao của mình. Tuy nhiên, các phát hiện  
này cũng hữu ích đối với các nhà quản trị. Ngƣời ta cũng thể thay đổi đôi chút để làm tăng  
sự hấp dẫn của mình bằng cách trở nên nhạy hơn đối với những nguyên tắc về ăn mặc, dáng  
vẻ. Ngƣời ta cũng thể nhấn mạnh đến những khía cạnh này trong tính cách của ngƣời sao  
cho phù hợp với các tiêu chuẩn trong môi trƣờng tổ chức. Ngƣời ta cũng thể trở nên nhạy  
bén hơn với cách ngƣời khác tạo nên ấn tƣợng hoặc đánh giá. Nếu bạn nghĩ rằng mình chƣa  
đạt đƣợc yêu cầu trong một lĩnh vực nào đó mặc đã nỗ lực trong việc ―nhấn mạnh các ƣu  
thế‖, bạn cũng nên bù trừ bằng cách nhấn mạnh vào những nguồn khác tạo nên quyền lực. Dù  
bạn cảm thấy rằng ngƣời khác có công bằng hay không, điều quan trọng bạn phải hiểu  
thấu đáo họ để có những chọn lựa chính xác.  
5.2.1.3. Nỗ lực  
92  
Trong bài báo có tựa đề ―Quyền lực của những ngƣời cấp dƣới‖, David Mechanin  
(1962) đã tả nhiều cách để các thành viên tổ chức thể nhiều quyền lực hơn từ vị trí  
mang lại. Một chiến lƣợc tác giả đề cập dựa trên tiền đề là do các thành viên thâm niên trong  
tổ chức thƣờng không thể tham gia tất cả những hoạt động quan trọng trong công ty, họ buộc  
phải dựa vào những thành viên trẻ hơn để thực hiện nhiều nhiệm vụ rất quan trọng đối với tổ  
chức. Các cá nhân này ngày càng trở nên phụ thuộc nhiều vào cấp dƣới. Nếu cấp dƣới không  
thực hiện tốt, điều đó phản ánh sự đánh giá và khả năng kiểm soát kém của sếp. Do đó, cấp dƣới  
trong vị trí phải gia tăng quyền lực của họ bằng cách làm việc chăm chỉ trong những nhiệm vụ  
quan trọng, từ đó đạt đƣợc sự ƣa ái của cấp trên.  
Ngoài việc tạo ra tinh thần về nghĩa vụ cá nhân, cần nỗ lực để làm gia tăng những đặc  
điểm cá nhân khác. Ví dụ, những ngƣời làm việc chăm chỉ trong một công việc nào đó thƣờng có  
xu hƣớng tăng đƣợc kiến thức của mình về chủ đề đó. Do đó, họ dễ đƣợc ngƣời khác hỏi ý  
kiến về lĩnh vực đó. Do đó, họ cũng dễ thu thập những thông tin cần thiết đối với những thành  
viên khác trong tổ chức. Thông tin này có thể trở thành chìa khóa để giảm bớt sự không chắc  
chắn của ngƣời khác. Một thƣ đã trải qua 4 đời giám đốc và là ngƣời duy nhất biết đƣợc  
những tài liệu quan trong đƣợc cất giữ ở đâu, ngân quỹ chi tiêu của tổng giám đốc thực sự là  
bao nhiêu, v.v., chính vì vậy trở thành một nhân vật quan trọng để đƣợc ảnh hƣởng đối  
với ngƣời khác.  
Nỗ lực cá nhân cao độ thể mang lại trách nhiệm và các cơ hội cao hơn thông qua một  
tiến trình gọi ―giảm bớt sự bất hoà nhận thức‖. Một nguyên tắc tâm lý là những ngƣời cố  
gắng giảm bớt sự khác biệt giữa niềm tin riêng và các hành vi cá nhân, giữa kỳ vọng của họ  
về ngƣời khác và hành vi của ngƣời khác. Khi cá nhân có nhiều nỗ lực hơn mong đợi, theo  
chính sách hoặc các tiêu chuẩn của tổ chức, đã tồn tại sự khác biệt. Do phần thƣởng của một  
ngƣời dựa trên sự hoàn thành khối lƣợng công việc, sự khác biệt thể xoá bỏ bằng cách hoặc  
các nỗ lực đã giảm đi, hoặc trách nhiệm gia tăng. Đối với các hoạt động quản trị, thì phƣơng án 2  
phổ biến hơn cả. Ở tình huống này, các nỗ lực vƣợt bậc đƣợc xem nhƣ dấu hiệu của sự cam  
kết và sự tận tuỵ và phải đƣợc khuyến khích, khen thƣởng.  
Phải phân biệt đƣợc nỗ lực vƣợt bậc và hình ảnh vƣợt trội. Nỗ lực vƣợt bậc tập trung  
vào sự gia tăng hiệu quả, năng suất trong khi hình ảnh vƣợt trội nhấn mạnh đến sự nhìn nhận,  
93  
hình ảnh (không gắn với năng suất, hiệu quả). Mục tiêu của nỗ lực đề cao cấp trên, mục tiêu  
của hình ảnh là gây ấn tƣợng cho cấp trên. Các cấp dƣới đƣợc trao quyền lực rất cảnh giác  
trong các nỗ lực để hiểu đƣợc nhu cầu của sếp để giảm bớt trách nhiệm.  
Trong bảng dƣới đây những hƣớng dẫn mà Jack Gabaro và John Kotter (1980) đã đƣa  
ra để định hƣớng các nỗ lực của bạn sao cho có lợi cho sếp: phải hiểu đƣợc những sức ép mà  
sếp phải gánh chịu cũng nhƣ các ƣu tiên của ông ta, đồng thời đánh giá đƣợc nhu cầu và  
điểm mạnh riêng của bạn. Kiến thức này sẽ giúp bạn nâng cao năng lực hơn thông qua định  
hƣớng và hạn định thời gian cho các nỗ lực để tối đa hoá hiệu quả của nó.  
Bảng 5.14. Quản lý mối quan hệ với cấp trên của bạn  
Đảm bảo bạn hiểu sếp của mình gồm:  
- Mục tiêu và mục đích của sếp.  
- Sức ép mà sếp đang gánh vác.  
- Những điểm mạnh, điểm yếu và những điều nản lòng của sếp.  
- Phong cách làm việc đƣợc sếp ƣu thích.  
Tài sản của bản thân bao gồm:  
- Những điểm mạnh, điểm yếu của chính bản thân bạn.  
- Phong cách cá nhân của bạn.  
- Khuynh hƣớng của bạn dựa vào những nhân vật quyền lực.  
Phát triển và duy trì mối quan hệ mà:  
- Điều chỉnh nhu cầu và phong cách của bạn thích hợp.  
- Đƣợc đặc trƣng bởi những kỳ vọng chung.  
- Giữ cho sếp của bạn có một sự hiểu biết.  
- Dựa trên cơ sở tin cậy và chân thành.  
- Chọn lựa sử dụng thời gian của sếp và các nguồn lực.  
5.1.2.4. Sự phù hợp với văn hóa tổ chức  
Giá trị đóng một vai trò quan trọng trong tổ chức. Nó mang lại sự hợp pháp và hƣớng  
dẫn hành vi của các cá nhân gắn kết với nó. Những nhà lãnh đạo thƣờng thận trọng trong việc  
bảo vệ những giá trị tổ chức cốt lõi và hội nhập những nhân viên vào các cách thức suy nghĩ  
và hành động phù hợp. Các nhân viên mới hoặc những ngƣời ngoài tổ chức thƣờng không  
94  
hiểu đƣợc vai trò quan trọng của nền văn hoá tổ chức trong việc truyền bá và bảo vệ lý do tồn  
tại của tổ chức.  
Những hoạt đông phù hợp với hệ thống giá trị phổ biến thƣờng đƣợc cho rằng đáng tin  
cậy hoặc hợp với quy định. Chúng đƣợc coi là đƣơng nhiên đúng, thay vì phải đánh giá nghiên  
cứu cẩn thận.. Do đó, sẽ làm tăng tính chấp nhận và tính chấp nhận yếu tố then chốt đối với  
ảnh hƣởng cá nhân.  
Các thành viên mới của tổ chức đƣợc chỉ bảo rằng những hành vi nào là có thể chấp nhận  
đƣợc (thông qua các câu chuyện), các nghi thức, các biểu tƣợng.. những nhân viên mới nhìn  
vào những phát biểu chính thức cho các vị trí trong công ty, thăm những câu trả lời cho các  
câu hỏi nhƣ ―Nguồn gốc của sự hãnh diện trong tổ chức gì‖, ― Đâu là cách nhanh nhất để gây  
rắc rối‖, ―Ai là ngƣời hùng của công ty‖, Các truyền thống của công ty là gì?‖.  
Nhiều ngƣời cho rằng các hoạt động thực tế đó có ý nghĩa chỉ khi đƣợc đánh giá là mang  
tính củng cố cho các giá trị cơ bản, cốt lõi của tổ chức.  
5.2.2. Đặc điểm vị trí tạo nên quyền lực  
Không phải quyền lực chỉ bắt nguồn từ các đặc điểm cá nhân, mà còn bắt nguồn từ vị  
trí và công việc. Các đặc điểm quan trọng của một vị trí có liên quan đến quyền lực là: tính tập  
trung và quan trọng, tính linh hoạt, khả năng thể hiện sự phù hợp.  
5.2.2.1. Tính tập trung và tính quan trọng  
Một trong những cách quan trọng để đƣợc quyền lực trong một tổ chức thiết lập một  
mạng lƣới rộng các công việc những mối quan hệ cá nhân. Mạng lƣới vô cùng quan trọng đối  
với năng lực, do những lý do: trừ những công việc bình thƣờng hàng ngày, không ai có  
những nguồn lực và thông tin cần thiết để hoàn thành những gì ngoài mong đợi. Thực tế đã  
chứng minh rằng những ngƣời thành công là nhờ khả năng thiết lập các mối quan hệ phi chính  
thức thông qua mạng lƣới. Bị lập trong một mạng lƣới phi chính thức thì không thể thu  
thập đƣợc thông tin, nguồn lực và các hỗ trợ cần thiết để hoàn thành những công việc quan  
trọng, khó khăn.  
Quyền lực sẽ gia tăng thông qua các mối quan hệ mạng lƣới chiều dọc cũng nhƣ chiều  
ngang bởi vị trí và chức năng của một ngƣời trong mạng lƣới. Nói một cách đơn giản, vị trí  
càng trung tâm so với luồng thông tin đi khắp mạng lƣới chức năng càng quan trọng so với  
95  
hiệu quả làm việc của ngƣời khác trong mạng lƣới thì quyền lực sẽ càng gia tăng. Cái nhìn  
về quyền lực của tổ chức nhƣ thế đƣợc gọi ―Ngẫu nhiên chiến lƣợc‖. Trƣờng phái lý thuyết  
này cho rằng nguyên nhân của việc phân bố quyền lực không đều là do các đơn vị cũng nhƣ là  
các vị trí khác biệt nhau ở khả năng kiểm soát các ngẫu nhiên chiến lƣợc (ví dụ: về bảo mật  
thông tin, kiến thức chuyên môn, tài chính) quan trọng đối với hiệu suất công việc của ngƣời  
khác. Rất ít các hoạt động quan trọng diễn ra riêng biệt; những xảy ra ở bộ phận này ảnh  
hƣởng đến việc xảy ra ở bộ phận khác. Do đó, các tác động do hoạt động của một ví trí nào đó  
càng lan rộng khắp tổ chức thì cơ sở sức mạnh càng lớn.  
Hai khái niệm ―tính trung tâm và tính quan trọng‖ đã rất hữu ích vì chúng cung cấp  
những hƣớng dẫn để mở rộng nền tảng quyền lực của bạn theo chiều ngang.  
Đầu tiên, phải trở thành nhân vật trung tâm trong mạng lƣới truyền thông rộng nhất. Một  
trong những nhầm lẫn lớn nhất những ngƣời bắt đầu sự nghiệp nhà quản trị hay mắc phải là  
trở nên tự lập. Họ cho rằng dẫn đầu trong bộ phận của mình là đủ để trở thành dẫn đầu  
trong toàn tổ chức. Kết quả là họ tập trung toàn bộ sức sự vào việc xây dựng mối quan hệ  
với những ngƣời đồng nghiệp hiện tại. Nếu bạn nghĩ về tổ chức nhƣ những cấu trúc theo  
chiều ngang, bạn sẽ thấy mạng lƣới truyền thông trong một bộ phận trở nên lẻ loi nhƣ thế nào.  
Điều quan trọng phải trở thành nhân vật trung tâm trong mạng lƣới truyền thông của tổ chức  
chứ không chỉ của bộ phận. Điều này có thể thực hiện bằng cách đi ăn trƣa với những ngƣời ở  
bộ phận khác, đọc báo cáo năm của tất cả các bộ phận, xung phong trong các công việc cần  
nhiều bộ phận hợp tác, tìm kiếm các vị trí phải làm việc nhiều với những bộ phân khác.  
Thứ đến, tăng tính quan trọng trong công việc của bạn. Một câu hỏi để xác định tầm  
quan trọng trong trách nhiệm công việc của bạn là ―Nếu tôi vắng mặt một tuần, tổ chức sẽ gặp  
rắc rối gì?‖, Câu trả lời cho câu hỏi này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: (1) Những ngƣời khác  
phụ thuộc vào bạn nhƣ thế nào trong công việc, ( 2) Mức độ đòi hỏi về kỹ năng và các kiến thức  
đặc biệt trong vị trí công việc của bạn, (3) Số ngƣời thực hiện cùng công việc nhƣ bạn. Tồn tại  
một nguyên tắc: những công việc ―mục đích chung chung‖ thƣờng đƣợc nhiều ngƣời làm, do  
đó sẽ có ít quyền lực hơn những trách nhiệm toàn bộ đố với những chức năng đặc thù đòi  
hỏi kỹ thuật cao. Tầm quan trọng của một vị cũng thể đƣơc tăng bằng cách đảm nhận  
những chức năng thiết yếu đối với hiệu suất công việc của ngƣời khác, bằng cách giảm đi sự dƣ  
96  
thừa thông qua cách kết hợp nhiều vị trí, bằng cách gia tăng mức độ kiến thức kỹ thuật cần thiết  
để thực hiện công việc.  
5.2.2.2. Tính linh hoạt  
Một đòi hỏi quan trọng để xây dựng cơ sở quyền lực mức độ tự do- để thực hiện  
đánh giá của chính mình. Một ngƣời không có quyền hạn tự sáng tác, tự đổi mới, tự thể hiện  
các sáng kiến, sẽ thấy vô cùng khó khăn để quyền lực (trừ những tình huống đặc biệt, trong  
đó sự tuân thủ quá tỷ mỷ luật lệ sẽ phá vỡ hệ thống nhƣ trong trƣờng hợp sự chậm chạp của  
ngƣời kiểm soát không lƣu). Một khái niệm khác của tự đo đó là linh hoạt. Một vị trí linh hoạt  
rất ít các quy định hay các thiết chế hƣớng dẫn cách thức làm công việc. Ngoài ra, khi cần ra  
một quyết định không theo lệ thƣờng, không nhất thiết phải sự đồng ý của nhà quản trị cấp  
cao. Tính linh hoạt thƣờng gắn với một số loại nhiệm vụ nhất định, đặc biệt là các nhiệu vụ đa  
dạng và có tính đổi mới cao. Những ngƣời đảm nhận các vị trí đó thƣờng đƣợc giao nhiều loại  
hoạt động khác nhau, mỗi loại đòi hỏi cần phải sự đánh giá đáng kể. Công việc càng theo  
lối mòn và công việc càng ít thì càng dễ chƣơng trình hoá trƣớc công việc để xóa bỏ nhu cầu để  
tự do hoạt động.  
5.2.2.3. Khả năng thể hiện  
Nếu năng lực, song năng lực của anh không đƣợc mọi ngƣời nhận ra thì cũng khó có  
thể quyền lực.  
Một trong những thƣớc đo của sự nhìn nhận này là số ngƣời bạn thông thƣờng  
tƣơng tác với họ trong tổ chức. Điều này sẽ giải thích đƣợc tại sao những vị trí hƣớng đến  
con ngƣời thƣờng có xu hƣớng nhiều quyền lực hơn là là những vị trí hƣớng đến công việc. Dĩ  
nhiên, liên hệ với một vài thành viên nào đó nào đó trong tổ chức thì quan trọng hơn những  
ngƣời khác. Điều quan trọng vị trí phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp xúc với các lãnh  
đạo cấp cao. Có thể thực hiện điều này thông qua việc tham gia vào những chƣơng trình của  
công ty hay bên ngoài, các cuộc hội họp, hội thảo. Nhiều nghề nghiệp đã khỏi sự rất tốt bằng  
một bài báo cáo ấn tƣợng ở một buổi hội thảo hay họp hội đồng quản trị.  
sự khác biệt rất lớn giữa tính trung tâm (centrality) và tính thể hiện (visibility). Mục  
đích của việc trở thành trung tâm của một mạng lƣới giao tiếp rộng tiếp cận với luồng thông  
tin phong phú để bạn thể đáp ứng đƣợc nhu cầu thông tin của ngƣời khác. Trái lại, từ  
97  
quan điểm của tính thể hiện, trong một vị trí cho phép bạn tƣơng tác với một số lƣợng  
lớn những ngƣời ảnh hƣởng để gia tăng quyền lực của bạn để làm cho kết quả công việc  
của bạn đƣợc công nhận và rõ ràng hơn đối với những ngƣời chịu trách nhiệm phân bổ nguồn  
lực (các nhiệm vụ tốt và thăng cấp).  
5.2.2.4. Sự phù hợp  
Sự phù hợp của một vị trí công việc nào đó chính là mối liên hệ giữa công việc đó với với  
hoạt động cạnh tranh chính của công ty. Sự phù hợp cũng có liên quan đến tính quan trọng song  
hai từ này khác nhau ở cơ chế sinh ra quyền lực. Trong trƣờng hợp tính quan trọng  
(criticality), quyền lực bắt nguồn từ mối quan hệ giữa công việc do một ngƣời nào đó thực  
hiện với công việc của ngƣời khác. Khi công việc đó chỉ đƣợc gắn liền duy nhất với một vị  
trí trong tiến trình công việc, chính sự duy nhất đó làm cho cá nhân thực hiện công việc trở nên  
quan trọng, cốt yếu đối với những ngƣời khác. Trái lại, sự phù hợp hàm ý mối liên hệ giữa  
công việc và giá trị đặt ra đối với các hoạt động trong một tổ chức. dụ, hoạt động tạo lợi thế  
cạnh tranh. Các vị trí có quyền lực vị trí mà những cá nhân nắm giữ mối quan hệ mật  
thiết với mối quan tâm sống còn của tổ chức.  
98  
CHƢƠNG 6: ĐỘNG CƠ THÚC ĐẨY  
6.1. Chuẩn đoán những vấn đề thực hiện công việc  
Hãy bắt đầu bằng việc xem xét trƣờng hợp về những nhà quản trị với những kỹ năng sắc sảo  
để chấn đoán những vấn đề thực hiện công việc. Có những xu hƣớng để những nhà giám sát quy  
nguyên nhân thực hiện công việc kém hay thành tích thấp là do động cơ thúc đẩy thấp. Khi nhân  
viên không có khả năng đáp ứng những mong muốn về thành tích, nhà giám sát có xu hƣớng đỗ lỗi  
kết cục này là do sự nỗ lực thấp- thƣờng thiếu sự quan tâm và cam kết.  
Để tránh rơi vào tình trạng đơn giản hóa việc nhận thức những vấn đề sự thực hiện công việc  
hoặc những tồi tệ đó, những nhà quản trị cần một mô hình hoặc một hệ thống dẫn dắt tiến trình phân  
tích của họ. Những nhà nghiên cứu chuyên sâu về nhiều tổ chức khác nhau (nhƣ Vroom, 1964;  
Steers, Porter & Bigley, 1996) đã đƣa ra những công thức tóm lƣợc về sự thực hiện nhiệm vụ nhƣ  
sau:  
Sự thực hiện = Khả năng * Động cơ (Sự nỗ lực)  
Trong đó:  
Khả năng = Thái độ * Đào tạo * Các nguồn lực  
Động cơ = Kỳ vọng(mong muốn) * Sự cam kết  
Theo những công thức này, sự thực hiện công việc sản phẩm của khả năng nhân với động  
thúc đẩy, và khả năng kết quả của thái độ nhân với quá trình đào tạo với các nguồn lực, và  
động cơ thúc đẩy kết quả của những mong muốn hay kỳ vọng nhân với sự cam kết. Hàm đa biến  
trong công thức này cho rằng tất cả các yếu tố đó đều rất quan trọng. dụ, những công nhân mà có  
100% về động cơ thúc đẩy và 75% khả năng cần thiết để thực hiện một nhiệm vụ thì thành tích có  
thể ở mức độ cao hơn trung bình. Tuy nhiên, nếu những cá nhân chỉ có 10% khả năng cần thiết, thì  
không có một động cơ thúc đẩy nào có khả năng cho phép họ thực hiện công việc một cách thỏa  
mãn.  
Thái độ phụ thuộc vào những kỹ năng khả năng tự nhiên mà con ngƣời đem đến cho một  
công việc. Những điều này liên quan đến khả năng thể chất và trí tuệ, nhƣng với những công việc  
đƣợc định hƣớng vào con ngƣời, chúng cũng gồm cả những đặc điểm cá nhân. Phần lớn các khả  
năng vốn thể gia tăng nhờ hoạt động giáo dục đào tạo. Quả vậy, nhiều điều chúng ta gọi là  
khả năng tự nhiên ở những ngƣời trƣởng thành có thể đƣợc thấy trƣớc khi nhìn vào những hoạt động  
của họ, bởi họ đã đƣợc thừa hƣởng những kỹ năng quan hệ hội của cha mẹ hoặc anh chị lớn hơn  
99  
trong gia đình của mình. Tuy nhiên, có thể đánh giá đào tạo nhƣ một phần cấu thành riêng biệt  
của khả năng rất hữu ích bởi biểu hiện một cơ cấu quan trọng để cải thiện sự thực hiện công  
việc của nhân viên. Khả năng nên đƣợc đánh giá trong suốt tiến trình phối hợp với công việc bằng  
cách theo dõi, kiểm tra các ứng viên về những yêu cầu kỹ năng cho công việc. Nếu một ứng viên có  
khuyết điểm nhỏ về thái độ công việc nhƣng nhiều những đặc điểm khác tuyệt vời, thì một  
chƣơng trình đào đạo chuyên sâu có thể sẽ làm gia tăng những khả năng để thực hiện công việc.  
Định nghĩa của chúng tôi về khả năng một khái niệm rộng. Chúng tôi đang tập trung vào  
khả năng để thực hiện hơn khả năng của người thực hiện. Vì thế, định nghĩa của chúng tôi liên  
quan đến yếu tố thứ ba, một thành phần về trạng thái: nguồn lực tƣơng xứng. Thông thƣờng những  
cá nhân đƣợc đào tạo tốt và có nhiều khả năng, đƣợc bố trí vào những ví trí, tình huống hạn chế  
thành tích công việc. Đặc biệt, họ không đƣợc cung cấp các nguồn lực (kỹ thuật, nhân viên, chính  
sách) để thực hiện một cách có hiệu quả những nhiệm vụ đƣợc giao.  
Động cơ thúc đẩy miêu tả mong muốn của nhân viên và cam kết để thực hiện chứng tỏ  
những nỗ lực liên quan đến công việc. Một vài ngƣời muốn hoàn thành một nhiệm vụ nhƣng dễ bị  
xao nhãng và nản lòng. Họ có mong muốn cao nhƣng thiếu sự cam kết. Một số ngƣời khác thì có sự  
cam kết cao nhƣng thiếu những mong muốn, họ bƣớc một cách khó nhọc với sự kiên trì ấn tƣợng  
nhƣng việc làm của họ thì rất tầm thƣờng.  
Ngƣời giám sát phải đƣa ra câu chẩn đoán đầu tiên về thành tích kém của nhân viên là có gốc  
từ thiếu khả năng hoặc thiếu động cơ thúc đẩy. Các nhà quản trị cần bốn thông tin để trả lời câu hỏi  
này. (Michener, Fleishman, và Vaske, 1976):  
1. Mức độ khó khăn của nhiệm vụ đƣợc giao cho cá nhân nhƣ thế nào?  
2. Khả năng của nhân viên nhƣ thế nào?  
3. Nhân viên có những khó khăn nhƣ thế nào trong nỗ lực hoàn thành công việc?  
4. Có những cách nào để cải thiện nhân viên?  
Về bốn câu hỏi này, nói chung có khả năng thấp liên quan với những nhiệm vụ rất khó khăn,  
khả năng cá nhân thấp toàn diện, bằng chứng của sự nỗ lực mạnh mẽ, thiếu sự cải tiến qua thời  
gian.  
Trả lời câu hỏi: ―Điều này là do vấn đề khả năng hay động cơ‖ những nghiên cứu phân  
loại khá rộng về mối quan hệ giữa các nhà quản trị và nhân viên. Nghiên cứu về chủ đề này chỉ ra  
rằng những nhà quản trị có xu hƣớng quan tâm đến vấn đề con ngƣời hơn, nếu họ cảm thấy rằng con  
100  
ngƣời không chủ tâm thực hiện để đạt đƣợc những kỳ vọng, đúng hơn là không thực hiện một cách  
hiệu quả không phải là do áp lực không thể kiểm soát bên ngoài. Đôi khi các nhà quản trị thanh  
minh sự lựa chọn của họ về một chiến lƣợc ảnh hƣởng mạnh mẽ đối với cấp dƣới nếu cấp dƣới có  
một thái độ tồi tệ là hằn học, thù địch đối với ngƣời quyền hành hoặc thiếu sự cống hiến.  
6.2. Thúc đẩy khả năng của các cá nhân  
6.2.1. Các dấu hiệu giảm sút khả năng  
Các nhà quản trị nên đƣợc báo động về những cá nhân có dấu hiệu giảm sút khả năng. Sau  
đây là ba dấu hiệu nguy hiểm cho những vị trí quản lý:  
Lẫn tránh trong chuyên môn. Những nhà quản trị bộc lộ những dấu hiệu thiếu khả năng khi  
họ xử lý tình huống không dựa vào cơ sở về quản lý mà dựa theo đặc tính chuyên môn của họ.  
Điều này thƣờng xuất hiện khi những nhà quản trị tổng quát cảm thấy không an toàn về những  
vấn đề diễn ra bên ngoài lĩnh vực thành thạo và kinh nghiệm của họ.  
Tập trung vào những thành tích trong quá khứ. Một dấu hiệu nguy hiểm khác là đánh giá  
giá trị của ai đó trong tổ chức theo những thành tích quá khứ hoặc theo những tiêu chuẩn cũ trƣớc  
đây. Một vài chỉ huy kỵ binh trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất dựa vào những kiến thức lỗi  
thời của mình đã thất bại thảm hại trong chiến tranh đƣợc cơ giới hóa. Nói chung trong các tổ  
chức, hình thái lạc hậu này thất bại nhƣờng chỗ cho sứ mệnh của họ trong việc đáp ứng những  
điều kiện thay đổi của thị trƣờng.  
Cƣờng điệu những khía cạnh của vai trò lãnh đạo. Những nhà quản trị thiếu lòng tin về  
khả năng của họ có xu hƣớng phòng thủ. Điều này thƣờng dẫn họ cƣờng điệu về một khía cạnh  
nào đó về vai trò quản của họ. Nhiều nhà quản trị thể giao phó hầu hết trách nhiệm của họ bởi  
họ không cảm thấy thành thạo nữa để thực hiện chúng tốt. Hoặc họ thể trở thành những nhà  
quản trị hành chính cụ thể, xem xét kỹ lƣỡng mọi chi tiết đến mức vƣợt khỏi giá trị thự tiễn. Mặc  
dầu những ngƣời khác đã kịch liệt phản đối nhƣng tính tiêu cực của họ không thể thúc đẩy khả  
năng sáng mà lại ngăn cản những nỗ lực nhằm thay đổi họ.  
6.2.2. Giải pháp cho vấn đề thiếu khả năng  
Có 5 công cụ chính hữu dụng để khắc phục những vấn đề thành tích kém nhằm vào thiếu khả  
năng: cung cấp lại, đào tạo lại, trang bị lại, phân công lại và sa thãi. Chúng ta sẽ bàn về những điều  
này với mục đích để các nhà quản trị xem xét chúng.  
101  
Một khi nhà quản trị biết chắc rằng thiếu khả năng là nguyên nhân chính của thành tích kém,  
họ nên tổ chức một cuộc phỏng vấn kiểm tra để tìm ra những giải pháp này, bắt đầu với việc cung  
cấp lại và đào tạo lại.  
Cung cấp lại tập trung vào những nhu cầu hỗ trợ công việc, liên quan đến con ngƣời, ngân  
sách và các chính sách. Đƣa ra câu hỏi: ―Anh cần để thực hiện công việc một cách thỏa mãn?‖  
cho phép cấp dƣới bày tỏ sự không thỏa mãn của họ liên quan đến sự hỗ trợ không tƣơng xứng.  
Thông thƣờng một xu hƣớng tự nhiên là các cá nhân đổ lỗi cho các nguyên nhân bên ngoài về những  
lỗi của họ, các nhà quản trị nên thăm những than phiền của thuộc cấp mình về thiếu sự hỗ trợ một  
cách chi tiết để xác định tính hiệu lực của những than phiền đó. Thậm chí, nếu nhân viên phóng đại  
về những yêu sách của họ, hãy bắt đầu sự thảo luận của bạn về thành tích kém, đƣa ra những dấu  
hiệu của bạn sẵn sàng hỗ trợ họ giải quyết vấn đề từ hoàn cảnh của họ hơn là tìm khiếm khuyết từ  
hoàn cảnh của họ.  
Đào tạo lại những công ty của Hoa Kỳ với hơn 100 nhân viên, đã chi 60,7 tỉ đô la để đào tạo  
chính thức khoản 54,5 triệu nhân viên trong năm 1998, gia tăng 26% so với năm 1993. Để cung cấp  
sự đào tạo này các công ty đã chi 42 tỉ đô la cho những nhà huấn luyện của công ty và khoản 14,3 tỉ  
đô la cho những tổ chức đào tạo. Đây một khoản phí tổn khá lớn của các công ty Hoa Kỳ, nhƣng  
lý do cho những phí tổn này là quá sức rõ ràng. Trƣớc hết, công nghệ thay đổi quá nhanh làm cho kỹ  
năng của nhân viên sớm bị lạc hậu. Điều này nói rằng những kỹ sƣ đã tốt nghiệp đƣợc 25 năm sẽ cần  
đào tạo lại 8 lần trong 40 năm nghề nghiệp của họ. Thứ hai nhân viên sẽ đƣợc bố trí vào những vị trí  
khác nhau trong suốt cuộc đời làm việc của họ mỗi một vị trí đó cần một sự thành thạo khác biệt  
nhau. Cuối cùng, nhân khẩu học thay đổi trong xã hội của chúng ta sẽ dẫn đến một sự gia tăng về lực  
lƣợng lao động lớn tuổi. Để các công ty duy tđƣợc sự cạnh tranh, họ phải ngày càng đào tạo lại đội  
ngũ nhân viên già cỗi của mình.  
Những chƣơng trình huấn luyện thể đƣa ra những hình thức khác nhau. Ví dụ, nhiều công  
ty đang sử dụng công nghệ máy tính nhiều hơn trong đào tạo. Điều này liên quan đến sự giảng dạy  
theo kỹ thuật tƣơng tác và những trò chơi kinh doanh, đƣợc phỏng theo những hoạt động của các  
nhà quản trị trong các tổ chức, những hình thức truyền thống hơn trong đào tạo nhƣ thiết lập các  
chƣơng trình liên kết với các trƣờng đại học, hoặc thảo luận về những tình huống quản trị.  
Trong nhiều trƣờng hợp, sự hỗ trợ các nguồn lực đào tạo lại không đủ khắc phục tình trạng  
thành tích kém. Khi điều này xảy ra thì bƣớc tiếp theo nên xem xét cẩn thận, điều chỉnh lại những  
102  
nhân viên thành tích kém về nhiệm vụ đã phân công cho họ. Lúc này cấp dƣới vẫn duy trì trong  
công việc hiện tại, thì cần phân tích những thành phần công việc của họ và các phối hợp khó khăn về  
nhiệm vụ khả năng để đạt đƣợc mục tiêu của tổ chức, cũng cần chú trọng đến việc cung cấp  
một việc làm có ý nghĩa thỏa mãn trong công việc. dụ, một ngƣời phụ đƣa ra cách quản lý  
về những sự kiện kỹ thuật cho vị trí của giám sát viên trực tuyến (nhà quản trị cấp cơ sở), thì giám  
sát viên sẽ nhiều thời gian rỗi để phát triển nhân viên hoặc phát triển những kế hoạch dài hạn  
bộc lộ khả năng quản trị ở những vị trí cao hơn.  
Nếu bản tả công việc đƣợc duyệt lại mà không vận hành đƣợc hoặc không tƣơng xứng,  
thì phƣơng án thứ tƣ phân công lại cho những nhân viên có thành tích kém hoặc một vị trí ít  
trách nhiệm hoặc ví trí cần ít những kiến thức kỹ thuật hoặc những kỹ năng quan hệ cá nhân. Ví dụ,  
một chuyên gia y khoa ở một bệnh viện, ngƣời này nhận thức những khó khăn gia tăng để theo kịp  
với những thủ tục y khoa mới nhƣng để chứng tỏ những kỹ năng quản lý họ có thể chuyển sang chức  
vụ hành chính thƣờng trực cao hơn.  
Giải pháp cuối cùng là sa thãi, nếu việc đào tạo lại và xác định lại những công việc trong  
phân công lại nhiệm vụ mà không có kết quả nếu không có cơ hội để phân công lại trong tổ chức,  
thì nhà quản trị nên xem xét sa thãi nhân viên. Nói chung việc này sẽ bị công đoàn, những chính  
sách của công ty, lý do thâm niên và những quy định của chính phủ chống đối. Tuy nhiên, thông  
thƣờng những ngƣời thành tích kém cố bám chặt ở lại, những ngƣời này có thể không bị sa thãi bởi  
quản chọn bƣớc là phân công (sidestep) những công việc ít đƣợc ƣa thích. Hơn nữa quyết  
định đƣa ra xác định những cá nhân này là ―bỏ đi‖, nằm ngoài xu hƣớng của các hoạt động, ở đó họ  
không thể gây ra bất kỳ vấn đề gì. Thậm chí, khi hành động này đƣợc thúc đẩy bởi sự quan tâm nhân  
đạo, thƣờng sản sinh ra kết quả ngƣợc lại. Những hành động bao quanh bảo vệ nhân viên năng  
suất thấp do ngƣợng nghịu của việc sa thãi chỉ thay thế sự làm bẽ mặt bằng bản chất bị lờ đi. Hiển  
nhiên, sa thãi là một hành động mạnh mẽ không nên khinh suất. vậy, sau khi bốn giải pháp trên  
đƣợc tiến hành mà không mang lại kết cục mong muốn nào thì giải pháp này mới đƣợc xem xét.  
6.3. Nuôi dƣỡng một môi trƣờng làm việc thúc đẩy  
Thành phần thứ hai về sự thực hiện của nhân viên là động cơ thúc đẩy. Trong khi xem xét các  
chƣơng trình đào tạo, nhu cầu hỗ trợ cho cấp dƣới chủ động thuê và phối hợp công việc để đảm  
bảo khả năng phù hợp rất quan trọng, ảnh hƣởng của nhà quản trị trong việc động viên cấp dƣới  
103  
hằng ngày cũng vấn đề không kém phần quan trọng. Các nhà quản trị dành khá nhiều thời gian để  
tăng cƣờng thúc đẩy các nhân viên của họ.  
Một trong những đóng góp ảnh hƣởng mạnh đến sự phát triển về sau của tƣ tƣởng quản trị là  
Douglas McGregor (1960) đƣa ra Thuyết X bàn về một phong cách quản lý tiêu biểu cho sự giám sát  
chặt chẽ. Giả thiết căn bản của thuyết này là, con ngƣời thực sự không muốn làm việc vất vả hoặc  
gánh vác trách nhiệm. thế để buộc họ làm việc, các nhà quản trị phải ép buộc, đe dọa, trừng phạt  
và giám sát chặt chẽ nhân viên của họ. Ngƣợc lại McGregor cũng đƣa ra Thuyết Y khi xem xét công  
nhân. Ông đã diễn đạt một ý nghĩ đối lập rằng, về cơ bản những ngƣời công nhân muốn làm việc tốt  
sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm. vậy, vai trò của các nhà quản lý là hỗ trợ những ngƣời công  
nhân để họ đạt đến những tiềm năng của mình bằng cách thúc đẩy họ một cách có hiệu quả. Thật  
không may, McGregor đã nhận ra rằng phần lớn các nhà quản trị tán đồng những giả thiết của  
Thuyết X về động cơ của công nhân.  
Sự thịnh hành theo duy của Thuyết X, đƣa ra một loạt vấn đề thú vị về động cơ thúc đẩy.  
Mục đích của giảng dạy những kỹ năng thúc đẩy cho các nhà quản trị là gì? Những nhà quản trị có  
nên nghiên cứu những kỹ năng này để họ thể giúp đỡ nhân viên đạt đƣợc những tiềm năng của  
mình? Hoặc chúng ta đang dạy các kỹ năng này cho các nhà quản trị để họ thể lôi kéo hiệu quả  
hơn những hành vi của nhân viên họ. Đƣơng nhiên những vấn đề này dẫn dắt một khuynh hƣớng  
khái quát về những vấn đề mối quan hệ giữa nhà quản trị và nhân viên. Giả sử một nhà quản trị cảm  
nhận chịu trách nhiệm về việc duy trì mức năng suất nhất định, điều đó có liên quan đến các nhu cầu  
những mong muốn của nhân viên không? Nói cách khác, tinh thần làm việc của nhân viên liên  
quan đến năng suất của công ty hoặc là chúng loại trừ nhau?  
Nghiên cứu hiện nay, cũng nhƣ những chƣơng trình động cơ thúc đẩy của tổ chức đã tuyên  
bố ủng hộ vai trò liên quan đến sự thỏa mãn tinh thần hiệu suất công việc thể đồng tồn tại.  
Theo hình 6.8 đã chỉ ra, các chƣơng trình không chỉ mà còn tập trong vào gia tăng cả hai là cho  
sự thỏa mãn tinh thần của nhân viên và hiệu suất công việc.  
Nhấn mạnh vào sự thỏa mãn cao với việc hƣớng vào hiệu suất công việc thấp biểu hiện  
của một quan điểm thiếu trách nhiệm của vai trò quản trị. Những nhà quản trị đƣợc thuê mƣớn để  
quan tâm đến quyền lợi của ngƣời chủ. Những nhân viên hiểu đƣợc này có thể chịu trách nhiệm  
về kết quả sản xuất một cách thỏa đáng. Những nhà quản trị nhấn mạnh vào sự thỏa mãn loại trừ  
hiệu suất sẽ đƣợc coi nhƣ những ngƣời vui vẻ, nhƣng kiểu quản trị nuông chìu này sẽ làm suy  
104  
yếu hiệu suất công việc của nhân viên cấp dƣới của mình, bầu không khí câu lạc bộ sẽ hạn chế  
hiệu quả.  
Nhấn mạnh vào hiệu suất công việc để loại trừ sự thỏa mãn là sự kém hiệu quả nhƣ nhau. Lần  
này, thay vì nuông chiều nhà quản trị áp đặt những quy định buộc chấp nhận phải thực hiện công  
việc. Trong trƣờng hợp này nhà quản trị ít quan tâm về việc nhân viên cảm thấy về công việc của  
mình nhƣ thế nào. Những mệnh lệnh của ông chủ đƣa ra thì nhân viên phải làm theo chúng. Những  
nhân viên bị ra lệnh sẽ cảm thấy chán, khổ sở và có thể tìm kiếm một công việc ở công ty của đối  
thủ cạnh tranh. Vì thế, sự bóc lột, mệnh lệnh thể làm gia tăng hiệu suất trong ngắn hạn, nhìn  
chung hiệu quả trong dài hạn sẽ bị giảm xuống thể hiện bằng việc gia tăng sự vắng mặt, tốc độ luân  
chuyển nhân viên cao, và thậm chí trong một vài trƣờng hợp họ chống đối ngầm phá hoại, bạo lực.  
Khi nhà quản trị không quan tâm đến cả nhân viên và hiệu suất công việc, họ đang lờ đi trách  
nhiệm của mình. Kết quả của sự bỏ mặc này phản ánh sự thiếu quản lý. Không có một sự lãnh đạo  
thực sự, theo nghĩa những nhân viên không nhận đƣợc những quyền ƣu tiên và cả sự định hƣớng. Họ  
bị đờ ngƣời ra giữa việc họ không biết làm gì để quan tâm đến con ngƣời và công việc, nhà quản trị  
đã không quan tâm đến cả hai. Kết quả một sự bỏ mặc, nếu điều này cứ tiếp tục, kết cục sẽ đƣa  
đến sự thất bại của đơn vị.  
Chiến lƣợc động viên hợp nhất liên kết vừa nhấn mạnh vào con ngƣời hiệu suất công  
việc một cách cân bằng. Những nhà quản trị hiệu quả thể phối hợp những lực lƣợng đang mâu  
thuẩn nhau vào trong những chƣơng trình điều phối hợp nhất. Thay vì, chấp nhận sự hiểu biết  
truyền thống, họ cho rằng những lực lƣợng cạnh tranh có thể tiêu diệt nhau, họ lợi dụng sự căng  
thẳng giữa những sự kiện đƣợc phối hợp, để đƣa ra những cách tiếp cận sáng tạo. Vì vậy, điều này  
nghĩa rằng cả hai vấn đề con ngƣời và công việc thể không đƣợc thỏa mãn một cách hoàn  
toàn trong từng tình huống đặc biệt. Đƣơng nhiên, một vài việc cân bằng cách yếu tố khác nhau  
để đạt đƣợc sự kết hợp tốt nhất xuất hiện đối với những tình huống công việc đang xảy ra. Vì vậy,  
trong dài hạn cả hai mục tiêu này nên đƣợc xem xét nhƣ nhau.  
Quan điểm hợp nhất về động cơ thúc đẩy cho rằng, trong khi trạng thái cảm xúc hài lòng của  
nhân viên về điều họ đang làm và cách họ đƣợc đối xử, thì không thể giảm sút các hoạt động. Sự  
quan tâm này không thể làm lu mờ trách nhiệm của quản về kết quả hoạt động của nhân viên.  
Những nhà quản trị nên ngăn ngừa những cạm bẩy cặp đôi này trong công việc để tạo ra tinh thần  
nhân viên cao vì lợi ích của chính các nhân viên hoặc chỉ thúc đẩy đƣợc nhân viên trong những kết  
105  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 46 trang yennguyen 06/04/2022 7780
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Phát triển kỹ năng quản trị (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_phat_trien_ky_nang_quan_tri_phan_2.pdf