Vai trò của 18-FDG-PET/CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm: Phân tích dựa trên ca lâm sàng

NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Vai trò của 18-FDG-PET/CT  
trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân  
ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ  
giai đoạn sớm: phân tích dựa trên ca lâm sàng  
Phạm Văn Luận1, Nguyễn Đình Tiến1, Lê Ngọc Hà2  
1Khoa Nội Hô hấp, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108  
2Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108  
TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Xạ trị lập thể định vị thân được chỉ  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Phẫu thuật là biện pháp hiệu quả nhất ở bệnh  
định điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN)  
bào nhỏ giai đoạn sớm (T1-2aN0M0) không có chỉ giai đoạn sớm (T1-2aN0M0). Tuy nhiên, có  
định điều trị phẫu thuật do có bệnh kết hợp nặng khoảng 20% trong số bệnh nhân này không có chỉ  
hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật. Các nghiên định phẫu thuật do có bệnh lý nặng kết hợp như  
cứu cho thấy hiệu quả của phương pháp này tương COPD, nhồi máu cơ tim, suy tim,… hoặc bệnh  
đương với phẫu thuật ở giai đoạn sớm của bệnh. Để nhân từ chối phẫu thuật [1]. Do đó, một biện  
điều trị xạ trị lập thể cho bệnh nhân ung thư phổi pháp điều trị triệt căn không xâm lấn thay thế cho  
không tế bào nhỏ cần đánh giá đúng giai đoạn sớm phẫu thuật là hết sức quan trọng và cần thiết. Xạ  
của bệnh, lập kế hoạch điều trị chính xác và cần lựa trị lập thể định vị thân (Stereotactic body radiation  
chọn phương pháp đánh giá đáp ứng sau điều trị.  
therapy - SBRT) là một biện pháp hữu hiệu để  
Mục tiêu: Bàn luận về vai trò của 18-FDG-PET/ thay thế trong trường hợp này. SBRT được coi là  
CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh một phẫu thuật không xâm lấn, kỹ thuật này đã  
nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm. khắc phục được các nhược điểm của kỹ thuật xạ trị  
Kết luận: 18-FDG-PET/CT có vai trò quan thông thường, cho phép nâng liều điều trị tại khối  
trọng trong đánh giá chính xác giai đoạn ung thư u và giảm liều chiếu đối với các tổ chức lành xung  
phổi không tế bào nhỏ, lập kế hoạch xạ trị lập thể quanh, do đó làm tăng khả năng kiểm soát khối u  
định vị định vị thân và đánh giá đáp ứng sau điều trị đồng thời làm giảm các tai biến, biến chứng đối  
xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi với tổ chức lành. Các nghiên cứu đã cho thấy kỹ  
không tế bào nhỏ giai đoạn sớm.  
thuật này cho kết quả điều trị tốt hơn xạ trị thông  
Từ khóa: Xạ trị lập thể định vị thân, ung thư thường và tương đương với phẫu thuật ở các bệnh  
phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm, 18-FDG- nhân UTPKTBN giai đoạn sớm với tỷ lệ kiểm soát  
PET/CT.  
tại chỗ từ 88 – 94%, thời gian sống thêm sau 2 – 3  
Ngày nhận bài: 18/11/2020  
Ngày phản biện: 21/12/2020  
Ngày chấp nhận đăng: 29/12/2020  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
121  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
năm từ 43 – 88% [1],[2],[3]. Để có thể chỉ định 5/2015 đi khám sức khỏe định kỳ tình cờ phát  
SBRT, bệnh nhân cần được đánh giá chính xác giai hiện nốt mờ thùy trên bên phải kích thước 2 cm,  
đoạn sớm của bệnh, được lập kế hoạch điều trị xạ không thấy tổn thương khác trên phim cắt lớp vi  
trị chính xác và có biện pháp đánh giá đáp ứng sau tính ngực – bụng, không có triệu chứng lâm sàng  
điều trị phù hợp để đưa ra hướng điều trị tiếp theo. đi trước. Bệnh nhân được soi phế quản sinh thiết  
PET/CT là một phương pháp không chỉ có giá trị chẩn đoán mô bệnh học ung thư biểu mô tuyến,  
trong chẩn đoán hình ảnh mà còn đánh giá được chụp MRI sọ não, xạ hình xương đều không có di  
sự thay đổi chức năng chuyển hóa của tế bào, giúp căn. Chụp PET/CT xác định kích thước u phổi là 3  
phát hiện các tổn thương di căn hạch và di căn xa cm, tăng chuyển hóa FDG với giá trị SUVmax bằng  
dù là kích thước rất nhỏ, cho phép đánh giá đúng 10, không có tổn thương tăng chuyển hóa FDG ở vị  
giai đoạn bệnh [4],[5]. Bên cạnh đó PET/CT còn trí khác. Có sự chênh lệch về kích thước u phổi trên  
giúp cho việc xác định chính xác thể tích điều trị hình ảnh cắt lớp vi tính và PET/CT là do, PET/  
trong lập kế hoạch xạ trị và theo dõi đáp ứng sau CT đánh giá cả chức năng chuyển hóa thông qua  
điều trị [6-8]. Mục tiêu của bài báo này là bàn luận sự bắt FDG của các tế bào ung thư. Vì vậy, trên CT  
về vai trò của 18-FDG-PET/CT trong điều trị xạ ngực chỉ xác định kích thước u phổi là 2 cm, nhưng  
trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi trên PET/CT, diện tổn thương có tăng chuyển hóa  
không tế bào nhỏ giai đoạn sớm thông qua một ca FDG có kích thước lớn hơn. Bệnh nhân được chẩn  
lâm sàng điển hình.  
đoán giai đoạn Ia (T1N0M0), đo chức năng hô hấp  
bình thường, có chỉ định phẫu thuật cắt thùy trên  
phổi phải, tuy nhiên bệnh nhân từ chối phẫu thuật.  
GIỚI THIỆU CA BỆNH  
Bệnh nhân H.T.L, sinh năm 1957, tiền sử hút Chúng tôi lựa chọn điều trị SBRT cho bệnh nhân  
thuốc lá 20 bao – năm, Gout mạn tính. áng với liều 3000cGy trong 1 phân liều.  
Hình 1,2. Hình ảnh CT, PET/CT trước điều trị và sau 3 tháng  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
122  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Sau điều trị SBRT bệnh nhân không cần điều tổn thương cung sau xương sườn 5 bên phải. Do  
trị bổ trợ gì thêm và được theo dõi, đánh giá mỗi đó, bệnh nhân được đánh giá bệnh tiến triển. Qua  
3 tháng cho đến 12 tháng, sau đó đánh giá mỗi 6 trường hợp bệnh nhân này có thể thấy, nhờ có  
tháng bằng CT ngực, bụng, MRI sọ não, xạ hình PET/CT, bệnh nhân ung thư phổi không tế bào  
xương. Ở thời điểm 3 tháng sau điều trị bệnh nhân nhỏ giai đoạn sớm điều trị bằng SBRT đã có được  
được chụp thêm PET/CT để đánh giá, kết quả cho chiến lược xử trí phù hợp, mang lại hiệu quả điều  
thấy, trên hình ảnh cắt lớp vi tính, khối u đạt bệnh trị cho người bệnh, cũng như tránh được việc chỉ  
ổn định theo tiêu chuẩn RECIST 1.1, nhưng trên định điều trị bổ trợ toàn thân quá sớm hoặc quá  
hình ảnh PET/CT, giá trị SUVmax đã giảm xuống muộn cho bệnh nhân.  
5,4 so với SUVmax 10 trước điều trị và không có tổn  
thương mới xuất hiện. Do đó, bệnh nhân được đánh BÀN LUẬN  
giá đáp ứng 1 phần.  
Vai trò của PET/CT trong chẩn đoán chính xác  
giai đoạn trước điều trị SBRT  
80% các trường hợp ung thư phổi được phát  
hiện khi đã ở giai đoạn muộn với các triệu chứng  
như ho có hoặc không có máu, đau ngực, khó thở,  
sút cân… hoặc triệu chứng của cơ quan bị di căn  
[1]. Vì vậy, phát hiện sớm các tổn thương phổi có  
vai trò rất quan trọng. Các nốt tổn thương ở phổi ở  
giai đoạn sớm thường được phát hiện tình cờ không  
có triệu chứng, một số ít có triệu chứng nhưng mờ  
nhạt nên dễ bị bỏ qua hoặc phát hiện khi sàng lọc  
ung thư phổi ở những người có yếu tố nguy cơ cao,  
thông qua các phương tiện chẩn đoán như Xquang  
ngực chuẩn hay CT ngực. Với một nốt tổn thương  
ở phổi, độ nhạy, độ đặc hiệu của các phương pháp  
chẩn đoán hình ảnh trong việc định hướng lành  
tính hay ác tính là khác nhau. Trong PET/CT có  
sự kết hợp giữa PET để đánh giá về mức độ chuyển  
hóa tế bào với CT để đánh giá về mặt giải phẫu của  
khối u, từ đó cho phép đánh giá chính xác hơn về  
bản chất, vị trí của khối u được phát hiện. Với giá trị  
lớn nhất của nồng độ hấp phụ chuẩn (maximum  
Standard Uptake Value - SUVmax) tại 2,5 được  
lấy làm chỉ số cut-off để phân biệt giữa tổn thương  
lành tính và ác tính trên PET/CT. Độ nhạy và độ  
đặc hiệu của PET/CT với nốt mờ đơn độc ở phổi  
qua các nghiên cứu có sự khác nhau nhỏ, nhưng  
nhìn chung là 95 – 97% và 82 – 85% theo lần  
Hình 2, 3. Hình ảnh tổn thương thời điểm 40 và 46  
tháng  
Đến tháng thứ 40 sau điều trị SBRT, trên  
hình ảnh CT ngực, kích thước của khối u to lên,  
ngấm thuốc ít và không có tổn thương cơ quan  
khác, đánh giá theo RECIST 1.1, có lẽ bệnh tiến  
triển tại chỗ. Tuy nhiên, trên hình ảnh PET/CT,  
không thấy có sự tăng chuyển hóa FDG ở vị trí  
khối u nguyên phát cũng như vị trí khác, do đó,  
bệnh nhân vẫn được đánh giá đáp ứng hoàn toàn  
về chuyển hóa, không có chỉ định điều trị gì thêm.  
6 tháng tiếp theo, bệnh nhân có cảm giác đau tức  
vùng ngực lưng bên phải, không lan xuyên, không  
ho khạc, không khó thở, đánh giá trên CT ngực,  
khối u không thay đổi kích thước so với tháng thứ  
40, nhưng trên PET/CT, đã có sự tăng chuyển  
hóa FDG tại khối u nguyên phát, hạch nhóm 5 và  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
123  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
lượt[9],[10], giá trị dự báo dương là 91%, giá trị dự  
báo âm là 90%.  
Vai trò trong đánh giá giai đoạn khối u  
FDG PET/CT có giá trị quan trọng trong xác  
định kích thước, vị trí, mức độ xâm lấn của khối ung  
thư phổi đối với các tổ chức xung quanh. Đặc biệt,  
PET/CT tỏ ra ưu thế hơn CT và MRI ngực trong  
việc phân biệt ranh giới giữa khối u phổi với tổ chức  
phổi bị xẹp do tắc nghẽn hoặc phân biệt với viêm  
phổi. Điều này rất quan trọng vì liên quan đến chỉ  
định điều trị, đặc biệt là xạ trị [4],[11],[12]. Các  
khuyến cáo hiện nay đều ưu tiên lựa chọn PET/  
CT để đánh giá giai đoạn khối u trước khi chỉ định  
điều trị nếu có điều kiện [1]. Với bệnh nhân của  
chúng tôi, PET/CT đã cho kết quả kích thước nốt  
tổn thương là 3 cm, lớn hơn so với kích thước trên  
phim CT ngực trước đó là 2 cm. Điều này rất quan  
trong trong việc lập kế hoạch điều trị, bởi nếu vẽ các  
Hình 5. Trên CT có hạch nhỏ trung thất bên phải (a)  
và nghi ngờ có hạch rốn phổi phải (b). Trên PET/CT  
các hạch này ngấm FDG mạnh hướng đến hạch ác tính  
do di căn từ khối ung thư phổi. Do đó, bệnh nhân này  
không thể điều trị bằng SBRT [5]  
Về kích thước hạch, một nghiên cứu phân tích  
đường thể tích điều trị theo phim CT ngực sẽ có gộp 20 nghiên cứu với 3028 bệnh nhân UTPKTBN  
vùng tổn thương bị bỏ sót, không nhận được liều đã cho thấy, với hạch <10 mm, độ nhạy của PET/  
xạ, do đó bệnh sẽ tiến triển sớm sau điều trị.  
Vai trò trong đánh giá giai đoạn hạch:  
CT là 32,4% và độ nhạy là 85,3% với hạch lớn hơn  
10 mm. Kết quả này có thể được giải thích do hạch  
Việc phát hiện và định hướng ác tính hay lành viêm phản ứng cũng có SUVmax cao vì tăng chuyển  
tính đối với hạch rốn phổi, trung thất có vai trò rất hóa trong hạch, ngược lại, có những hạch kích thước  
quan trong trong việc lựa chọn phẫu thuật triệt căn nhỏ và không tăng chuyển hóa FDG, nhưng vẫn là  
hoặc điều trị SBRT cho bệnh nhân ung thư phổi. hạch di căn [12]. Langen và cộng sự trong phân tích  
FDG PET/CT có độ chính xác cao hơn so với CT gộp của mình đã cho kết quả, có 5% các hạch N2  
trong việc đánh giá hạch trung thất và do đó, PET/ có kích thước từ 10 – 15 mm trên CT trở thành âm  
CT làm tăng cơ hội điều trị phẫu thuật và xạ trị triệt tính trên PET/CT, do đó các bệnh nhân này được  
căn cho bệnh nhân. Birim và cộng sự nghiên cứu điều trị phẫu thuật. Cũng trong nghiên cứu này, có  
phân tích gộp 17 nghiên cứu với 833 bệnh nhân đến 21% hạch nhóm N2 có kích thước > 16 mm  
UTPKTBN, so sánh giữa giá trị của PET/CT và trên CT nhưng không ngấm FDG trên PET/CT, do  
CT trong đánh giá hạch rốn phổi trung thất cho kết đó số bệnh nhân này phải được sinh thiết hạch qua  
quả độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 83% (66 – nội soi trung thất hoặc nội soi lồng ngực[4]. Các  
100%) và 92% (81 – 100%) cho PET/CT, trong khuyến cáo hiện nay với hạch rốn phổi trung thất  
khi đó CT lần lượt là 59% (20 – 81%) và 78% (44 dù có tăng chuyển hóa FDG hay không tăng chuyển  
– 100%), độ chính xác cũng được báo cáo là PET/ hóa nhưng nghĩ nhiều đến ác tính đều nên được  
CT cao hơn so với CT (p<0,05) và nhưng không có sinh thiết bằng nội soi phế quản siêu âm – EBUS  
sự khác biệt với PET đơn thuần (p>0,05)[4].  
và chọc hút xuyên thành phế quản qua nội soi phế  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
124  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
quản siêu âm – EBUS-TBNA để có chẩn đoán xác xác định một khối tổn thương ở tuyến thượng thận  
định giai đoạn trước điều trị [1],[5]. Với sự kết hợp là lành tính hay ác tính so với việc xác định trên CT.  
của nhiều biện pháp chẩn đoán, cơ hội để bệnh Đã có nhiều nghiên cứu xác định tổn thương di căn  
nhân có thể lựa chọn các biện pháp điều trị triệt căn tuyến thượng thận từ ung thư phổi bằng PET/CT,  
bằng phẫu thuật hoặc SBRT tăng lên, bên cạnh đó, kết quả thu được hầu như không có sự khác biệt  
cũng làm giảm tỉ lệ các trường hợp chỉ định điều trị nhiều với độ nhạy là 94 – 97% và độ đặc hiệu là 82 -  
triệt căn khi thực tế đã giai đoạn muộn.  
Vai trò trong đánh giá di căn xa  
86% [15]. Một nghiên cứu khác đưa ra độ chính xác  
của PET/CT đối với di căn tuyến thượng thận là  
Với các bệnh nhân giai đoạn sớm được chẩn 95%, giá trị dự báo dương là 95%, giá trị dự báo âm  
đoán bằng các biện pháp chẩn đoán hình ảnh khác là 94% [39]. Hiện nay, PET/CT được lựa chọn thay  
như CT, MRI, xạ hình xương, việc xác định có hay thế cho CT để đánh giá di căn ở tuyến tượng thận  
không các tổn thương di căn xa là rất quan trọng. 2 bên hơn là MRI ổ bụng, do cùng 1 lúc có thể xác  
Viney và cộng sự nghiên cứu đánh giá vai trò của định được cả tổn thương vị trí khác [4][15].  
PET/CT trong đánh giá giai đoạn sớm ở bệnh  
Đối với tổn thương di căn não và gan, vai trò  
nhân UTPKTBN cho 183 bệnh nhân, trong đó của PET/CT lại bị giới hạn ở não, bởi tế bào não  
có 92 bệnh nhân chỉ sử dụng các biện pháp chẩn là một loại tế bào sử dụng rất mạnh chất Glucose,  
đoán thường quy, 91 bệnh nhân được kết hợp giữa do đó rất khó để xác định tổn thương tăng chuyển  
các biện pháp thường quy với PET/CT thì thấy, kết hóa FDG (bản chất cũng là một loại Glucose) để  
quả của PET/CT làm thay đổi chiến thuật điều trị hướng đến ác tính hay lành tính, độ nhạy với di căn  
ở 26% bệnh nhân, trong đó có 11 bệnh nhân không não của PET/CT chỉ là 46% [5]. Do đó, với di căn  
có chỉ định phẫu thuật, 13 bệnh nhân được chỉ định não, PET/CT không phải là lựa chọn mà thay vào  
hóa chất tiền phẫu và điều trị hóa xạ trị kết hợp[4]. đó MRI sọ não có giá trị rất tốt. Cũng tương tự như  
Hiệp hội các nhà phẫu thuật ung thư Hoa Kỳ đã đưa ở não thì đối với tổn thương gan, PET/CT cũng  
ra độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính không phải là lựa chọn ưu tiên vì mặc dù độ đặc  
và giá trị dự báo âm tính của PET/CT đối với di hiệu cao, tuy nhiên độ nhạy của PET/CT đối với  
căn M1 lần lượt là 83%, 90%, 36% và 99%[4]. Với tổn thương ở gan lại thấp [4].  
mỗi cơ quan di căn xa, PET/CT có vai trò trong xác  
định nguy cơ ác tính khác nhau.  
Đối với di căn xương: PET/CT có hiệu quả cao  
trong xác định tổn thương di căn xương trong ung  
Bảng 1. Tác động của PET/CT đến thay đổi giai đoạn  
và việc quản lý ung thư phổi không tế bào nhỏ qua một  
số nghiên cứu [5]  
thưphổi. Mộtnghiêncupntíchgpt17nghiên  
cứu có kết quả độ nhạy và độ đặc hiệu của PET/CT  
đối với di căn xương là 92% và 98% theo lần lượt,  
cao hơn so với tỉ lệ 86% và 88% của biện pháp xạ  
hình xương. Do đó, PET/CT là lựa chọn thay thế  
tốt nhất cho xạ hình xương bằng 99mTc trong xác  
định di căn xương ở bệnh nhân UTPKTBN.  
ay đổi  
giai đoạn đến quản lý  
Tác động  
Số bệnh  
nhân  
Nghiên cứu  
(%)  
(%)  
Bury et al.  
Saunders et al  
Hicks et al.  
109  
97  
34  
25  
27  
43  
37  
35  
153  
592  
Đối với di căn tuyến thượng thận: giống như di  
căn xương, PET/CT có hiệu quả tốt hơn trong việc  
Takeuchi et al.  
28,7  
37,2  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
125  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Vai trò trong điều trị SBRT ở bệnh nhân khác [12]. Nếu như tiêu chuẩn đánh giá đáp ứng  
UTPKTBN giai đoạn sớm:  
Lập kế hoạch xạ trị:  
của khối u với điều trị bằng CT (RECIST 1.1) chỉ  
dừng lại ở việc đánh giá sự thay đổi việc giải phẫu,  
Xạ trị là một biện pháp điều trị phổ biến đối thì bằng việc đánh giá sự thay đổi về chuyển hóa  
với UTPKTBN. Mục tiêu của xạ trị có thể là điều diễn ra trong khối u, tiêu chuẩn PERCIST (PET  
trị triệt căn, điều trị tiền phẫu hay điều trị giảm Response Criteria in Solid Tumors) chính xác  
nhẹ (điều trị triệu chứng). Tuy nhiên, một trong hơn. Bởi, sự thay đổi về chuyển hóa thường diễn  
những mối quan tâm nhất của bác sĩ xạ trị với các ra sớm hơn so với sự thay đổi về giải phẫu, và đôi  
biện pháp xạ trị khác nhau đó là làm sao để tăng khi khối u dù không thấy có sự thay đổi về giải  
hiệu quả điều trị tại khối u nhưng giảm thiểu tối phẫu sau điều trị thậm chí tăng về kích thước sau  
đa tác dụng không mong muốn của xạ trị đối với điều trị, nhưng có sự thay đổi giảm đi về chuyển  
tổ chức lành xung quanh khối u. Muốn giảm thiểu hóa vẫn cho thấy sự đáp ứng với biện pháp điều  
được tác dụng đó, việc xác định chính xác diện tổn trị đó. Đặc biệt, PET/CT rất có giá trị trong việc  
thương của khối u, ranh giới giữa tổ chức lành tính phân biệt giữa tổn thương xơ sau điều trị với tiến  
và ác tính để đưa ra được đích bắn hợp lý khi mô triển tại chỗ của tổn thương nguyên phát, cái mà  
phỏng xạ trị là hết sức quan trọng. Với ưu thế vượt nếu trên CT ngực dù là có tiêm thuốc cản quang  
trội trong xác định chính xác ranh giới lành – ác của rất dễ đánh giá rằng khối u đã to lên và bệnh tiến  
khối u, mức độ xâm lấn của khối u đối với cơ quan triển. Các tổn thương xơ không làm tăng chuyển  
lân cận như rốn phổi, trung thất, thành ngực… hóa FDG, do đó, PET/CT phản ánh chính xác  
cũng như các tổn thương thứ phát, PET/CT ngày tình trạng đáp ứng của khối u nguyên phát. Đánh  
nay được sử dụng như một phương tiện hữu ích giá đáp ứng điều trị bằng PET/CT được sử dụng  
trong lập kế hoạch xạ trị. Cụ thể, mô phỏng xạ trị với các trường hợp điều trị hóa chất, xạ trị, điều  
bằng PET/CT giúp thu nhỏ trường chiếu so với sử trị đích, điều trị miễn dịch. Trong đó, đối với xạ  
dụng CT đơn thuần do thay đổi tổng thể tích khối u trị, theo dõi đáp ứng điều trị bằng PET/CT là rất  
[6],[7]. Một nghiên cứu điều trị xạ trị cho 21 bệnh quan trọng. Giá trị SUVmax tại khối u nguyên phát  
nhân UTPKTBN, khi so sánh mô phỏng bằng CT sẽ giảm xuống ở các bệnh nhân có đáp ứng điều trị  
và PET/CT cho kết quả, tổng thể tích khối u giảm hoặc bệnh được kiểm soát. Nếu giá trị SUVmax  
từ 13,7 3,8cm3 xuống còn 9,8 4,0cm3 [12].  
Đánh giá đáp ứng điều trị:  
về giá trị bình thường, khối u được xác định đáp  
ứng hoàn toàn và bệnh nhân có tiên lượng tốt hơn  
Khối u phổi sau khi điều trị bằng các biện pháp [8],[9]. Giá trị của PET/CT trong đánh giá đáp  
điều trị có thể thay đổi theo các hình thái: xóa hết, ứng sau xạ trị thể hiện rất rõ trong trường hợp  
xóa 1 phần và để lại tổn thương xơ, viêm, hoặc bệnh nhân của chúng tôi, nhất là ở thời điểm đánh  
tăng lên. Việc đánh giá đáp ứng của khối u đó với giá đáp ứng sau điều trị 3 tháng và đánh giá tiến  
biện pháp điều trị rất quan trọng, là cơ sở để đưa ra triển ở thời điểm 40 tháng và 46 tháng như chúng  
quyết định tiếp tục hay chuyển biện pháp điều trị tôi đã trình bày trong phần giới thiệu ca bệnh.  
Bảng 2. Tiêu chuẩn PERCIST 1.0 đánh giá đáp ứng điều trị với khối u [10]  
Đáp ứng chuyển hóa toàn bộ  
Biến mất tất cả các khối u có tăng hoạt tính chuyển hóa ở thời điểm đánh giá và giá  
trị SUVmax giảm xuống tương đương phông.  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
126  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Đáp ứng chuyển hóa một phần  
Giảm ≥ 30% giá trị SUVmax giữa tổn thương có tăng chuyển hóa cao nhất trước và  
sau điều trị.  
Bệnh tiến triển về chuyển hóa  
Bệnh ổn định  
Tăng ≥ 30% giá trị SUVmax hoặc xuất hiện thêm tổn thương mới.  
Không đủ tiêu chuẩn cho bệnh tiến triển về chuyển hóa hoặc tiêu chuẩn đáp ứng  
chuyển hóa toàn bộ hoặc một phần.  
KẾT LUẬN  
PET/CT có vai trò rất quan trọng trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi  
không tế bào nhỏ. Vai trò đó được thể hiện ở khả năng đánh giá chính xác giai đoạn trước điều trị, mô phỏng  
lập kế hoạch điều trị trên PET/CT và đánh giá đáp ứng điều trị sau xạ trị.  
ABSTRACT  
e role of 18-FDG-PET/CT in stereotactic body radiation therapy for early stage non-small cell  
lung cancer patients: analyze based on clinical case  
Objective: Stereotactic body radiation therapy (SBRT) was indicated to treatment for early stage  
non-smal cell lung cancer patients (T1-2aN0M0) who were not indicated for surgery due to the severity  
comorbidities diseases or patients disagree to surgery. Studies demonstrate the efficacy of this method was  
similar surgery for early stage of disease. For SBRT for non-small cell lung cancer patients, it is necessary to  
properly assess the early stage of the disease, make an accurate treatment plan and select a post-treatment  
response assessment.  
Purpose: Discuss the role of 18-FDG-PET/CT in the treatment of stereotactic body radiation therapy  
in early stage non-small cell lung cancer patients.  
Conclusion: 18-FDG-PET/CT plays an important role in accurately assessing stage of non-small cell  
lung cancer, SBRT planning and evaluate the response afer SBRT in early stage non-small cell lung cancer  
patients.  
Key word: Stereotactic body radiation therapy, early stage non-small cell lung cancer, 18-FDG-PET/CT.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. NCCN Clinical Practice Guidelines in Oncology (2020), Non-small cell lung cancer, Version 3.  
2. Onishi H., Araki T., Shirato H., et al (2004), Stereotactic hypofractionated high-dose irradiation for  
stage I nonsmall cell lung carcinoma: clinical outcomes in 245 subjects in a Japanese multiinstitutional  
study, Cancer ;101:1623-31.  
3. Pia Baumann, Jan Nyman, Morten Hoyer et al (2009), Outcomes in a Prospective Phase II Trial  
of Medically Inoperable Stage I Non-Small Cell Lung Cancer Patients treated with Stereotactic Body  
Radiotherapy, Lung Cancer Vol 27, No20, pp 3290-3295.  
4. Jeramy J. Erasmuc, Febg-Ming (Spring) Kong, Homer A.Macapinlac (2018), Positron Emission  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
0
127  
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG  
Tomography imaging of lung cancer, IASLC oracic Oncology, Second edition, pp 219 – 232.  
5. Sara Volpi1, Jason M. Ali1, Angela Tasker, Adam Peryt et al (2018), e role of positron emission  
tomography in the diagnosis, staging and response assessment of non-small cell lung cancer, Ann Transl  
Med, Volume 6, pp 95.  
6. Dirk De Ruysscher (2010), PET scans in radiotherapy planning of lung cancer, Radiotherapy &  
Oncology 96:2010, pp 335-338.  
7. E. J. Somer (2012), Recommendations for the use of PET and PET-CT for radiotherapy planning in  
research projects, e British Journal of Radiology, 85:e544-e548.  
8. Clarke K., Taremi M., Dahele M., et al (2012), Stereotactic body radiotherapy (SBRT) for non-small  
cell lung cancer (NSCLC): is FDG-PET a predictor of outcome?, Radiother Oncol;104:62–6.  
9. Kim S.K., Allen-Auerbach M., Goldin J et al (2007), Accuracy of PET/CT in characterization of  
solitary pulmonary lesions, J Nucl Med, Volume 48, pp 214 – 220.  
10. D. Groheuxa, G. Querec, E. Blanca et al (2016), FDG PET-CT for solitary pulmonary nodule and  
lung cancer: Literature review, Diagnostic and Interventional Imaging, Volume 97, pp 1003 – 1017.  
11. Bennet S. Greenspan (2017), Role of PET/CT for precision medicine in lung cancer: perspective  
of the Society of Nuclear Medicine and Molecular Imaging, e Transl Lung Cancer Res, Volume 6, pp  
617 – 620.  
12. Kazuhiro Kitajima1, Hiroshi Doi, Tomonori Kanda et al (2016), Present and future roles of  
FDGPET/CT imaging in the management of lung cancer, Jpn J Radiol, Volume 34, pp 387 – 399.  
13. Takeda A., Naoko Sanuki, Hirofumi Fujii et al (2014), Maximum Standardized Uptake on FDG-  
PET is a strong predictor of overal and disease-free survival for non-small-cell lung cancer patients afer  
stereotactic body radiotherapy, J orac Oncol; 9: 65 – 73.  
14. Ricard L.Wahl (2009), From RESIST to PERCIST: Evolving considerations for PET Response  
Criteria in solid tumors, J Nucl Med; 50: 122S-150S.  
15. Brady M.J., omas J., Wong T.Z., et al (2009), Adrenal nodules at FDG PET/CT in patients known  
to have or suspected of having lung cancer: a proposal for an efficient diagnostic algorithm, Radiology,  
Volume 250, pp 523 – 530.  
|
TẠP CHÍ NỘI KHOA VIỆT NAM SỐ 21/2021  
128  
pdf 8 trang yennguyen 15/04/2022 3180
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của 18-FDG-PET/CT trong điều trị xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm: Phân tích dựa trên ca lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_18_fdg_petct_trong_dieu_tri_xa_tri_lap_the_dinh.pdf