Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016

Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018  
TỶ LỆ SUY GIẢM NHẬN THỨC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở  
NGƯỜI CAO TUỔI XÃ PHÚ AN HUYỆN PHÚ VANG TỈNH THỪA  
THIÊN HUẾ NĂM 2016  
Huỳnh Thị Thanh Tú, Đoàn Vương Diễm Khánh, Nguyễn Thị Hạnh,  
Lê Thị Thảo Nguyên, Trần Thị Phương Linh, Nguyễn Nhất Mạnh  
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế  
Tóm tắt  
Đặt vấn đề: Suy giảm nhận thức là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và ꢀnh trạng lệ  
thuộc ở người cao tuổi. Suy giảm nhận thức không những gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc  
sống của người bệnh mà còn tác động rất lớn đến đời sống thể chất, tâm lý, kinh tế xã hội của người chăm  
sóc, gia đình và xã hội. Cho đến nay, các nghiên cứu về ꢀnh hình suy giảm nhận thức còn rất ít ở Việt Nam.  
Mục ꢀêu nghiên cứu: (1) Xác định tỷ lệ suy giảm nhận thức ở người cao tuổi xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh  
Thừa Thiên Huế. (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức ở đối tượng nghiên cứu. Phương  
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được ꢁến hành trên 343 người từ 60 tuổi trở lên có hộ khẩu thường trú tại xã  
Phú An. Chẩn đoán suy giảm nhận thức bằng cách sử dụng thang đo MMSE. Phân ꢂch hồi qui đa biến logisꢁcs  
được sử dụng để kiểm định các yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ hiện mắc  
suy giảm nhận thức là 19,5%. Sự gia tăng của tuổi, ꢀnh trạng hôn nhân không thuận lợi (không kết hôn, li dị,  
li thân, góa) và hoàn cảnh sống một mình là những yếu tố nguy cơ của suy giảm nhận thức.Kết luận: Suy giảm  
nhận thức là phổ biến ở người cao tuổi tại xã Phú An. Chương trình giáo dục sức khỏe và thăm khám sức khỏe  
định kỳ cho người cao tuổi nhằm phát hiện và can thiệp sớm suy giảm nhận thức là rất cần thiết ở Việt Nam.  
Từ khoá: Suy giảm nhận thức, tỷ lệ hiện mắc, yếu tố liên quan, người cao tuổi.  
Abstract  
PREVALENCE OF COGNITIVE IMPAIRMENT AND ASSOCIATED FACTORS  
AMONG THE ELDERLY IN PHU AN COMMUNE, PHU VANG DISTRICT,  
THUA THIEN HUE PROVINCE IN 2016  
Huynh Thi Thanh Tu, Doan Vuong Diem Khanh, Nguyen Thi Hanh,  
Le Thi Thao Nguyen, Tran Thi Phuong Linh, Nguyen Nhat Manh  
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University  
Background: Cogniꢁve impairment is one of the major causes of disability and dependency among the  
elderly. Cogniꢁve impairment not only seriously affects the quality of the paꢁent’s life but also has a great  
impact on physical, psychological and economic situaꢁon of family caregivers and society. There is liꢃle  
research on the prevalence of cogniꢁve impairment and its related factors in Vietnam. Aims: The aims of this  
study were: (i) To examine the prevalence of cogniꢁve impairment among the elderly in Phu An commune,  
Phu Vang district, Thua Thien Hue province (ii) To examine some associated factors of cogniꢁve impairment  
among parꢁcipants. Methods: A randomly selected sample of 343 people aged 60 years and over living in  
Phu An commune were interviewed and examined. MMSE test (Mini Mental State Examinaꢁon) was used  
as a screening instrument for cogniꢁve impairment. Mulꢁlogisꢁc regression was undertaken for exploring  
associated factors of cogniꢁve impairment. Results: The overall prevalence of cogniꢁve impairment was  
19.5%. Increasing age, inconvenient marital status (single, widowed, separate), living alone were associated  
with increasing risk of acquiring cogniꢁve impairment. Conclusion: In this populaꢁon, probable cogniꢁve  
impairment is common. Health educaꢁon program and rouꢁne health checkup for early detecꢁon and  
intervenꢁon of cogniꢁve impairment are urgently needed among the elderly in Vietnam.  
Key words: Cogniꢀve impairment, prevalence, associated factors, elderly people.  
- Địa chỉ liên hệ: Đoàn Vương Diễm Khánh, email: diemkhanh1972@gmail.com  
- Ngày nhận bài: 10/8/2017; Ngày đồng ý đăng: 16/5/2018; Ngày xuất bản: 8/11/2018  
72  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ MỤC TIÊU  
p=28,8% (tỷ lệ suy giảm nhận thức theo  
Việt Nam cũng như những quốc gia khác đang  
đối mặt với các bệnh liên quan đến lão hóa và thoái  
hóa thần kinh đặc biệt là não, sự thoái hóa này gây  
nên nhiều ꢀnh trạng bệnh lý và hay gặp nhất là suy  
giảm nhận thức (SGNT). Đây là một trong những  
nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và ꢀnh trạng lệ  
thuộc ở người cao tuổi. Suy giảm nhận thức không  
những gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng  
cuộc sống của người bệnh mà còn tác động rất lớn  
đến đời sống thể chất, tâm lý, kinh tế xã hội của  
người chăm sóc, gia đình và xã hội.  
Trên toàn thế giới tỷ lệ suy giảm nhận thức  
chiếm từ 3% đến 19% ở những người trên 65 tuổi  
và ꢁến triển thành bệnh sa sút trí tuệ 11-33% sau  
2 năm. Theo nghiên cứu có 44% bệnh nhân với suy  
giảm nhận thức nhẹ đã trở lại bình thường sau một  
năm nếu được can thiệp sớm [7]. Các nghiên cứu  
trong thời gian 1995-2011 ở Benin, Botswana, Cộng  
hòa Trung Phi, Congo và Nigeria với khoảng 10.500  
người tham gia. Tỷ lệ suy giảm nhận thức dao động  
từ 6,3% tại Nigeria; 25% tại Cộng hòa Trung Phi [9].  
Việc can thiệp sớm ngay từ khi có biểu hiện suy giảm  
nhận thức là mối quan tâm to lớn trong việc cải  
thiện sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên hiện tại, những  
nghiên cứu về suy giảm nhận thức ở Việt Nam cũng  
như Thừa Thiên Huế còn rất ít. Vì vậy chúng tôi thực  
hiện đề tài này với mục ꢁêu: 1) Xác định tỷ lệ suy  
giảm nhận thức ở người cao tuổi xã Phú An, huyện  
Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế (2) Tìm hiểu một số  
yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức ở đối tượng  
nghiên cứu.  
thang điểm MMSE theo nghiên cứu của Đoàn Vương  
Diễm Khánh tại thành phố Huế năm 2014) [3]. Thay  
vào công thức trên, ꢂnh được n=315  
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu phân tầng  
tỷ lệ.  
- Chọn ngẫu nhiên 3 thôn trong 4 thôn thuộc xã  
Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế vào  
mẫu.  
- Lập danh sách người từ 60 tuổi trở lên trong  
mỗi thôn được chọn. Chọn ngẫu nhiên số người ở 3  
thôn theo phương pháp chọn mẫu xác suất tỷ lệ với  
số người từ 60 tuổi trở lên ở các thôn. Cỡ mẫu cuối  
cùng là 343 người.  
Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn mặt đối  
mặt với đối tượng và người thân tại hộ gia đình  
Xử lí số liệu và phân ꢂch số liệu: Nhập dữ liệu  
bằng phần mềm Epidata 3.1, phân ꢂch và xử lý dữ  
liệu bằng phần mềm SPSS 16.0. Tỷ lệ suy giảm nhận  
thức được đánh giá bằng thang đo MMSE với tổng  
điểm 30. Suy giảm nhận thức được đánh giá dựa  
theo trình độ học vấn: MMSE <18 (người mù chữ),  
MMSE <21 (biết đọc biết viết, ꢁểu học), MMSE <24  
(THCS trở lên) [11]. Một nghiên cứu tổng hợp kết  
quả từ 15 nghiên cứu khác nhau trên thế giới cho  
thấy độ nhạy của thang đo MMSE với điểm cắt <24  
là 0,85 (95% CI: 0,74-0,92), độ đặc hiệu là 0,90 (95%  
CI: 0,82-0,95) [6]  
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu  
Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 72,9  
± 10,2; tuổi nhỏ nhất là 60, lớn nhất là 105 tuổi. Các  
đối tượng nghiên cứu đa số thuộc nữ giới (61%),  
nam (39%). Nghề nông chiếm tỷ lệ cao nhất (42,3%);  
cán bộ công chức chiếm tỷ lệ thấp (6,4%). Trình độ  
ꢁểu học chiếm tỷ lệ 30,9%; biết đọc, biết viết chiếm  
28,9%; thấp nhất là nhóm THPT trở lên (8,5%). Hầu  
hết đối tượng đều theo phật giáo (63,8%); thiên  
chúa giáo (16,3%).  
Có 57,4% đối tượng nghiên cứu có mức sống  
trung bình, mức khá có 26,3% và có 16,3% loại  
nghèo, cận nghèo. Tình trạng hôn nhân là kết hôn  
chiếm 60,9%, chưa kết hôn là 0,6%, ly dị, ly thân  
chiếm 0,4%, góa chiếm 38,1%. Có 53,1% sống với  
vợ/chồng; 40,2% sống với người thân và 6,7% sống  
một mình. Loại nhà ở gồm: nhà hộp, không cây cối  
chiếm 30,9%; nhà không vườn, có trồng cây cảnh  
chiếm 23,0%; nhà có vườn, cây cối chiếm 46,1%.  
Xếp loại BMI gầy chiếm 25,4% ; bình thường: 62,1%;  
thừa cân và béo phì chiếm 12,5%.  
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Người dân từ 60  
tuổi trở lên có hộ khẩu thường trú tại xã Phú An,  
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.  
2.2. Phương pháp nghiên cứu:  
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang  
Thời gian thu thập số liệu từ tháng 9/2016 đến  
tháng 10/2016.  
Cỡ mẫu: Sử dụng công thức ꢂnh cỡ mẫu ước  
lượng cho một tỷ lệ  
n= Z 2(1-  
x
p(1-p)  
α
2
d 2  
)
Trong đó: n là số đối tượng cần nghiên cứu; Z2  
α/2: Hệ số ꢁn cậy với α = 0,05 thì n= Z 2(1- ) = 1,96;  
α
2
d
là sai số cho phép, chọn d = 0,05;  
73  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018  
3.2. Tỷ lệ suy giảm nhận thức  
3.2.1. Tỷ lệ mắc suy giảm nhận thức theo thang điểm MMSE  
Bảng 1. Tỷ lệ mắc suy giảm nhận thức theo thang điểm MMSE  
Đặc điểm  
Có suy giảm nhận thức  
Không mắc suy giảm nhận thức  
Tần số (n)  
Tỷ lệ (%)  
19,5  
80,5  
67  
276  
343  
Tổng  
100  
Tỷ lệ SGNT là 19,5%, không SGNT là 80,5%.  
3.3. Các yếu tố liên quan đến suy giảm nhận thức  
3.3.1. Mối liên quan giữa các đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu và SGNT  
Bảng 2. Liên quan giữa đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu và SGNT  
Suy giảm nhận thức  
Tổng cộng  
Đặc điểm  
Giới ꢂnh  
Có  
Không  
P
N
23  
44  
2
4
5
11  
17  
18  
10  
22  
45  
13  
31  
13  
10  
28  
16  
5
%
N
115  
161  
99  
50  
38  
33  
26  
21  
9
%
N
%
Nam  
Nữ  
60-64  
65-69  
70-74  
16,7  
21,5  
2,0  
83,3  
78,5  
98,0  
92,6  
88,4  
75,0  
60,5  
53,8  
47,4  
89,5  
66,4  
62,9  
68,7  
87,7  
90,3  
80,7  
81,2  
86,1  
90,9  
70,6  
71,4  
60,9  
138  
205  
101  
54  
43  
44  
43  
39  
19  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
p>0,05  
7,4  
11,6  
25,0  
39,5  
46,2  
52,6  
10,5  
33,6  
37,1  
31,3  
12,3  
9,7  
Nhóm tuổi 75-79  
p<0,05  
80-84  
85-89  
90+  
Kết hôn  
Khác  
Mù chữ  
Biết đọc, biết viết  
Tiểu học  
THCS trở lên  
Nông dân  
Buôn bán  
Công nhân  
Cán bộ, viên chức  
Nội trợ  
187  
89  
22  
68  
93  
93  
117  
69  
31  
20  
24  
15  
14  
209  
134  
35  
Tình trạng  
hôn nhân  
p<0,05  
p<0,05  
99  
Trình độ  
học vấn  
106  
103  
145  
85  
36  
22  
34  
22  
23  
19,3  
18,8  
13,9  
9,1  
29,4  
28,6  
39,1  
Nghề  
nghiệp  
p>0,05  
2
10  
6
Khác  
Sống một mình  
9
Sống với vợ/  
chồng  
30  
28  
26  
12  
29  
16,6  
20,1  
24,5  
15,2  
18,4  
151  
111  
80  
83,4  
79,9  
75,5  
84,8  
81,6  
181  
139  
106  
79  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
Hoàn cảnh  
sống  
p<0,05  
Sống với gia đình  
người than  
Nhà hộp, không  
cây cối  
Nhà không vườn,  
có trồng cây cảnh  
Loại nhà  
67  
p>0,05  
Nhà có vườn, cây  
cối  
129  
158  
74  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018  
Nghèo, cận  
nghèo  
Trung bình  
Khá, giàu  
Gầy  
Bình Thường  
Thừa Cân, béo  
phì  
20  
35,1  
37  
64,9  
57  
100,0  
Kinh tế  
BMI  
p<0,05  
p<0,05  
36  
11  
29  
31  
18,0  
12,8  
33,3  
14,6  
164  
75  
58  
82,0  
87,2  
66,7  
85,4  
200  
86  
87  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
182  
213  
7
16,3  
36  
83,7  
43  
100,0  
Các yếu tố tuổi, ꢀnh trạng hôn nhân, trình độ học vấn, hoàn cảnh sống, kinh tế, BMI có liên quan có ý  
nghĩa thống kê với ꢀnh hình SGNT (p<0,05).  
SGNT tăng dần theo tuổi (cao nhất ở nhóm từ 90 tuổi trở lên chiếm 52,6%, thấp nhất là 60-64 tuổi chiếm  
2%). SGNT ở nhóm kết hôn chiếm tỷ lệ 10,5% thấp hơn nhóm còn lại (chưa kết hôn; ly dị, ly thân; góa) chiếm  
tỷ lệ 33,6%. SGNT giảm dần theo trình độ học vấn và kinh tế gia đình. Sống cùng vợ/chồng có tỷ lệ SGNT thấp  
nhất (16,6%), cao nhất ở nhóm sống một mình (39,1%). Người có BMI thuộc nhóm gầy là yếu tố nguy cơ dẫn  
đến SGNT (33%).  
3.3.2. Mối liên quan giữa ꢀền sử bệnh và SGNT  
Bảng 3. Mối liên quan giữa ꢁền sử bệnh và SGNT  
Suy giảm nhận thức  
Tổng cộng  
Đặc điểm ꢀền sử bệnh  
Có  
Không  
p
N
24  
43  
3
64  
8
59  
6
61  
9
%
N
96  
180  
18  
258  
24  
252  
12  
264  
14  
262  
10  
266  
%
N
%
120  
100,0  
Có  
Không  
Có  
Không  
Có  
Không  
Có  
Không  
Có  
Không  
Có  
Không  
20,0  
19,3  
14,3  
19,9  
25,0  
19,0  
33,3  
18,8  
39,1  
18,1  
9,1  
80,0  
80,7  
85,7  
80,1  
75,0  
81,0  
66,7  
81,2  
60,9  
81,9  
90,9  
80,1  
Tăng huyết áp  
p>0,05  
p>0,05  
p>0,05  
p>0,05  
p<0,05  
p>0,05  
223  
21  
322  
32  
311  
18  
325  
23  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
Tiểu đường  
Tim mạch  
Rối loạn Lipid  
Tai biến mạch máu  
não  
320  
11  
332  
58  
1
66  
Tiền sử gia đình bị  
SSTT  
19,9  
Tỷ lệ hiện mắc SGNT có liên quan với ꢁền sử tai biến mạch máu não (p<0,05).  
Tỷ lệ hiện mắc SGNT không có mối liên quan (p>0,05) với các nhóm bệnh: tăng huyết áp, ꢁểu đường, ꢁm  
mạch, rối loạn Lipid, ꢁền sử gia đình SSTT.  
3.3.3. Mối liên quan giữa một số thói quen của đối tượng nghiên cứu với SGNT  
Bảng 4. Mối liên quan giữa một số thói quen của đối tượng nghiên cứu với SGNT  
Suy giảm nhận thức  
Tổng cộng  
Đặc điểm thói quen  
Có  
P
Có  
Không  
N
%
N
%
N
%
23  
44  
21  
46  
29  
38  
22,1  
18,4  
23,6  
18,1  
13,2  
30,6  
81  
195  
68  
208  
190  
86  
77,9  
81,6  
76,4  
81,9  
86,8  
69,4  
104  
239  
89  
254  
219  
124  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
100,0  
Hút thuốc lá  
Uống rượu/bia  
Tập thể dục  
p>0,05  
p>0,05  
p<0,05  
Không  
Có  
Không  
Có  
Không  
75  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018  
Tỷ lệ SGNT cao hơn ở nhóm không tập thể dục (30,6%), nhóm có tập thể dục là 13,2%. Sự khác biệt này  
có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tỷ lệ SGNT cao hơn ở người hút thuốc lá, uống rượu/bia, tuy vậy sự khác biệt  
này không có ý nghĩa thống kê.  
3.3.4. Mô hình hồi qui đa biến logisꢀc kiểm định các yếu tố liên quan đến SGNT  
Bảng 5. Mô hình hồi qui đa biến logisꢁc kiểm định các yếu tố liên quan đến SGNT  
Biến độc lập  
OR  
95% CI  
P
Tuổi  
60-64  
65-69  
70-74  
75-79  
80-84  
85-89  
90 trở lên  
1
3,4  
6,2  
16,7  
26,3  
30,5  
37,8  
0,6-19,5  
1,1-35,5  
3,2-85,8  
5,0-137,9  
5,6-116,0  
6,0-236,2  
>0,05  
<0,05  
<0,01  
<0,001  
<0,001  
<0,001  
Tình trạng hôn nhân  
Kết hôn  
1
Khác  
2,3  
1-5,1  
<0,05  
Hoàn cảnh sống  
Sống với vợ/chồng  
Sống với gia đình người than  
1
1,7  
3,0  
0,5-4,8  
1,4-6,6  
>0,05  
<0,01  
Sống một mình  
Theo mô hình hồi quy đa biến logisꢁc thì nhóm  
tuổi, ꢀnh trạng hôn nhân, hoàn cảnh sống có liên  
quan đến SGNT ở người cao tuổi (p<0,05).  
SGNT gia tăng rõ rệt theo tuổi (đặc biệt rất cao ở  
tuổi từ 85 trở lên); tăng cao ở người có trình độ học  
vấn thấp và ở người chưa kết hôn, ly dị, ly thân, góa.  
Điều này phù hợp các nghiên cứu ở nhiều nơi trên  
thế giới như nghiên cứu tại huyện Ba Vì, Hà Nội [1],  
ở Châu phi cận Sahara[9], Ấn độ [10], Trung Quốc  
[11]. Tuy nhiên sự khác biệt về trình độ học vấn  
trong nghiên cứu của chúng tôi không có ý nghĩa  
thống kê trong mô hình đa biến.  
Liên quan giữa hoàn cảnh sống và SGNT: Nghiên  
cứu cho thấy những người sống cùng vợ/chồng có  
tỷ lệ SGNT thấp hơn sống với người thân và sống  
một mình. Nghiên cứu của Zhuang và cộng sự tại  
Thượng Hải [11], nghiên cứu của Paramita Sengupta  
và cộng sự tại Ấn Độ [10] cũng cho kết quả tương tự  
(p<0,05).  
Liên quan giữa kinh tế gia đình và SGNT: SGNT  
tăng rõ rệt ở những người có kinh tế nghèo, cận  
nghèo; tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa  
thống kê trong mô hình đa biến. Nghiên cứu của  
Paramita Sengupta và cộng sự tại Ấn Độ SGNT tăng  
cao ở người có mức thu nhập thấp [10].  
Liên quan giữa ꢁền sử TBMMN và SGNT: Nghiên  
cứu của chúng tôi cho thấy nhóm người cao tuổi có  
ꢁền sử TBMMN có nguy cơ SGNT cao gấp 2 lần so với  
nhóm không có ꢁền sử TBMMN. Tuy nhiên sự khác  
biệt này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình đa  
biến. Mối liên quan giữa ꢁền sử TBMMN và SSTT đã  
được ꢀm thấy ở nghiên cứu của Ngô Văn Dũng tại  
4. BÀN LUẬN  
4.1. Tỷ lệ hiện mắc SGNT  
Tỷ lệ mắc SGNT ở nghiên cứu này là 19,5%. Theo  
các báo cáo của các nghiên cứu khác thì tỷ lệ SGNT  
ở người 60 tuổi trở lên dao động từ 8-29% [9],[10].  
Tuy vậy việc so sánh tỷ lệ này với các nghiên cứu  
khác là rất khó thực hiện. Sự khác biệt vê tỷ lệ này có  
thể do nhiều yếu tố như phương pháp nghiên cứu,  
phương pháp chọn mẫu, ꢁêu chuẩn chẩn đoán và  
đặc biệt là cấu trúc tuổi của mẫu nghiên cứu. Kết  
quả nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của  
Đoàn Vương Diễm Khánh tại thành phố Huế năm  
2014 (28,8%) [3]; nghiên cứu của Vũ Anh Nhị và cộng  
sự tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 (20,9%) [5];  
nghiên cứu của Trần Kỳ Hậu tại thành phố Quy Nhơn  
năm 2015 (21,4%) [2], nghiên cứu của Guerchet ꢁến  
hành ở 2 thành phố thuộc Trung Phi báo cáo tỷ lệ  
SGNT tương ứng là 25% và 18,8% [8]. Nghiên cứu  
của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Zhuang  
và cộng sự tại Thượng Hải Trung Quốc tỷ lệ SGNT là  
8,38% [11]; nghiên cứu của Paramita Sengupta và  
cộng sự tại phía Bắc Ấn Độ tỷ lệ SGNT là 8,8% [10].  
4.2. Một số các yếu tố liên quan đến SGNT  
Liên quan giữa tuổi, ꢀnh trạng hôn nhân, trình  
độ học vấn và SGNT: Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ  
76  
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 5 - tháng 10/2018  
huyện Ba Vì năm 2009, tỷ lệ SGNT ở nhóm có ꢁền  
90 tuổi trở lên (52,6%); thấp nhất ở nhóm 60-64 tuổi  
(2,0%).  
sử TBMMN cao gấp 3,73 lần nhóm không có ꢁền sử  
TBMMN (OR=3.7, 95% CI 1.3-9.86) [1]. Nghiên cứu  
của Vũ Anh Nhị và Diệp Trọng Khải năm 2012: tỷ lệ  
SGNT cao hơn ở nhóm người có ꢁền sử TBMMN thể  
nhồi máu não động mạch lớn với p< 0,05 [4].  
Liên quan giữa thói quen hoạt động thể lực  
và SGNT: Nhóm có thói quen tập thể dục có tỷ lệ  
SGNT thấp hơn nhóm không tập thể dục (p<0,05),  
tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống  
kê trong mô hình đa biến. Kết quả nghiên cứu này  
giống với nghiên cứu của Zhuang và cộng sự tại  
Thượng Hải, Trung Quốc năm 2012 với p<0,001 [11].  
Liên quan giữa BMI và SGNT: Tỷ lệ SGNT cao  
nhất ở nhóm gầy, tỷ lệ này gấp 5 lần so với nhóm  
thừa cân, sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa thống kê  
trong mô hình đơn biến. Một số nghiên cứu trước  
đây cũng không ꢀm thấy mối liên quan giữa BMI và  
SGNT [2],[3].  
Phân ꢂch đơn biến cho thấy các yếu tố liên quan  
có ý nghĩa thống kê đến suy giảm nhận thức bao  
gồm: tuổi, ꢀnh trạng hôn nhân, trình độ học vấn,  
hoàn cảnh sống, kinh tế gia đình, ꢁền sử tai biến  
mạch máu não, thói quen hoạt động thể lực, BMI.  
Mô hình hồi qui đa biến logisꢁc cho thấy các yếu tố  
liên quan có ý nghĩa thống kê đến SGNT là: tuổi, ꢀnh  
trạng hôn nhân, hoàn cảnh sống.  
6. KIẾN NGHỊ  
Cần có sự quan tâm, phối hợp giữa cán bộ y tế và  
người dân đến suy giảm nhận thức nhằm phát hiện  
sớm và điều trị kịp thời. Tổ chức khám sức khoẻ định  
kỳ và khám sàng lọc suy giảm nhận thức ở người  
cao tuổi. Đồng thời quản lý tốt đối tượng có nguy cơ  
hoặc đang mắc suy giảm nhận thức. Khuyến khích  
người cao tuổi sống chung với vợ/chồng hoặc người  
thân trong gia đình.  
5. KẾT LUẬN  
Tăng cường công tác phòng và điều trị tai biến  
mạch máu não (đặc biệt là đề phòng, quản lý tốt  
bệnh tăng huyết áp), khuyến cáo người dân có thói  
quen luyện tập thể dục thường xuyên.  
Tỷ lệ hiện mắc SGNT chung là 19,5%, tỷ lệ hiện  
mắc SGNT ở nam là 16,7%; ở nữ là 21,5%. Tỷ lệ hiện  
mắc SGNT tăng dần theo tuổi: cao nhất ở nhóm từ  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
and over in community and primary care populaꢁons,  
Cochrane Database of Systemaꢀc Reviews 2016, Issue 1.  
Art. No.: CD011145. DOI: 10.1002/14651858.CD011145.  
pub2.  
7. Gauthier S., Reisberg B., et al. (2006), “ Mild  
cogniꢁve impairment, Lancet, 367, pp. 1262-1270.  
8. Guerchet M., M’belesso P., Mouanga A. M., et al.  
(2010), “Prevalence of demenꢁa in elderly living in two  
ciꢁes of Central Africa: the EDAC survey, Dement Geriatr  
Cogn Disord, 30, pp 261-268.  
9. Mavrodaris A., Powell J., Thorogood M., et al. (2013),  
“Prevalences of demenꢁa and cogniꢁve impairment  
among older people in sub-Saharan Africa: a systemaꢁc  
review, Bull World Health Organ, 91(10), pp. 773-83.  
10. Paramita Sengupta I. A., Benjamin Y.S., et al. (2014),  
“Prevalence and correlates of cogniꢁve impairment in a  
north Indian elderly populaꢁon, WHO South-East Asia  
Journal of Public Health, 3 (2), pp. 135-143.  
11. Zhuang J.P., Wang G., Cheng Q., et al. (2012)  
“Cogniꢁve impairment and the associated risk factors  
among the elderly in the Shanghai urban area: a pilot  
study from China, Translaꢀonal Neurodegeneraꢀon, 1,  
pp. 22.  
1. Ngô Văn Dũng, Lê Quang Cường (2009), “Nghiên  
cứu một số đặc điểm dịch tễ học của suy giảm nhận thức  
nhẹ ở người cao tuổi tại huyện Ba Vì thành phố Hà Nội,  
Tạp chí Nghiên cứu Y học Phụ trương, 62(3), tr. 142-146.  
2. Trần Kỳ Hậu (2015), Nghiên cứu tỷ lệ sa sút trí tuệ  
và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại thành phố Quy  
Nhơn tỉnh Bình Định, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường  
Đại học Y Dược Huế.  
3. Đoàn Vương Diễm Khánh (2014), Nghiên cứu tỷ lệ  
sa sút trí tuệ và nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ở người từ 65  
tuổi trở lên tại thành phố Huế, Việt Nam, Viện Nghiên cứu  
Sức khoẻ Cộng đồng, Trường Đại học Y dược Huế.  
4. Vũ Anh Nhị, Diệp Trọng Khải (2012), Đánh giá suy  
giảm nhận thức và tổn thương não bằng cộng hưởng từ ở  
người lớn tuổi tại Bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí  
Minh, Bộ môn Thần kinh, Trường Đại học Y Dược TP HCM.  
5. Vũ Anh Nhị, Trần Công Thắng, Nguyễn Kinh Quốc và  
Cộng sự (2011), Nghiên cứu dịch tễ bệnh lý sa sút trí tuệ  
tại thành phố Hồ Chí Minh, Bộ môn Thần kinh, Trường Đại  
học Y Dược TP HCM.  
6. Creavin ST, Wisniewski S, Noel-Storr AH, et al (2016),  
“Mini-Mental State Examinaꢁon (MMSE) for the detecꢁon  
of demenꢁa in clinically unevaluated people aged 65  
77  
pdf 6 trang yennguyen 14/04/2022 4160
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ suy giảm nhận thức và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2016", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfty_le_suy_giam_nhan_thuc_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_cao.pdf