Tổng hợp vật liệu tổ hợp trực tiếp rGO/thanh nano NiO bằng phương pháp nhiệt thủy phân và nghiên cứu các tính chất của vật liệu tổ hợp

JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 2, April 2021, 119-125  
Tng hợp vật liệu tổ hợp trực tiếp rGO/thanh nano NiO bằng phương pháp  
nhiệt thủy phân và nghiên cu các tính cht ca vt liu thp  
In-Situ Synthesis rGO/NiO Nanorod Nanocomposites via One-Step Hydrothermal Method and  
Investigating Physical Properties of Nanocomposites  
Nguyễn Đức Tài, Lưu Thị Lan Anh, Nguyễn Hữu Lâm, Nguyễn Công Tú*  
Viện Vật lý Kỹ thuật, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam  
*Email: tu.nguyencong@hust.edu.vn  
Tóm tắt  
Vật liệu tổ hợp giữa graphen oxit đã khử (rGO) với thanh nano NiO được tổng hợp trực tiếp (in-situ) bằng  
phương pháp nhiệt thủy phân với các hàm lượng graphen oxit (GO) (% khối lượng của GO trong vật liệu tổ  
hợp là 0,0, 0,5 và 1,0% khối lượng GO). Trong đó, GO được chế tạo từ mảnh nano graphen bằng phương  
pháp Hummer và được đưa trực tiếp vào dung dịch tiền chất của vật liệu NiO. Cấu trúc và tính tinh thể của  
vật liệu tổ hợp được khảo sát bằng phổ nhiễu xạ tia X. Hình thái của vật liệu được khảo sát bằng kính hiển  
vi điện tử quét. Khả năng hấp phụ của vật liệu được đánh giá thông qua thí nghiệm hấp phụ các chất nhuộm  
màu metyl da cam và công-gô đỏ. Kết quả cho thấy GO không làm thay đổi cấu trúc tinh thể nhưng gây ra  
sự gẫy của các thanh nano NiO, làm tăng vi ứng suất trong các thanh nano NiO, và tăng khả năng hấp phụ  
chất nhuộm màu metyl da cam và công-gô đỏ. Các kết quả của nghiên cứu này đóng góp vào nghiên cứu  
về vật liệu lai hóa giữa graphen oxit với các cấu trúc nano của các oxit kim loại bán dẫn cho các ứng dụng  
trong xử lý môi trường.  
Tkhóa: Vật liệu tổ hợp trực tiếp, niken oxit, graphen oxit, nhiệt thủy phân, hấp phụ  
Abstract  
In-situ nanocomposites of reduced graphene oxide (rGO) and nickel oxide (NiO) nanowire were prepared by  
direct introducing homemade graphene oxide (GO) into precursor solution of NiO with different weight  
contents of GO (0.0, 0.5, and 1.0 wt.%) before carrying out the one-step hydrothermal process. Homemade  
GO was synthesized from graphene nanoflakes via the Hummer method. Crystal structure and crystallinity  
of nanocomposites were analyzed using the X-ray diffraction method. Scanning electron microscopy was  
used to study the morphology of nanocomposites. The absorbability of nanocomposites was evaluated  
through the absorption experiment with two organic dyes: methyl orange and congo red. The results show  
that compositing with GO does not affect the crystal structure of NiO but it causes the break of NiO nanorods  
into shorter nanorods, the increase of microstrain in NiO nanorods, and the slight increase of the absorption  
efficiency of nanocomposite with both methyl orange and congo red. The results are a contribution to the  
study on hybrid/nanocomposite materials of carbon-based materials and metal oxide semiconductor  
nanostructures.  
Keywords: In-situ nanocomposite, niken oxide, graphene oxide, one-step hydrothermal, absorption  
1. Giới thiệu*  
Niken oxit (NiO) là vật liệu bán dẫn loại p với  
lớn [13], độ linh động điện tử vượt trội [14], dẫn nhiệt  
tốt và độ bền cao. Tuy nhiên, do hiệu ứng biên, khả  
năng phân tán thấp và khả năng dễ bị tái xếp lớp nên  
ứng dụng của Gr còn bị hạn chế. Gần đây, một hướng  
nghiên cứu mới đang được các nhà khoa học quan  
tâm đó là phát triển các vật liệu tổ hợp giữa dẫn xuất  
của graphen - graphen oxit đã khử (rGO) với các vật  
liệu oxit bán dẫn như NiO, WO3, ZnO… cho các ứng  
dụng xử lý môi trường như làm chất hấp phụ hay  
chất phân hủy các chất thải hữu cơ [15-20]. Trong  
các nghiên cứu này, người ta tận dụng diện tích bề  
mặt lớn và độ linh động điện tử cao của Gr với khả  
năng thay đổi hình thái và khuyết oxi bề mặt của  
các oxit bán dẫn [18-20]. Để tổng hợp vật liệu tổ hợp,  
có hai phương pháp chính là tổng hợp trực tiếp (các  
vật liệu được tổ hợp với nhau ngay từ quá trình tạo  
mầm) và tổng hợp gián tiếp (các vật liệu thuần được  
tổng hợp  
bề rộng vùng cấm lớn ~3.6 - 4.0 eV. NiO là một vật  
liệu hứa hẹn trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác  
nhau vì những ưu điểm vượt trội của nó như trong  
cảm biến khí [1-3], vật liệu quang xúc tác cho phản  
ứng phân hủy các thuốc nhuộm công nghiệp [4-6],  
chế tạo pin năng lượng mặt trời [7], chất phủ điện sắc  
[8,9], diệt khuẩn [10-12]…  
Graphen (Gr) là một dạng hợp chất cấu tạo từ  
đơn lớp các nguyên tử Carbon, đã được nghiên cứu  
rất nhiều do các tính chất nổi bật như diện tích bề mặt  
ISSN: 2734-9381  
Received: August 30, 2020; accepted: December 23, 2020  
119  
 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 2, April 2021, 119-125  
với hình thái chọn trước rồi mới tổ hợp với nhau để  
tạo vật liệu tổ hợp)[21]. Trong hai phương pháp này,  
phương pháp tổng hợp trực tiếp được sử dụng nhiều  
hơn do nó làm tăng khả năng tương tác, liên kết giữa  
các vật liệu thành phần và làm tăng cường các tính  
chất của vật liệu tổ hợp [21]. Ví d, Al-nafiey và  
cng sự đã sử dụng phương pháp tổng hợp trực tiếp  
để tổng hợp vật liệu tổ hợp rGO/hạt nano NiO và thu  
được sự nâng cao rõ rệt về hiệu suất hấp phụ chất  
nhuộm màu Rhodamin B [17].  
được sau quá trình thủy nhiệt được lọc rửa 5 lần bằng  
o
nước cất, sau đó sấy khô ở 80 C trong 24 h. Bột thu  
o
được được nung ở 400 C trong 2 h sẽ thu được sản  
phẩm cuối là bột rGO@NiO. Các mẫu được đặt tên là  
DT00, DT05 và DT10 tương ứng với hàm lượng GO  
trong tổ hợp là 0,0, 0,5 và 1,0% khối lượng.  
2.2 Phương phép đo và phân tích  
Cấu trúc tinh thể của vật liệu được xác định  
bằng phương pháp nhiễu xạ tia X sử dụng máy X’pert  
Pro (PANalytical) MPD với bức xạ Cu-Kα có bước  
sóng (λ=1.54065 Å), dải đo 2θ từ 10o đến 80o. Phổ tán  
xạ Raman được đo bằng máy RENISHAW Invia  
Raman microscope sử dụng laser có bước sóng 633  
nm. Hình thái của vật liệu được quan sát bằng kính  
hiển vi điện tử quét phát xạ trường (FESEM, JEOL  
JSM-7600F). Kính hiển vi điện tử quét (SEM,  
Microscope HITACHI TM4000Plus) được sử dụng  
để chụp ảnh SEM độ phân giải thấp và ảnh phân bố  
các nguyên tố trong mẫu. Phổ hấp thụ hồng ngoại  
biến đổi Fourier (FTIR) được đo bằng máy JASCO  
FTIR 4600 chế độ 32 scans.  
Nằm trong xu hướng nghiên cứu chung đó, trong  
nghiên cứu này, nhóm đã chế tạo vật liệu tổ hợp trực  
tiếp giữa rGO và thanh nano NiO bằng phương pháp  
nhiệt thủy phân một bước đơn giản và khảo sát khả  
năng ứng dụng của vật liệu trong xử lý môi trường.  
Trong đó tiền chất GO được chế tạo từ các mảnh nano  
graphen bằng phương pháp Hummer sau đó được cho  
trực tiếp vào dung dịch tiền chất của NiO. Cấu trúc  
tinh thể của vật liệu được nghiên cứu bằng phổ nhiễu  
xạ tia X. Kính hiển vi điện tử quét (SEM) và ảnh quét  
phổ tán xạ năng lượng đặc trưng được sử dụng để  
nghiên cứu hình thái và sự phân bố các nguyên tố trong  
mẫu. Khả năng ứng dụng trong xử lý môi trường của  
vật liệu được đánh giá thông qua thí nghiệm hấp phụ  
chất nhuộm màu metyl da cam (MO) và công-gô đỏ  
(RC) ở nhiệt độ phòng. Trong nghiên cứu này, ảnh  
hưởng của GO tới kích thước tinh thể trung bình và vi  
ứng suất cũng được thảo luận.  
2.3 Khảo sát khả năng hấp phụ các chất nhuộm  
màu  
Các chất nhuộm màu sử dụng trong thí nghiệm  
này gồm Metyl da cam (MO, C14H14N3NaO3S) và  
Công-gô đỏ (RC, C32H22N6Na2O6S2). Quá trình khảo  
sát được thực hiện trong phòng tối ở nhiệt độ phòng  
theo các bước như sau: phân tán 20 mg vật liệu hấp  
phụ (NiO và vật liệu tổ hợp rGO@NiO) vào trong 100  
ml dung dịch chất nhuộm màu (MO 10 ppm, RC –  
50 ppm) bằng máy khuấy từ (Máy quay ly tâm VELP,  
450 rpm) để tạo dung dịch thí nghiệm; cách mỗi 5  
phút, lấy 3 ml từ trong dung dịch thí nghiệm; quay ly  
tâm với tốc độ 10 000 rpm trong 3 phút (máy quay ly  
tâm DLAB D3024R), sau đó lấy phần dung dịch thu  
được đo phổ hấp thụ bằng máy đo phổ UV-Vis JASCO  
750. Hiệu suất của quá quá trình hấp phụ được xác  
định thông qua lượng chất nhuộm màu còn lại trong  
dung dịch thí nghiệm theo công thức (1) sau:  
2. Thực nghiệm  
2.1 Tổng hợp vật liệu  
Graphen oxit được tổng hợp bằng phương pháp  
Hummer theo các bước sau: phân tán đồng thời 0,05 g  
mảnh nano graphit 0,10 g NaNO3 vào 4,8 ml axit  
H2SO4 đặc ở 0 oC; thêm từ từ 0,60 g KMnO4 vào hỗn  
hợp trên, khuấy liên tục trong 90 phút ở 0 oC; để mẫu  
trở về nhiệt độ phòng tự nhiên và tiếp tục khuấy trong  
2 h; thêm 24 ml nước cất vào dung dịch thu được để  
thúc đẩy quá trình phản ứng; nhỏ từ từ dung dịch  
H2O2 vào dung dịch thu được sau phản ứng để trung  
hòa các ion dư đến khi dung dịch hoàn toàn chuyển  
màu vàng tươi. Dung dịch được để lắng đọng trong  
24 h để ổn định cấu trúc graphen oxit, sau đó được  
rửa và lọc axit và các muối tan dư bằng phương pháp  
quay ly tâm với nước cất và cồn tuyệt đối nhiều lần  
với tốc độ 4000 rpm. Sau đó phân tán GO thu được  
vào nước cất để chuẩn bị cho các bước tiếp theo.  
C0 Ct  
C0  
I0 It  
I0  
H % =  
×100% =  
×100%  
(1)  
(
)
Trong đó C0 Ct tương ứng là nồng độ chất  
nhuộm màu trong dung dịch ban đầu và ở thời điểm  
thí nghiệm t; I0 It tương ứng là cường độ đỉnh hấp  
phụ đặc trưng trong phổ hấp phụ của chất nhuộm màu  
trong dung dịch ban đầu và ở thời điểm thí nghiệm t.  
Đỉnh đặc trưng của các chất MO và RC trong phổ  
UV-Vis tương ứng là 464 và 496 nm.  
Vật liệu tổ hợp rGO@NiO được tổng hợp bằng  
phương pháp nhiệt thủy phân một bước đơn giản. Cụ  
thể như sau: hòa tan 0,3859 g Na2C2O4 vào 26ml  
nước cất và 52 ml Etylen glycol; nhỏ từ từ dung dịch  
GO đã chế tạo ở trên vào dung dịch trên sao cho hàm  
lượng GO trong dung dịch tổ hợp tương ứng là 0,0%,  
0,5%, và 1,0% khối lượng; thêm từ từ 1,5232 g  
NiCl2.6H2O vào dung dịch và khuấy đều đến khi  
dung dịch chuyển màu xanh trong hoàn toàn; cho hỗn  
hợp thu được vào bình thủy nhiệt lõi Teflon và tiến  
hành nhiệt thủy phân ở 200 oC trong 24 h. Kết tủa thu  
3. Kết quả và thảo luận  
3.1 Chế tạo vật liệu GO và NiO  
Hình 1a là phổ Raman của mảnh nano graphit  
ban đầu và GO thu được sau khi chế tạo. Trong phổ  
Raman của cả graphit và GO, ta đều thu được các dải  
tín hiệu đặc trưng của vật liệu họ graphen là các dải  
120  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 2, April 2021, 119-125  
D, dải G, dải 2D và dải D+G [22]. Kết quả cho thấy  
mẫu graphit ban đầu có các đỉnh G và 2D rõ nét với  
cường độ cao đặc trưng cho cấu trúc tinh thể của  
dạng graphit mỏng, trong khi đỉnh D xuất hiện với  
cường độ nhỏ chứng tỏ vật liệu graphit ban đầu có  
tính tinh thể rất cao chỉ tồn tại một số ít sai hỏng.  
Trong phổ Raman của GO thu được, tín hiệu của dải  
D tăng rõ rệt so với tín hiệu của dải G, đồng thời tín  
hiệu của dải 2D giảm mạnh, bề rộng bán đỉnh của dải  
G tăng mạnh, cùng với đó là sự xuất hiện của dải  
D+G. Sự tăng cường độ tương đối của dải D so với  
dải G, sự mở rộng của dải G và sự xuất hiện dải D+G  
được giải thích là do graphit đã bị oxi hóa và các  
nhóm chức đã gắn lên trên mạng graphit.  
Để khẳng định sự tạo thành của GO, mẫu GO thu  
được được đem phân tích bằng phổ FTIR (Hình 1b).  
Trong phổ FTIR của mẫu GO, ta quan sát thấy các  
đỉnh đặc trưng cho các dao động của các liên kết đặc  
trưng cho cấu trúc GO như: dao động kéo dãn liên kết  
C=C trong lai hóa sp2 đặc trưng của cấu trúc graphen  
tại vị trí 1588 cm-1, các đỉnh thể hiện sự bất trật tự  
trong cấu trúc gaphen như các liên kết C-O-C (epoxit)  
tại các vị trí 868 và 1308 cm-1, C=O (cacboxyl) tại  
1662 cm-1 và C=O (xeton) tại 1730 cm-1. Dải đỉnh từ  
830 1330 cm-1 tương ứng với dao động liên kết  
C-OH [23]. Kết quả này cho thấy đã gắn thành công  
các nhóm oxi hóa lên graphit và khẳng định đã chế tạo  
thành công GO từ graphit theo phương pháp Hummer.  
Hình 2. Phổ nhiễu xạ tia X của mẫu chế tạo DT00 với  
các thẻ chuẩn: a) Trước khi nung; b) Sau khi nung ở  
400oC trong 2h.  
Hình 2a và 2b là giản đồ nhiễu xạ tia X của mẫu  
NiO thuần trước (DT00CN) và sau nung (DT00). Kết  
quả phân tích cùng với các thẻ chuẩn cho thấy mẫu  
trước khi nung có cấu trúc là Niken oxalat hydrat  
NiC2O4.2H2O (thẻ ICDD 00-014-0742) và mẫu sau  
khi nung có cấu trúc hoàn toàn là Cubic NiO (thẻ  
ICDD 01-078-0643) với các đỉnh sắc nhọn và rõ nét  
(Hình 2a và 2b). Chú ý là trong phổ XRD của các  
mẫu thu được không có đỉnh của các chất khác, điều  
này cho thấy nhóm đã chế tạo thành công NiO và  
hoàn toàn không chứa tạp chất. Sự hình thành NiO  
được giải thích theo các phương trình phản ứng sau:  
NiCl2 + Na2C2O4 NiC2O4 ↓ +2NaCl (p.ư. 1)  
to  
2NiC2O4 + O2 2NiO + 4CO2  
(p.ư. 2)  
3.2 Cấu trúc tinh thể của vật liệu tổ hợp  
Hình 3a là giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu  
thuần và mẫu tổ hợp thu được sau khi nung. Tất cả  
các mẫu đều có chung dáng điệu của phổ XRD của  
mẫu thuần. Điều này chứng tỏ sự hiện diện của GO  
không gây ảnh hưởng tới cấu trúc tinh thể của vật liệu  
NiO. Bên cạnh đó tín hiệu của các đỉnh nhiễu xạ của  
các mẫu tổ hợp có cường độ tăng so với mẫu thuần,  
và tại góc 2θ ~ 10 – 11o không xuất hiện đỉnh nào  
chứng tỏ GO đã bị khử thành rGO, đồng thời vị trí  
của đỉnh nhiễu xạ cũng bị dịch nhẹ so với mẫu không  
Hình 1. (a) Phổ Raman của mảnh graphit và GO; (b)  
Phổ FTIR của GO.  
121  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 2, April 2021, 119-125  
pha tạp - điều này chứng tỏ rGO đã có tương tác tới  
theo sự xuất hiện của GO còn cho thấy sự tương tác  
cấu trúc của NiO.  
giữa GO và NiO trong vật liệu tổ hợp.  
3.3 Hình thái của vật liệu tổ hợp  
Hình 4a, 4b, và 4c thể hiện ảnh FESEM của các  
mẫu tương ứng là mẫu DT00, DT05 và DT10. Kết  
quả cho thấy các mẫu DT00 có dạng thanh dài, trong  
khi DT05 và DT10 có dạng thanh ngắn xen kẽ với  
một số thanh dài. Điều này được giải thích là do sự  
xuất hiện của GO làm ngăn cản quá trình phát triển  
thành thanh dài của NiO, đồng thời gây ra hiệu ứng  
nén tăng vi ứng suất trong vật liệu tổ hợp [21]. Chú  
ý, trong các hình FESEM ta không quan sát thấy  
rGO, điều này có thể lý giải là do chùm điện tử năng  
lượng cao và độ hội tụ lớn đã xuyên qua những lớp  
rGO mỏng. Để quan sát thấy sự có mặt của rGO mẫu  
được đem chụp ảnh SEM với độ phân giải thấp. Hình  
4d là ảnh SEM với độ phân giải thấp của mẫu DT05,  
sự có mặt của rGO trong mẫu được khẳng định bởi  
những điểm mờ phân bố trên bề mặt mẫu.  
Để khảo sát sự phân bố đồng đều của rGO trong  
mẫu, ảnh quét sự phân bố các nguyên tố được sử dụng  
(Hình 5). Kết quả cho thấy các nguyên tố C, O, và Ni  
phân bố đều trong cửa sổ quét có diện tích 110x80 μm2.  
Sự phân bố đều của nguyên tố C trong mẫu khẳng định  
sự phân tán đồng đều của GO trong vật liệu tổ hợp.  
Hình 3. a) Phổ nhiễu xạ tia X của hệ mẫu chế tạo; b)  
giá trị vi ứng suất và kích thước tinh thể ứng với các  
hàm lượng GO trong mẫu tổ hợp tính từ công thức  
Williamson-Hall.  
3.4 Kết quả hấp phụ các chất nhuộm màu  
Để khảo sát khả năng ứng dụng trong xử lý môi  
trường của vật liệu tổ hợp, thí nghiệm hấp phụ các  
chất nhuộm màu (MO, RC) được thực hiện với hàm  
lượng chất hấp phụ là 20 mg/100 ml dung dịch chất  
nhuộm màu (MO – 10 ppm, RC 50 ppm). Kết quả  
cho thấy, với chất nhuộm màu MO, sau 5 phút thí  
nghiệm, tất cả các vật liệu đều gần như đạt tới trạng  
thái cân bằng hấp phụ (Hình 6a). Hiệu suất hấp phụ  
MO của các mẫu DT00, DT05 và DT10 tương ứng là  
19,5% lên 21,4 và 24,8%. Với chất nhuộm màu RC,  
sau 30 phút thí nghiệm, các vật liệu mới gần đạt trạng  
thái cân bằng hấp phụ. Hiệu suất hấp phụ RC của các  
mẫu DT00, DT05 và DT10 tương ứng là 78, 87 và  
81%. Các kết quả trên cho thấy tất cả các vật liệu tổ  
hợp đều có hiệu suất hấp phụ cao hơn so với vật liệu  
thuần dù sự tăng là nhỏ. Kết quả này được giải thích  
là do các thanh NiO bị gẫy trong các mẫu tổ hợp làm  
tăng diện tích tiếp xúc giữa NiO chất nhuộm màu. Ở  
đây vai trò của rGO trong quá trình hấp phụ là nhỏ do  
hàm lượng nhỏ. Trong nghiên cứu này, chúng tôi  
cũng khảo sát khả năng hấp phụ chất nhuộm màu  
methyl xanh (MB) nhưng gần như MB không bị hấp  
phụ bởi cả NiO thuần và vật liệu tổ hợp (kết quả  
không thể hiện ở đây). Điều này được giải thích là do  
NiO là bán dẫn loại p nên không hấp phụ các chất  
nhuộm màu cation như MB mà chỉ hấp phụ các chất  
nhuộm anion như MO. Các kết quả này cho thấy NiO  
đóng vai trò chính trong vật liệu tổ hợp rGO@NiO  
Để phân tích sâu hơn về kích thước tinh thể và  
ứng suất trong tinh thể vật liệu, nhóm đã sử dụng  
công thức Williamson – Hall (2)[21,24]:  
kλ  
βhkl cosθ =  
+ 2ε sinθ  
(2)  
D
trong đó βhkl là bề rộng bán đỉnh, θ là góc nhiễu xạ, k là  
hệ số thực nghiệm - ở đây ta lấy k=0.9, λ là bước sóng  
của tia X sử dụng trong phép đo XRD (λ=1.54065 Å),  
D là kích thước tinh thể trung bình, và ε là vi ứng suất  
trong mẫu. Theo công thức Williamson-Hall, kích  
thước tinh thể trung bình và vi ứng suất có thể được  
ngoại suy từ đồ thị βcosθ vs. sinθ. Kết quả về kích  
thước tinh thể trung bình và vi ứng suất được biểu diễn  
ở Hình 3b. Kết quả thu được cho thấy, vi ứng suất tăng  
trong khi kích thước tinh thể trung bình gần như không  
đổi khi tăng lượng GO trong mẫu. Cụ thể trong mẫu  
thuần, ứng suất ε=0%, khi pha tạp GO với hàm lượng  
0,5 và 1,0%, vi ứng suất tăng lên tương ứng là 0,13 và  
0,14%. Kích thước tinh thể trung bình trong mẫu thuần  
là 9,9 nm, khi pha tạp GO với hàm lượng 0,5 và 1,0%  
kích thước tinh thể trung bình của mẫu tương ứng là  
10,1 và 10,4 nm các kết quả này gần như xấp xỉ  
nhau. Như vậy GO tuy không làm thay đổi cấu trúc  
nhưng đã làm thay đổi tính chất tinh thể của vật liệu  
nanocomposite. Bên cạnh đó sự tăng của vi ứng suất  
122  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 2, April 2021, 119-125  
(a)  
(b)  
(c)  
(d)  
rGO  
rG  
Hình 4. Ảnh FESEM của hệ mẫu chế tạo với nồng độ pha tạp GO khác nhau: a) 0% GO (DT00); b) 0.5%GO  
(DT05); c) 1.0%GO (DT10).  
(b)  
(a)  
(d)  
(c)  
Hình 5. Ảnh SEM độ phân giải thấp (a), và ảnh phân bố các nguyên tố Carbon (b), Oxi (c) và Niken (d) trong  
mẫu DT05.  
Hình 6. Hiệu suất hấp phụ chất nhuộm màu hữu cơ (a) Metyl da cam (MO) và (b) công-gô đỏ (RC) của các mẫu.  
123  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 2, April 2021, 119-125  
Tài liệu tham khảo  
Từ các kết quả hiệu suất hấp phụ, dung lượng hấp  
[1] Hien, V.X. SO2-sensing properties of NiO nanowalls  
synthesized by the reaction of Ni foil in NH4OH  
solution. Adv. Nat. Sci. Nanosci. Nanotechnol. 9,  
45013, 2018.  
phụ q của vật liệu được xác định thông qua công thức (3):  
H % ×m  
(
)
mc  
nh  
q =  
(3)  
trong đó mnh mc tương ứng là khối lượng chất  
nhuộm màu và khối lượng vật liệu hấp phụ sử dụng  
ban đầu. Kết quả tính toán cho thấy, dung lượng hấp  
phcủa các mẫu DT00, DT05, và DT10 tương ứng  
với chất nhuộm MO là 9,7, 10,7, và 12,4 (mg/g);  
tương ứng với chất nhuộm RC 195,0, 217,5 và  
202,5 (mg/g). Kết quả này cho thấy, cả mẫu tổ hợp  
rGO@NiO (DT05 và DT10) và mẫu NiO thuần  
(DT00) có dung lượng hấp phụ RC là cao so với các  
cấu trúc hay tổ hợp NiO/Gr đã công bố [25–27]. Cụ  
thể, tổ hợp NiO/Gr tổng hợp bởi nhóm của Rong và  
cộng sự [27] cho dung lượng hấp phụ RC là 124mg/g.  
Trong khi đó, NiO có hình thái dạng tấm nano và hạt  
nano chế tạo bởi Cheng và cộng sự [26] có dung  
lượng hấp phụ RC tương ứng là 151 và 40 mg/g. Với  
NiO dạng tấm nano xốp, Hu và cộng sự công bố dung  
lượng hấp phụ RC là 194 mg/g [25]. Như vậy, so với  
các kết quả đã công bố, mẫu DT05 cho dung lượng  
hấp phụ RC lớn và cho thấy khả năng ứng dụng trong  
xử lý chất nhuộm màu RC.  
[2] Son, L.L., Cuong, D., Thi, T. Van, Hieu, T. Konjac  
glucomanman-templated  
synthesis  
of  
three  
dimensional NiO nanostructures assembled from  
porous NiO nanoplates for gas sensors. RSC Adv. Vol.  
9, pp. 9584–9593, 2019.  
[3] Duc, N., Tong, P. Van, Manh, C. Urea mediated  
synthesis of Ni(OH)2 nanowires and their conversion  
into NiO nanostructure for hydrogen gas-sensing  
application. Int. J. Hydrogen Energy 2018, 43, 9446–  
9453.  
[4] Aydoghmish, S.M., Hassanzadeh-Tabrizi, S.A.,  
Saffar-Teluri, A. Facile synthesis and investigation of  
NiO–ZnO–Ag  
nanocomposites  
as  
efficient  
photocatalysts for degradation of methylene blue dye.  
Ceram. Int. 2019, 45, 14934–14942.  
[5] Ezhilarasi, A.A., Vijaya, J.J., Kaviyarasu, K.,  
Kennedy, L.J., Ramalingam, R.J., Al-lohedan, H.A.  
Green synthesis of NiO nanoparticles using Aegle  
marmelos leaf extract for the evaluation of in-vitro  
4. Kết luận  
Trong nghiên cứu này, nhóm đã tổng hợp thành  
công vật liệu tổ hợp trực tiếp giữa rGO và thanh nano  
NiO bằng phương pháp nhiệt thủy phân một bước  
đơn giản. Các kết quả cho thấy rGO phân bố đều  
trong mẫu tổ hợp và sự có mặt của rGO không ảnh  
hưởng tới cấu trúc tinh thể nhưng ảnh hưởng tới hình  
thái và vi ứng suất trong vật liệu. Khi có rGO các  
thanh nano NiO bị vỡ vụn, vi ứng suất tăng từ  
0,00 đến 0,13 và 0,14%, kích thước tinh thể trung  
bình tăng nhẹ từ 9,9 đến 10,1 và 10,4 nm khi tổ hợp  
tương ứng với 0,5 và 1,0% GO. Điều này được giải  
thích là do sự xuất hiện của GO làm ngăn cản sự mọc  
dài của thanh nano NiO và gây ra sự gẫy vụn, đồng  
thời làm tăng vi ứng suất. Sự xuất hiện của GO giúp  
làm tăng khả năng hấp phụ của vật liệu với các chất  
nhuộm màu Metyl da cam và công-gô đỏ. Khi pha  
tạp 0,5 và 1,0% GO, hiệu suất hấp phụ RC sau 30  
phút tăng từ 78% lên tương ứng 87 và 81%, hiệu suất  
hấp phụ MO tăng từ 19,5% lên 21,4 và 24,8%. Sự  
tăng hiệu suất phấp phụ các chất nhuộm màu có thể  
giải thích là do sự xuất hiện của GO làm tăng diện  
tích tiếp xúc trong tổ hợp, tuy nhiên do hàm lượng  
GO sử dụng là nhỏ nên sự tăng còn nhỏ. Nghiên cứu  
này cho thấy khả năng phát triển phương pháp tổng  
hợp trực tiếp và đơn giản để tổng hợp các vật liệu tổ  
hợp giữa oxit bán dẫn và vật liệu graphen oxit cho  
c ứng dụng xử lý môi trường như làm chất hấp phụ  
các chất nhuộm màu hữu cơ.  
cytotoxicity  
,
antibacterial and photocatalytic  
properties. J. Photochem. Photobiol. , B Biol. 2018,  
180, 3950.  
[6] Sabouri, Z., Akbari, A., Ali, H., Darroudi, M. Facile  
green synthesis of NiO nanoparticles and investigation  
of dye degradation and cytotoxicity effects. J. Mol.  
Struct. 2018, 1173, 931936.  
[7] Ahmed, A., Ahmed, S., Johari, R., Parvaz, M., Rafat,  
M. Dual-energy application of NiOꢀ: Electrochemical  
and photovoltaic properties. Optik (Stuttg). 2019, 179,  
485491.  
[8] Chang, J.Y., Chen, Y.C., Wang, C.M., Chen, Y.W.  
Electrochromic properties of Li-Doped NiO films  
prepared by RF magnetron sputtering. Coatings 2020,  
10, 1–8.  
http://doi/org/10.3390/coatings10010087  
[9] Hou, S., Gavrilyuk, A.I., Zhao, J., Geng, H., Li, N.,  
Hua, C., Zhang, K., Li, Y. Controllable crystallinity of  
nickel oxide film with enhanced electrochromic  
properties. Appl. Surf. Sci. 2018, 451, 104–111.  
http://doi/org/10.1016/j.apsusc.2018.04.206  
[10] Behera, N., Arakha, M., Priyadarshinee, M. Oxidative  
stress generated at nickel oxide nanoparticle interface  
results in bacterial membrane damage leading to cell  
death. RCS Adv. 2019, 9, 24888–24894.  
Lời cảm ơn  
[11] Khashan, K.S., Sulaiman, G.M., Ameer, F.A.K.,  
Napolitano, G. Synthesis, characterization and  
antibacterial activity of colloidal NiO nanoparticles.  
Đề tài này được tài trợ bởi Trường Đại học Bách  
Khoa Hà Nội.  
124  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 2, April 2021, 119-125  
Pak. J. Pharm. Sci. 2016, 29, 541–546.  
properties. J. Nanomater. 2019, 2019, 1703218.  
[12] Helan, V., Prince, J.J., Al-dhabi, N.A., Valan, M.,  
Ayeshamariam, A., Madhumitha, G., Mohana, S.,  
Jayachandran, M. Neem leaves mediated preparation  
of NiO nanoparticles and its magnetization , coercivity  
and antibacterial analysis. Results Phys. 2016, 6, 712–  
718.  
[20] Baig, N., Sajid, M., Saleh, A.T. Graphene-based  
adsorbents for the removal of toxic organic pollutants:  
A review. J. Environ. Manage. 2019, 244, 370382.  
[21] Nguyen, C.T., Pham, T.P., Luu, T.L.A., Nguyen, X.S.,  
Nguyen, T.T., Nguyen, H.L., Nguyen, D.C. Constraint  
effect caused by graphene on in situ grown Gr@WO3  
-nanobrick hybrid material. Ceram. Int. 2020, 46,  
8711–8718.  
[13] Peigney, A., Laurent, C., Flahaut, E., Bacsa, R.R.,  
Rousset, A. Specific surface area of carbon nanotubes  
and bundles of carbon nanotubes. Carbon N. Y. 2001,  
39, 507514.  
http://doi/org/10.1016/S0008-6223(00)00155-X  
[22] Saito, R., Hofmann, M., Dresselhaus, G., Jorio, A.,  
Dresselhaus, M.S. Raman spectroscopy of graphene  
and carbon nanotubes. Adv. Phys. 2011, 60, 413550.  
[14] Geim, A.K., Novoselov, K.S. The rise of graphene.  
Nat. Mater. 2007, 6, 183191.  
[15] Arshad, A., Iqbal, J., Mansoor, Q. NiO-nanoflakes  
grafted graphene: an exellent photocatalyst and a novel  
nanomaterial for achieving compete pathogen control.  
Nanoscale 2017, 9, 1632116328.  
[23] Mohamed, M.A., Jaafar, J., Ismail, A.F., Othman,  
M.H.D., Rahman, M.A. Fourier Transform Infrared  
(FTIR) Spectroscopy. In Membrane Characterization,  
Elsevier, 2017, pp. 329 ISBN 9780444637918.  
http://doi.org/10.1016/B978-0-444-63776-5.00001-2  
[16] Balaji, V., Lau, K., Hui, D., Bhattacharyya, D.  
Graphene-based materials and their compositesꢀ: A  
review on production , applications and product  
limitations. Compos. Part B 2018, 142, 200220.  
[24] Williamson, G.K., Hall, W.H. X-Ray broadening from  
filed aluminium and tungsten. Acta Metall. 1953, 1,  
22–31.  
http://doi/org/10.1016/0001-6160(53)90006-6  
[25] Hu, H., Wang, M., Xuan, H., Zhang, K., Xu, J. Single-  
crystalline porous NiO nanobiscuits with prompt  
adsorption activity for Congo red. Micro Nano Lett.  
2017, 12, 987–990,  
[17] Al-nafiey, A., Al-mamoori, M.H.K., Alshrefi, M.S.,  
Shakir, A.K., Ahmed, R.T. One step to synthesis (  
rGO/Ni NPs) nanocomposite and using to adsorption  
dyes from aqueous solution. Mater. Today Proc. 2019,  
19, 94–101.  
[26] Cheng, B., Le, Y., Cai, W., Yu, J. Synthesis of  
hierarchical Ni(OH)2 and NiO nanosheets and their  
adsorption kinetics and isotherms to Congo red in  
water. J. Hazard. Mater. 2011, 185, 889–897.  
http://doi/org/10.1016/j.matpr.2019.07.663  
[18] Gusain, R., Gupta, K., Joshi, P., Khatri, O.P.  
Adsorptive removal and photocatalytic degradation of  
organic pollutants using metal oxides and their  
compositesꢀ: A comprehensive review. Adv. Colloid  
Interface Sci. 2019, 272, 102009.  
[27] Rong, X., Qiu, F., Qin, J., Zhao, H., Yan, J., Yang, D.  
A facile hydrothermal synthesis , adsorption kinetics  
and isotherms to Congo Red azo-dye from aqueous  
solution of NiO graphene nanosheets adsorbent. J. Ind.  
Eng. Chem. 2015, 26, 354363.  
[19] Modafferi, V., Santangelo, S., Fiore, M., Fazio, E.,  
Triolo, C., Patanè, S., Ruffo, R., Musolino, M.G.  
Transition metal oxides on reduced graphene oxide  
nanocomposites: Evaluation of physicochemical  
125  
pdf 7 trang yennguyen 18/04/2022 1180
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp vật liệu tổ hợp trực tiếp rGO/thanh nano NiO bằng phương pháp nhiệt thủy phân và nghiên cứu các tính chất của vật liệu tổ hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftong_hop_vat_lieu_to_hop_truc_tiep_rgothanh_nano_nio_bang_ph.pdf