Tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
TINH HOA VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI
TRONG TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP CỦA HỒ CHÍ MINH
y Nguyễn Đức Thăng(*)
Tóm tắt
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là tác phẩm văn chính luận quan trọng trong văn học Việt
Nam hiện đại, được giảng dạy ở chương trình Trung học phổ thông nhiều năm. Các vấn đề như: quyền
con người, quyền dân tộc, phương pháp lập luận, phong cách văn chính luận đã được đề cập khá rõ
nét; nhưng về giá trị văn hóa - tư tưởng còn có thể tìm hiểu đào sâu, mở rộng thêm. Về phương diện văn
hóa - tư tưởng, bản tuyên ngôn hàm chứa tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại. Tinh hoa văn hóa dân
tộc trong Tuyên ngôn Độc lập thể hiện ở tinh thần đấu tranh giành độc lập cho đất nước, tự do cho dân
tộc; tinh thần nhân đạo và hợp tác quốc tế đạt đến chính nghĩa, văn minh. Tinh hoa văn hóa nhân loại
bao gồm những tư tưởng đúc kết trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Pháp (1789), chủ nghĩa Xã hội khoa học của Marx - Lenin và chủ nghĩa Tam dân của
Tôn Trung Sơn. Bài viết tập trung luận bàn, khẳng định những vấn đề này.
Từ khóa: Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh, tinh hoa văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
1. Đặt vấn đề
được chứng minh bằng lịch sử và hệ thống lý lẽ
chặt chẽ, thuyết phục. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ
Chí Minh là áng văn lập quốc vĩ đại, là văn kiện
có giá trị to lớn trong lịch sử Việt Nam hiện đại:
là biểu tượng cho việc chấm dứt chế độ thực dân
ngoại quốc, phong kiến bản địa; là sự khẳng định
quyền tự chủ, vị thế bình đẳng của Việt Nam trên
trường quốc tế; là mốc son chói lọi mở ra kỷ nguyên
mới độc lập, tự do trên đất nước ta. Đặc biệt, tác
phẩm chỉ gồm 49 câu, với 1010 chữ nhưng lại chứa
đựng những nội dung to lớn, ý nghĩa sâu sắc; in
đậm tinh hoa văn hóa truyền thống đồng thời chứa
đựng những giá trị tư tưởng nhân văn tiến bộ; là
tác phẩm văn chính luận kiểu mẫu, tính luận chiến
mạnh mẽ; trở thành áng hùng văn mới của nhân
loại thế kỷ XX.
Sau khi khẳng định cơ sở pháp lý nền tảng
của bản tuyên ngôn, phần lớn Tuyên ngôn Độc lập
trình bày lịch sử hơn 80 năm (1858-1945) thực dân
Pháp xâm lược, cai trị Việt Nam: tội ác tày trời, chất
chồng của chúng; cuộc chiến chính nghĩa gian khổ,
anh dũng của dân tộc ta đánh bại các thế lực thực
dân, phát xít xâm lược và phong kiến. Cuối cùng
là lời tuyên bố độc lập và khẳng định ý chí quyết
tâm sắt đá của toàn dân tộc bảo vệ nền độc lập vô
giá vừa giành được.
Tuyên ngôn Độc lập của tác giả Hồ Chí Minh
là bản tuyên ngôn chính thức đầu tiên, khai sinh
nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đồng thời
được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ ba
của nước ta sau hai bản Nam quốc sơn hà (tương
truyền của Lý Thường Kiệt) và Đại cáo bình Ngô
của Nguyễn Trãi. Giá trị của Tuyên ngôn Độc lập
thể hiện ở chân lý sáng rõ không thể phủ nhận, lập
luận chặt chẽ, âm điệu hào hùng; đặc biệt sự khẳng
định mạnh mẽ, đanh thép chủ quyền đất nước, tự
do dân tộc; tinh thần quyết tử của con người Việt
Nam nhằm bảo vệ những giá trị cụ thể và thiêng
liêng bất khả xâm phạm. Vì thế, cùng với những
áng thiên cổ hùng văn thời trung đại, Tuyên ngôn
Độc lập - tác phẩm văn chính luận xuất sắc của
thời đại - có giá trị lịch sử vĩnh hằng cùng tinh thần
nhân văn cao cả, hàm chứa tinh hoa văn hóa dân
tộc và nhân loại.
2. Nội dung
2.1. Văn kiện lịch sử vô giá
Tuyên ngôn độc lập là bản khai sinh một quốc
gia; nhằm khẳng định độc lập, chủ quyền thiêng
liêng toàn vẹn lãnh thổ. Những bản tuyên ngôn
thường trở thành dấu ấn vinh quang, bi hùng của
lịch sử một quốc gia, dân tộc. Tính chất văn kiện
trong tuyên ngôn thể hiện ở những nội dung tư
tưởng quan trọng, xuất phát từ thực tế cuộc sống;
Từ những thập niên đầu ở nước ngoài, với
bút danh Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh đã viết
nhiều bài luận chiến bằng tiếng Pháp như: Tâm
địa thực dân, Vực thẳm thuộc địa, Công cuộc khai
(*) Trường Đại học An Giang.
101
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
hóa giết người… đăng trên các báo “Người cùng do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức
khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống thợ thuyền”… nhằm đồng bào ta” [1, tr. 39]. Về chính trị: Pháp không
tấn công vào chủ nghĩa đế quốc, cụ thể là thực dân cho dân ta tự do; thi hành luật pháp dã man; ngăn
Pháp; tố cáo bản chất ăn cướp, giết người; vạch trần cản việc thống nhất, đoàn kết; lập nhiều nhà tù;
công cuộc “khai hóa văn minh” của chúng: “Từ đó chém giết, khủng bố, thi hành chính sách ngu dân.
(thời điểm Pháp xâm lược Việt Nam - chú thích của Về kinh tế: chúng bóc lột đến xương tủy khiến dân
người viết), chúng tôi không những bị áp bức bóc ta nghèo nàn, nước ta tiêu điều; cướp ruộng đất,
lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu hầm mỏ, đặt hàng trăm thứ thuế vô lý… Người đã
độc một cách thê thảm… Nhà tù nhiều hơn trường dùng cách viết mỉa mai sâu cay, đầy thâm thúy ghi
học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người” [3, lại lịch sử “khai hóa” “nhân đạo” “kiêu hãnh” của
tập 1, tr. 22]. Trong giai đoạn này, tác phẩm tiêu “nước mẹ đại Pháp” từng kể công bao lần với các
biểu nhất là Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), xứ thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Không chỉ vạch
“Tác phẩm này cũng như tờ báo “Người cùng khổ” trần bản chất “khai hóa” giả hiệu, tác giả cũng phản
(Le Paria) nhằm mục đích tuyên truyền “giải phóng bác công “bảo hộ” Việt Nam khi lên án bản chất ích
những dân tộc thuộc địa”, tố cáo trước dư luận kỷ, đê hèn, tàn bạo, bịp bợm của chúng: bán nước
phương Tây và cả ở các nước thuộc địa những tội ta hai lần cho Nhật, nhất là tội diệt chủng (gây ra
ác của tất cả các bọn thực dân và kết tội toàn bộ nạn đói năm 1945 làm chết hơn hai triệu dân Việt).
chế độ thực dân” [5, tr. 293]. Người kết tội chúng Thực dân Pháp còn phản bội Đồng minh, không
lừa dối, tàn độc với người dân bản xứ: “Trước năm liên minh với Việt Minh chống phát xít Nhật; trái
1914, họ chỉ là những tên da đen hèn hạ, những tên lại, chúng thẳng tay khủng bố Việt Minh một cách
“Annamít” hèn hạ, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo tàn nhẫn. Như vậy, thực dân Pháp không chỉ gây
xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta [6, tr. thêm tội ác với nhân dân Việt Nam mà còn chống
23]... Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được lại nhân dân tiến bộ thế giới trong cuộc chiến chính
phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ nghĩa chống phát xít. Bằng tất cả tấm lòng ưu dân
công lý và tự do”. Nhưng họ đã phải trả bằng một ái quốc, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã xúc động phẫn
cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ uất viết nên bản cáo trạng đanh thép về những tội
cho cái công lý và tự do mà chính họ không được ác “trời không dung, đất không tha” mà thực dân
hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, Pháp đã gây ra trong hơn 80 năm đô hộ Việt Nam.
rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại Đó là những trang sử bi thương khắc sâu trong tim
dương, đi phơi thây trên cái bãi chiến trường châu óc muôn đời con dân Việt. Bằng sức mạnh đoàn
Âu(1). Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kết toàn dân cùng sự hy sinh xương máu của hàng
kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy triệu sinh linh Việt vô tội trong cuộc kháng chiến
không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”(2), nhưng trường kỳ, chúng ta đã có ngày chiến thắng. Nhưng
lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người độc lập của đất nước, tự do của dân tộc vẫn bị đe
Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ dọa vì thực dân Pháp thâm độc, xảo trá. Chính vì
ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì vậy, song song với việc khẳng định thắng lợi của
đã hít phải hơi ngạt vậy” [6, tr. 23-24]. Như vậy, cách mạng tháng Tám, Tuyên ngôn Độc lập phủ
Tuyên ngôn Độc lập chính là sự kế thừa, tổng kết nhận hoàn toàn vai trò, công lao của Pháp ở Việt
các tác phẩm giàu tính chiến đấu những năm đầu Nam nhằm ngăn chặn chúng trở lại nước ta sau
thế kỷ XX của tác giả; đồng thời đó cũng chính là này: “Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới
những trang sử đau thương, uất hận không thể nào của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ
quên của dân tộc ta.
chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng
Trong tuyên ngôn, Hồ Chí Minh vạch trần không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm chúng
bộ mặt tàn bạo, xảo trá của thực dân Pháp đối với đã bán nước ta hai lần cho Nhật... Sự thật là từ mùa
nhân dân Việt Nam bằng những lập luận sắc bén thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật,
và dẫn chứng cụ thể, xác thực. Tác giả bác bỏ công chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa... Sự thật
“khai hóa” giả hiệu của chúng: “lợi dụng lá cờ tự là ta đã lấy lại nước từ tay Nhật chứ không phải từ
102
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
tay Pháp” [1, tr. 40].
Đông Dương, chúng tôi không phản đối uy quyền
Tác phẩm còn khẳng định cuộc đấu tranh và quân đội Pháp trở lại xứ sở này”(5). Lời tuyên bố
chính nghĩa trường kỳ, gian khổ của dân tộc ta độc lập trước quốc tế buộc nhân loại tiến bộ phải
nhằm xác lập vị thế độc lập xứng đáng mà chúng ta đứng về phía Việt Nam, ngăn chặn những mưu đồ
vừa giành được trước thế giới - chính dân tộc Việt thâu tóm quyền thống trị thuộc địa từ các cường
Nam làm chủ vận mệnh của mình: “Dân ta đã đánh quốc phản động đương thời. Tuyên ngôn Độc lập
đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây đã khẳng định quyền dân tộc độc lập - tiền đề cho
dựng nên nước Việt Nam độc lập” [1, tr. 40]; cùng sự ra đời của chính phủ, quốc gia Việt Nam - đây
phe Đồng minh chống phát xít “biết bao lần Việt chính là cơ sở pháp lý cho sự hình thành nhà nước
Minh… chống Nhật; khi Nhật hàng Đồng minh thì Việt Nam mới, đặt nền tảng thiết lập chính thể Dân
nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, chủ Cộng hòa và đặt nền móng cho việc xây dựng
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” [1, tr. nhà nước pháp quyền Việt Nam sau này.
40]; tiêu diệt chế độ phong kiến là xu thế tiến bộ
hợp thời đại “Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ
2.2. Kết tinh văn hóa dân tộc
Tuyên ngôn Độc lập mặc dù ngắn gọn, súc tích
mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng nhưng kết tụ nhiều tinh hoa văn hóa dân tộc. Đó
hòa” [1, tr. 40]. Cuối cùng tác giả đã đúc kết lịch sử là chủ nghĩa yêu nước, truyền thống quật khởi đấu
Việt Nam giai đoạn 1858-1945 đầy phấn khởi, tự tranh; lòng nhân đạo và tinh thần hợp tác quốc tế.
hào bằng một câu văn khẳng định ngắn gọn: “Pháp
Trong tác phẩm, tác giả khẳng định: “Một
chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” [1, tr. 40]. dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn
Câu văn hàm súc, nghe nhẹ nhàng, đơn giản nhưng 80 năm nay” [1, tr. 41]. Câu văn khẳng định cuộc
có sức nặng to lớn - là sự đúc kết vinh quang vô kháng chiến chống Pháp anh dũng, trường kỳ, đồng
giá phải đánh đổi bằng muôn vàn cay đắng, hy sinh thời khơi gợi truyền thống đấu tranh bất khuất
của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến trường kỳ, chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó là chiến
không cân sức với một cường quốc Tây phương.
công oanh liệt của Ngô Quyền đánh tan quân Nam
Tính chất đặc biệt quan trọng của văn kiện Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938); Lý Thường
lịch sử này còn thể hiện ở lời tuyên ngôn độc lập, Kiệt với trận đánh Như Nguyệt phá Tống vẻ vang
không chỉ được đọc trước quốc dân Việt Nam (năm 1077); nhà Trần và danh tướng Trần Hưng
mà còn là một công bố quan trọng trước toàn thế Đạo ba lần đại thắng quân Nguyên - Mông (năm
giới, nâng cao giá trị tác phẩm lên tầm quốc tế: 1258, 1285, 1288)... Vào nửa cuối thế kỷ XIX, gót
“Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công giày xâm lược của thực dân Pháp đã vấp phải sự
nhận những nguyên tắc dân tộc, bình đẳng ở các phản kháng mạnh mẽ của toàn thể nhân dân Việt
Hội nghị Tê-hê-răng(3) và Cựu Kim Sơn(4), quyết Nam. Vua Duy Tân (1900-1945) - vị vua thứ 11
không thể không công nhận quyền độc lập của dân của nhà Nguyễn, là người yêu nước và giàu tinh
Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô thần dân tộc - có lần, nhìn bàn tay dơ của mình
lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan đã hỏi viên quan thị vệ bưng nước rửa tay rằng:
góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy “Tay nhớp thì lấy nước rửa, thế nước nhớp thì lấy
năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó chi rửa”? Viên quan bối rối không biết trả lời; vua
phải được độc lập!” [1, tr. 41]. Vấn đề này đặc biệt đăm chiêu, tư lự, ẩn chứa dũng khí, nhiệt huyết
quan trọng vì ở thời điểm cách mạng tháng Tám cứu nước: “Nước nhớp thì lấy máu mà rửa, nhà
thành công, trên thế giới đang diễn ra sự phân chia ngươi hiểu chưa”(6). Anh hùng Nguyễn Trung Trực
quyền lực giữa các nước trong phe Đồng minh và - người đốt tàu chiến L’ Espérance (Hy vọng) của
Việt Nam bị đặt trong vòng xoáy quyền lực xâu xé Pháp trên dòng Nhựt Tảo (năm 1861) - lúc bị giặc
đó. Mặt khác, thái độ và hành động của Anh, Mỹ bắt đã khẳng khái nói thẳng vào mặt kẻ thù: “Bao
gây bất lợi và thiệt hại cho Việt Nam. Anh thỏa giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người
hiệp để Pháp (sau chân Pháp là Mỹ) sẽ trở lại Việt nước Nam đánh Tây”(7). Sau này tinh thần chống
Nam. Đồng quan điểm đó, tổng thống Mỹ Harry Pháp xâm lược của nhân dân ta đã kết thành sóng
S. Truman cũng tuyên bố: “Dù thế nào, về vấn đề trào bão cuốn qua ba cuộc vận động: phong trào
103
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
cách mạng giai đoạn 1930-1931 mà đỉnh cao là tinh thần hợp tác quốc tế đúng đắn, vì hạnh phúc
Xô Viết Nghệ Tĩnh, phong trào vận động dân chủ của nhân loại tiến bộ. Trong Tuyên ngôn Độc lập,
những năm 1936-1939 và cao trào giải phóng dân lời nhận định “một dân tộc đã gan góc đứng về phe
tộc giai đoạn 1939-1945.
Đồng minh chống phát xít mấy năm nay” [1, tr.
Chiến đấu hào hùng song dân tộc ta rất mực 41] thể hiện rõ tinh thần hợp tác quốc tế can đảm,
nhân đạo, nhân văn. Đó là một truyền thống quý dứt khoát của dân tộc ta. Đoạn văn tiếp theo, bản
báu của dân tộc. Lịch sử Việt Nam từ cổ chí kim tuyên ngôn nêu rõ: “Chúng tôi tin rằng các nước
đã bao lần chứng minh, đúc kết truyền thống nhân đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc
bản, nhân ái của dân tộc ta. Đánh tan giặc Minh bình đẳng của các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim
(năm 1427), đẩy binh tướng vào vòng nguy tử Sơn...” [1, tr. 41]. Tác giả đã khôn khéo nhắc đến
“quân giặc các thành khốn đốn cởi giáp ra hàng, sự hợp tác tích cực của Việt Nam trong những sự
tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu kiện, hoạt động quan trọng của thế giới. Như chúng
mạng”; Lê Lợi, Nguyễn Trãi vẫn mở lượng khoan ta đã biết sự phát động cùng sức mạnh, chủ trương
dung “thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở của phát xít Đức dẫn đến hình thành phe Trục(9)
đường hiếu sinh”, hơn thế còn “cấp cho năm trăm gồm ba nước: Đức, Ý (ở châu Âu), Nhật (ở châu
chiếc thuyền”, “phát cho vài nghìn cỗ ngựa”; đúng Á). Tại thời điểm đỉnh cao của chủ nghĩa phát xít
là “mưu kế kỳ diệu... cũng là chưa thấy xưa nay” trong thế chiến thứ hai, phe Trục đã làm chủ phần
(Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi). Trong chiến lớn châu Âu, Bắc Phi và Đông Á. Song song với
thắng thần tốc Ngọc Hồi - Đống Đa (năm 1789) đòi hỏi hung hăng về lãnh thổ, phát xít Đức gây ra
của quân ta, quân Thanh thất bại thảm hại, cách đối nhiều tội ác, nhất là tội diệt chủng. Ta hiểu vì sao
xử của vua Quang Trung (1753-1792) với chúng thuật ngữ Holocaust(10) luôn gợi lại sự kinh hoàng
vẫn tỏa sáng tấm lòng nhân đạo hải hà: “Trẫm một cho nhân loại đương thời cho đến tận ngày nay.
phen vẫy cờ lệnh, quét sạch lũ các ngươi như quét Mặt khác, tại hội nghị Tê-hê-răng (1943); các nước
đàn kiến. Lũ ngươi một thua tan vỡ, chết hại kể Nga, Anh, Mỹ còn công nhận độc lập chủ quyền
hàng vạn tên. Những kẻ hiện bị bắt tại trận tiền và hoàn toàn và toàn bộ lãnh thổ của Iran(11). Đề cập sự
thế bách phải đầu hàng, lẽ ra chiếu theo quân luật, kiện này, Hồ Chí Minh khẳng định Việt Nam luôn
đem chém sạch đi để răn đe những kẻ bạo ngược. ủng hộ, tôn trọng độc lập chủ quyền của các quốc
Chỉ vì thể đức hiếu sinh của Thượng đế, nên ta bao gia, dân tộc vì đó là quyền lợi vô giá, cội nguồn
dung, che chở, tha chết cho các ngươi” (Tờ chiếu của hạnh phúc: “Những người đã giành được độc
phát hàng binh, Ngô Thì Nhậm)(8). Trong thời hiện lập cho chúng ta tin rằng tự do là bí mật của hạnh
đại, Pháp có sức mạnh của vũ khí, xảo quyệt, gian phúc và lòng can đảm là bí mật của tự do”(12). Ngày
trá, tàn bạo nhưng chúng không thể ngăn cản, hủy nay Việt Nam đã gia nhập ASEAN, WTO(13) - tiếp
diệt được tinh thần yêu nước anh dũng, sức mạnh tục khẳng định ý thức, khả năng hợp tác hiệu quả
vũ bão của cách mạng, đặc biệt truyền thống nhân của Việt Nam trong cộng đồng khu vực và quốc tế.
đạo, cụ thể là cách đối xử nhân ái, văn minh của
ta khi kẻ thù bại trận, như chính Chủ tịch Hồ Chí
2.3. Chung đúc văn minh nhân loại
Trên nền tảng ý thức tự chủ, độc lập; bản tuyên
Minh khẳng định trong bản tuyên ngôn: “Tuy vậy, ngôn không mở đầu bằng truyền thống đấu tranh
đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái của dân tộc mà trích dẫn thành quả tranh đấu, giá
độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động trị cốt lõi trong hai bản tuyên ngôn của nước Mỹ
ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người và cách mạng Pháp - đó là cách viết mới mẻ, khôn
Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người khéo của tác giả. Về mặt luận chiến, Hồ Chí Minh
Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng đối thoại với kẻ thù bằng chính tư duy, lý tưởng,
và tài sản cho họ” [1, tr. 40].
thành quả của tổ tiên chúng; buộc Pháp và Mỹ thừa
Bản tuyên ngôn cũng cho thấy vận động lịch nhận độc lập, chủ quyền của dân tộc ta trong bối
sử với những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp cảnh thế giới phức tạp. Qua đó, áng văn chính luận
toàn cầu trong thế chiến thứ hai. Việc Việt Nam Tuyên ngôn Độc lập đã gián tiếp khẳng định công
đứng về phe Đồng minh chống phát xít thể hiện lý là lương tâm, lương tri không chỉ của cá nhân,
104
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
dân tộc Việt Nam mà còn của toàn nhân loại tiến bộ. Độc lập của Mỹ, Hồ Chí Minh còn ca ngợi tôn chỉ
Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, tác giả viết: trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình cách mạng Pháp. Trước đó, Người đã từng khẳng
đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có định những bài học quý giá từ cách mạng Pháp:
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có “Cách mệnh Pháp làm gương cho chúng ta về
quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu những việc gì: dân chúng công nông là gốc cách
hạnh phúc. mệnh; cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền
Lời bất hủ ấy ở trong bản “Tuyên ngôn Độc mới thành công; đàn bà trẻ con cũng giúp làm việc
lập” năm 1776 của nước Mỹ.
cách mệnh được nhiều; dân khí mạnh thì quân lính
nào, súng ống nào cũng không chống lại; cách
…
Bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” mệnh Pháp hy sinh rất nhiều người mà không sợ,
của Cách mạng Pháp năm 1789(14) cũng nói:
ta muốn làm cách mệnh thì cũng không nên sợ
Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền phải hy sinh” [3, tập 2, tr. 274]. Trong Tuyên ngôn
lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về Độc lập, tác giả cũng đồng thời trích dẫn câu đầu
quyền lợi” [1, tr. 39].
tiên trong tổng số hai câu của điều khoản thứ nhất
Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ do Thomas trong Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Jefferson (1743-1826) biên soạn, là văn bản chính cách mạng Pháp (1789)(15). Văn bản này được xem
trị tuyên bố 13 thuộc địa Bắc Mỹ chính thức ly khai là một trong những văn kiện pháp lý về quyền con
khỏi Anh Quốc, hình thành quốc gia độc lập; “tiêu người, có tầm ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử pháp
biểu cho nguyện vọng của nhân dân các nước thuộc lý thế giới cận đại; đồng thời là nguồn cảm hứng
địa Bắc Mỹ đấu tranh giành độc lập tự do” [3, tập cho các dân tộc bị áp bức đấu tranh giành độc lập.
2, tr. 519]. Tư tưởng trong bản tuyên ngôn của T. Nó nhanh chóng trở thành tôn chỉ của cuộc cách
Jefferson chịu ảnh hưởng sâu sắc triết học của mạng Pháp và theo một số sử gia nó cũng là di sản
John Locke (1632-1704) - triết gia theo trường lớn nhất mà cuộc cách mạng này để lại. Bản tuyên
phái kinh nghiệm Anh (nghiên cứu về các quyền ngôn của cách mạng Pháp là sự kết tinh những lý
tự nhiên và khế ước xã hội), đồng thời là nhà tư tưởng tiến bộ nhất của thời đại Khai sáng; tác phẩm
tưởng của phong trào Khai sáng. Tư tưởng của còn tuyệt vời bởi tầm vóc và bởi sự giản đơn gói
J. Locke ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc cách mạng gọn các quyền cơ bản về tự nhiên và dân sự, được
Mỹ chống sự thống trị của nướcAnh. Theo lý thuyết tán thành bởi những học giả lỗi lạc như J. Locke,
của J. Locke, ba quyền cơ bản không thể bị tước Jean - Jacques Rousseau, T. Jefferson khiến nó trở
đoạt của con người là quyền được sống, quyền tự do thành nền tảng pháp luật của nước Pháp thế kỷ
và quyền sở hữu. Quyền sở hữu được T. Jefferson XVIII cho đến tận ngày nay.
đề cập đến trong bản tuyên ngôn là quyền mưu cầu
Cuộc cách mạng và Tuyên ngôn Độc lập của
hạnh phúc. Tác giả Hồ Chí Minh trích dẫn một câu Mỹ, cuộc cách mạng cùng Tuyên ngôn Nhân quyền
trong phần đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập của và Dân quyền của cách mạng Pháp là những bước
Mỹ nhằm thu hút công luận; đồng thời tạo cơ sở lập ngoặt trong lịch sử và tư tưởng thế giới; khẳng định
luận tư tưởng, pháp lý và nâng cao tiền đề: từ quyền những lý tưởng tốt đẹp của nhân loại. Tiếp thu chọn
con người để suy rộng ra quyền của quốc gia, dân lọc một phần tư tưởng cơ bản của hai bản tuyên
tộc - đều là những quyền thiêng liêng, bất khả xâm ngôn này, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những tư tưởng
phạm. Đánh giá cao lý tưởng của bản tuyên ngôn tiến bộ của văn hóa, văn minh nhân loại từ thế kỷ
này, tác giả Hồ Chí Minh đi đến khái quát mới là XVI - XVIII, góp phần làm phong phú tư tưởng về
một bước phát triển nâng những lý tưởng giàu tính các quyền cơ bản, thiêng liêng của quốc gia, dân
nhân văn của thế kỷ XVIII lên tầm cao của thời đại tộc, con người; nhờ vậy bản Tuyên ngôn Độc lập
mới. Trong toàn bộ hệ thống luận điểm phát triển của nước ta đạt được những giá trị to lớn nhiều mặt,
trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập, tác giả đều tập được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
trung nhấn mạnh luận đề chính yếu này.
Tất nhiên, đề cập đến tinh hoa tư tưởng nhân
Không chỉ đề cao tư tưởng trong Tuyên ngôn loại kết tụ trong Tuyên ngôn Độc lập, không thể
105
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
không nói đến tác động to lớn của chủ nghĩa Marx đúng đắn những vấn đề phức tạp của công cuộc giải
- Lenin. Từ điển chủ nghĩa Cộng sản khoa học định phóng dân tộc [3, tập 1, tr.493]… chúng tôi tiếp
nghĩa: “Chủ nghĩa Marx - Lenin là một hệ thống có tục đi theo con đường cách mạng tháng Mười đã
căn cứ khoa học của các quan điểm triết học, kinh vạch ra, chúng tôi sẽ vận dụng vào thực tiễn những
tế, chính trị - xã hội; học thuyết về nhận thức và cải bài học đã học được” [3, tập 1, tr. 484]. Sau này,
tạo thế giới, về những quy luật phát triển của xã hội, Hồ Chí Minh lại khẳng định một lần nữa: “Cách
tự nhiên và tư duy con người; về những con đường mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng
cách mạng lật đổ chế độ bóc lột và xây dựng chủ thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm
nghĩa Cộng sản; thế giới quan của giai cấp công gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy
nhân và đội tiên phong của nó là các đảng Cộng sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ
sản, tổ chức công nhân”(16). Như vậy, chủ nghĩa nghĩa Mã Khắc Tư (tức K. Marx, theo phiên âm
Marx - Lenin là khoa học lý luận đa lĩnh vực: các Hán Việt - chú thích của người viết) và Lênin” [3,
quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, về cách tập 2, tr. 280]. Như vậy, Hồ Chí Minh đã nhiều lần
mạng của quần chúng bị áp bức, về thắng lợi của khẳng định chủ nghĩa Marx - Lenin chính là tôn
CNXH trong tất cả các nước, về việc kiến thiết xã chỉ, ánh sáng chỉ đường cho cách mạng giải phóng
hội Cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Marx - Lenin dân tộc Việt Nam. Từ năm 1858 đến trước năm
nêu lên mục tiêu chung là giải phóng giai cấp, con 1930, ở nước ta đã có hàng trăm phong trào, cuộc
người, xã hội; đồng thời nhấn mạnh cách mạng là sự khởi nghĩa oanh liệt chống Pháp (dưới sự lãnh đạo
nghiệp của quần chúng và nhân dân là người sáng của những người yêu nước thuộc đủ mọi tầng lớp,
tạo ra lịch sử. Hệ thống học thuyết Marx - Lenin thành phần; theo nhiều khuynh hướng khác nhau)
là kết quả của sự tổng kết lịch sử phát triển của xã nhưng cuối cùng đều thất bại. Nguyên nhân là do
hội loài người từ thời công xã nguyên thủy đến hiện họ chưa có đường lối cứu nước đúng đắn. Thắng
đại, là sự kế thừa tinh hoa trí tuệ nhân loại giai đoạn lợi của cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Về vai trò của chủ đảng Cộng sản Việt Nam và Lãnh tụ Hồ Chí Minh
nghĩa Marx đối với cách mạng Việt Nam, các tác giả là minh chứng thuyết phục nhất chứng tỏ hệ thống
xây dựng bản thảo Hồ Chí Minh toàn tập nhận định: học thuyết Marx - Lenin đã thực sự đóng vai trò lý
“Ở Việt Nam, “Tuyên ngôn của đảng Cộng sản”(17) luận dẫn đường cho thắng lợi của cách mạng Việt
đã sớm được truyền bá rộng rãi. Nó đã thực sự trở Nam. Trong tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập, tác giả
thành ngọn đuốc soi đường cho giai cấp công nhân đã tổng kết cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân
và nhân dân lao động nước ta trong sự nghiệp đấu Pháp trong hơn 80 năm, việc chiếm đóng của phát
tranh giành độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã xít Nhật, quá trình nhân dân ta giành độc lập từ tay
hội” [3, tập 2, tr. 518]. Bản Tuyên ngôn của đảng phát xít Nhật và lật đổ chế độ phong kiến (“những
Cộng sản hàm chứa học thuyết của Lênin về đấu con đường cách mạng lật đổ chế độ bóc lột” là tôn
tranh lật đổ chế độ bóc lột bằng sức mạnh đoàn kết chỉ của chủ nghĩa Marx - Lenin, theo chú thích 15).
dân tộc. Đó là sự bền bỉ, lòng quả cảm đấu tranh của Trong thắng lợi vĩ đại đó có vai trò quan trọng, quyết
toàn dân tộc. Dân tộc đã thức nhận tự do, căm thù định của đảng Cộng sản Việt Nam, Lãnh tụ Hồ Chí
tội ác, chiến đấu dưới sự lãnh đạo của đảng. Thực tế Minh và mặt trận Việt Minh(18) dưới ánh sáng soi
đó là sự vận dụng phù hợp đường lối đấu tranh của đường là chủ nghĩa Marx - Lenin. Tác giả dành
Lênin vào cách mạng Việt Nam. Tháng 7/1920, đọc tình cảm trân trọng khi viết về tổ chức Việt Minh:
bản Sơ thảo lần thứ nhất ““Luận cương về vấn đề “Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã
dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V. I. Lenin (1870- kêu gọi người Pháp chống Nhật… Sau cuộc biến
1924), Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều
nước, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách đô hộ người Pháp...”. Ngay cả khi chủ ngữ của các câu
của thực dân Pháp. Trong lần trả lời phỏng vấn của văn trong tác phẩm được thay đổi là đồng bào ta,
báo L’Unità ngày 15/3/1924, Nguyễn Ái Quốc nói: nhân dân cả nước ta, dân ta… [1. tr. 40] thì người
““Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc tiếp nhận tác phẩm cũng cần hiểu cách mạng tháng
địa” của Lênin đã đặt nền tảng cho việc giải quyết Tám do mặt trận Việt Minh tiến hành. Như vậy,
106
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
Hồ Chí Minh - hậu bối của những nhà cách mạng Hồ Chí Minh đã vận dụng vào thực tế Việt Nam
nổi tiếng K. Marx, F. Engels, V. I. Lenin; người một cách sáng tạo, đặt thành những trụ cột vững
học sinh ưu tú của chủ nghĩa Marx - Lenin - đã vận chắc làm nền tảng trong thắng lợi của cách mạng
dụng sáng tạo thành công hệ thống học thuyết này tháng Tám và trong toàn cuộc đấu tranh giành độc
trong điều kiện cụ thể Việt Nam, làm nên thắng lợi lập của dân tộc ta; đúng như lời nhận xét của Lê
của cách mạng tháng Tám, khai sinh nhà nước Việt Thị Tình - nhà nghiên cứu lịch sử đảng Cộng sản
Nam Dân chủ Cộng hòa đầu tiên ở Đông Nam Á. Việt Nam: “Chính những chủ trương, đường lối
Không chỉ tiếp thu tinh hoa tư tưởng phương cách mạng dân chủ trong chủ nghĩa Tam dân của
Tây; Hồ Chí Minh còn tiếp nhận tích cực các học Tôn Trung Sơn đã có tác dụng thúc đẩy và mang
thuyết tôn giáo, chính trị của những nhà tư tưởng, lại cho phong trào cách mạng Việt Nam một màu
cách mạng phương Đông như: Khổng Tử, Mạnh sắc mới, làm phong phú thêm trang sử đấu tranh
Tử, Tôn Dật Tiên (tức Tôn Trung Sơn)(19). Chủ giải phóng dân tộc của Việt Nam những năm đầu
nghĩa Tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, thế kỷ XX” [7, tr. 70].
dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn (1866-
1925) là một cương lĩnh chính trị chủ trương phản
3. Kết luận
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh kết
đối chủ nghĩa đế quốc, quân phiệt câu kết với xâm tinh truyền thống lịch sử kiên cường bất khuất của
lược; học thuyết này nhằm xây dựng, khai sáng cho dân tộc ta; là bản anh hùng ca mở ra kỷ nguyên
người dân Trung Hoa, biến Trung Hoa thành một mới cho đất nước Việt Nam - độc lập, tự do, hạnh
(20)
quốc gia độc lập, phồn vinh . “Người tiếp thu một phúc. Tác phẩm hấp dẫn, thuyết phục bởi những
cách có chọn lọc, sáng tạo những mặt tiến bộ của giá trị cao sâu, đa diện: vừa mang tính thời sự vừa
chủ nghĩa Tam dân và áp dụng thành công chúng mang tính vĩnh cửu, là tác phẩm văn học - lịch sử
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, coi trọng vấn và là văn kiện chính trị - tư tưởng. Bản tuyên ngôn
đề độc lập dân tộc nhưng tùy theo từng hoàn cảnh hội tụ tinh hoa văn hóa dân tộc và văn minh nhân
cụ thể mà nhấn mạnh và đặt nó lên vị trí hàng đầu. loại. Tác phẩm tỏa sáng lòng yêu nước, tự tôn dân
Độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của tộc ở thời khắc Việt Nam vững vàng vị thế một
nhân dân. Đó là điểm sáng tạo vĩ đại của Hồ Chí quốc gia vừa giành được độc lập, tự chủ sau đêm
Minh” [7, tr. 68]. Chủ nghĩa Tam dân được thể hiện trường nô lệ tăm tối bi thương. Tuyên ngôn Độc
khá tập trung, xuyên suốt trong Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực; tính chất luận
lập. Trong tác phẩm, các cụm từ như: đồng bào cả thuyết cô kết, xâu chuỗi của hệ ý thức tư tưởng
nước, đồng bào ta, nhân dân ta, dân ta, toàn dân Việt Nam trong giá trị văn hóa truyền thống và
Việt Nam, một dân tộc, dân tộc ta, nước ta, nước hiện đại, hòa kết cùng tinh hoa văn minh nhân
nhà của ta, nhân dân cả nước ta, nòi giống ta… loại đã nâng cao giá trị tuyệt đối và tính vĩnh hằng
được dùng trang trọng, lặp lại nhiều lần. Điều này của bản tuyên ngôn. Tuyên ngôn Độc lập không
cho thấy tác giả Hồ Chí Minh có chủ ý nhấn mạnh chỉ là tác phẩm văn học vô giá của tác giả Hồ Chí
đối tượng dân tộc, nhân dân Việt Nam - chủ nhân Minh và văn học Việt Nam mà còn đạt được vị trí
của đất nước Việt Nam phải được thụ hưởng các xứng đáng trong nền học thuật hiện đại của lịch
quyền con người: được sống, tự do, bình đẳng, mưu sử, chính trị thế giới./.
cầu hạnh phúc; chủ thể tranh đấu giành độc lập cho
đất nước, tự do cho dân tộc; chủ thể tuyên bố độc
lập tự chủ; chủ thể quyết tâm cao độ bảo vệ nền
độc lập vừa giành được. Đặt trong bối cảnh lịch sử
cận - hiện đại; tư tưởng trong chủ nghĩa Tam dân
của Tôn Trung Sơn đã được nghiên cứu, truyền bá
sâu rộng ở Trung Hoa. Như Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh…; Hồ Chí Minh khẳng định có chịu ảnh
hưởng của tư tưởng này (xem chú thích 19). Điều
đáng nói hơn nữa, khi tiếp nhận chủ nghĩa Tam dân;
Chú thích:
(1) “… người ta đã biến 10 vạn người An Nam thành
những người “tình nguyện” bênh vực cho chính nghĩa,
cho công lý… Trong số đó, 51.000 làm việc chế thuốc
súng, đào hầm, vận chuyển, cứu thương và làm nhiều
việc khác nữa; 49.000 ra mặt trận ở Pháp, ở Xalôních
và Xibêri; 20.000 đã chết” [3, tập 1, tr. 345].
(2) Boches: tiếng tục, có ý khinh bỉ; lúc đó người Pháp
thường dùng để chỉ những gì thuộc về quân Đức, người
Đức, đồ dùng của Đức…
107
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
(3)
Hội nghị Tê-hê-răng: hội nghị của đại diện ba ASEAN khác, mở ra một trang sử mới của khu vực: Việt
nước: Liên Xô, Mỹ, Anh họp từ 28/11 đến 01/12/1943 Nam chính thức là thành viên thứ 7 của ASEAN. Nghị
tại Tê-hê- răng (thủ đô nước I-ran) thông qua kế hoạch định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO - Tổ chức
Thương mại Thế giới (tên tiếng Anh là World Trade
Organization) - của Việt Nam, được ký tại Geneva ngày
7/11/2006, có hiệu lực từ ngày 11/1/2007 và Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên của
WTO từ 11/1/2007.
tiêu diệt phát xít, quyết mở mặt trận thứ hai ở châu Âu
trước ngày 01/5/1944 và thông qua nghị quyết đảm bảo
nền hòa bình lâu dài trên toàn thế giới sau chiến tranh…
Nhưng sau đó, giới cầm quyềnAnh, Mỹ không thi hành
triệt để những điều khoản đã ký kết trong hội nghị này.
(4) Hội nghị Cựu Kim Sơn: hội nghị của đại diện 50
nước họp tại Cựu Kim Sơn (Xan Phran-xi-cô, Mỹ), từ
ngày 25/4/1945 đến ngày 26/6/1945 để thành lập một
tổ chức quốc tế gọi là Liên hợp quốc.
(14) Văn bản Tuyên ngôn Độc lập trong sách Ngữ văn
12 do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn (chương trình
cơ bản, nâng cao) do NXB Giáo dục TPHCM ấn hành
(2008) và trong Hồ Chí Minh toàn tập [3, tập 3, tr. 555]
- cả 3 bộ sách này đều ghi bản Tuyên ngôn Nhân quyền
và Dân quyền của cách mạng Pháp ra đời năm 1791;
trong khi chú thích số 33 của các tác giả xây dựng bản
thảo Hồ Chí Minh toàn tập [3, tập 3, tr. 630] và lịch sử
Pháp ghi nhận là năm 1789. Năm ra đời chính xác của
bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách
mạng Pháp là năm 1789. Tác giả bài báo đã sửa thành
năm 1789 nhằm bảo đảm tính khoa học. (Xem thêm
chú thích số 15).
(15) Tháng 7/1789, làn sóng cách mạng nổ ra mạnh
mẽ, Quốc hội lập hiến của Pháp cân nhắc đảm bảo quyền
công dân, quyền con người, tiến tới thảo luận ban hành
văn bản pháp quy. Quốc hội thành lập một ủy ban soạn
thảo dự luật Nhân quyền. Ngày 26/8/1789, Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp được
công bố.
(16) A. M. Rumiantxép (1986), Từ điển Chủ nghĩa
Cộng sản khoa học (bản tiếng Nga), NXB Tiến bộ,
Matxcơva. (bảndịchtiếngViệtcủaNXBSựthật, HàNội).
(17) Tuyên ngôn của đảng Cộng sản là tác phẩm do K.
Marx, F. Engels biên soạn (từ tháng 12/1847 đến tháng
1/1848) “đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa Cộng sản
khoa học. Nó đã trình bày một cách hoàn chỉnh và có
hệ thống (Lênin) học thuyết về chủ nghĩa Xã hội khoa
học của C. Mác. Nó là cương lĩnh chiến đấu của giai
cấp vô sản toàn thế giới…” [3, tập 2, tr. 517-517].
(18) “Việt Nam Độc lập Đồng minh” (gọi tắt là Việt
Minh) chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân
dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức
đoàn kết lại, chiến đấu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, phát
xít Nhật, giành độc lập cho nước Việt Nam [3, tập 3,
tr. 583]. Việt Minh là một liên minh chính trị do Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc thành lập ngày
19/5/1941.
(5)
Tuyên bố của Tổng thống Harry S. Truman
(Mỹ) khi tiếp tướng De Gaulle (Pháp) tại Nhà Trắng
(24/8/1945).
(6) Thi Long (2001), Nhà Nguyễn chín chúa mười ba
vua, tr. 198, NXB Đà Nẵng, TPHCM.
(7) Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (nửa cuối
thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX), tr. 608, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
(8) Trung tâm nghiên cứu Quốc học (2004), Ngô Thì
Nhậm - tác phẩm (Tập 1), NXB Văn học, TPHCM.
(9)Giữa thập niên 30 của thế kỷ XX, phe Trục nổi
lên từ những nỗ lực ngoại giao của Đức, Ý, Nhật nhằm
đảm bảo những quyền lợi cụ thể của họ trong việc bành
trướng lãnh thổ. Khởi đầu là hiệp ước giữa Đức - Ý được
ký vào tháng 10/1936. Đến 1/11/1936, Mussolini tuyên
bố kể từ thời điểm đó tất cả các nước châu Âu khác sẽ
quay quanh trục Rome-Berlin, đây là nguồn gốc của
tên gọi “phe Trục”.
(10) Holocaust (từ tiếng Hy Lạp: ὁλόκαυστος
holókaustos: hólos nghĩa là “toàn bộ” và kaustós nghĩa
là “thiêu đốt”). Thuật ngữ này còn được biết đến với
tên gọi Shoah (tiếng Hebrew:
האושה
, HaShoah nghĩa là “thảm họa lớn”), là một cuộc diệt chủng do Đức Quốc
xã cùng bè phái tiến hành.
(11) Tháng 9/1941, quân độiAnh và Liên Xô đã chiếm
đóng lãnh thổ Iran. Sự kiện Anh và Liên Xô tấn công
Iran là một cuộc tấn công của phe Đồng minh (bao gồm
Hồng quân Liên Xô, quân đội vương quốc Anh cùng
các lực lượng thuộc khối thịnh vượng chung Anh) vào
Iran dưới triều đại Pahlavi trong chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Chiến sự diễn ra từ ngày 25/8/1941 đến ngày
17/9/1941 với mật danh là chiến dịch “Countenance”.
(12) Câu nói của GS. Louis D. Brandeis (người Mỹ).
(13) Ngày 28/7/1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan
(19) Tổng kết hơn 30 năm tiếp thu các học thuyết, trào
(nước Brunei Darussalam); trong tiếng Quốc ca; Quốc lưu tư tưởng của mình; Hồ Chí Minh đúc kết: “Học
kỳ Việt Nam tung bay cùng Quốc kỳ của 6 thành viên thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo
108
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 38 (06-2019)
đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng nhân
(20) Tôn Trung Sơn thuyết giải với người dân Trung
ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp Quốc: “Nếu chúng ta không lưu tâm đề xướng chủ
biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính nghĩa Dân tộc, kết hợp 400 triệu người thành một dân
sách phù hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, tộc kiên cố, Trung Quốc sẽ có nguy cơ mất nước, diệt
Mác, Tôn Dật Tiên đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho chủng. Muốn cứu nguy, chúng ta phải đề xướng chủ
loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Họ chẳng phải có nghĩa Dân tộc, dùng tinh thần dân tộc để cứu nước.
những điểm chung đó sao?… Tôi cố gắng làm người Chủ nghĩa Dân tộc như một bảo bối giúp một quốc gia
học trò nhỏ của các vị ấy”. (Tạp chí Xây dựng Đảng, phát triển và một dân tộc sinh tồn”.
ngày 20/11/2013).
Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Ngữ văn 12 (tập 1), NXB Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2]. Declaration of Independence (1776) - The Unanimous Declaration of the thirteen United States
[3]. Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh toàn tập (12 tập), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4]. National Assembly of France (1789), Declaration of the Rights of Man and of the Citizen,
[5]. Nhiều tác giả (1997), Hồ Chí Minh, tác gia, tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
[6]. Nguyễn Ái Quốc (1975), Bản án chế độ thực dân Pháp, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[7]. Lê Thị Tình (2015), “Ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Tam dân đối với Hồ Chí
Minh”, Khoa học xã hội Việt Nam, số 8 (93) - 2015, tr. 64-70.
CULTURAL QUINTESSENCE OF NATION AND MANKIND IN
HO CHI MINH’S DECLARATION OF INDEPENDENCE
Summary
Ho Chi Minh’s Declaration of Independence is an important political work in modern Vietnam
literature that has been taught in high schools for many years. Such issues as human rights, national
rights, argumental methods, political styles have been mentioned quite clearly; however, ideological and
cultural values should be further addressed. In terms of culture and ideology, this declaration contains
the cultural quintessence of nation and mankind. The nation’s cultural quintessence in the Declaration
is expressed in the fighting spirits for the country’ independence, the people’s freedom; humanism and
international cooperation up to justice and civilization. The mankind’s cultural quintessence is stemmed
from the ideas inherent in The American Declaration of Independence (1776), The French Declaration
of the Human Rights and Citizenship (1789), Socialism by Marx - Lenin and the Three Principles of the
People by Ton Trung Son. This paper is aimed to address these issues.
Keywords: Declaration of Independence, Ho Chi Minh, nation’s cultural quintessence, mankind’s
cultural quintessence.
Ngày nhận bài: 13/11/2008; Ngày nhận lại: 27/12/2018; Ngày duyệt đăng: 13/5/2019.
109
Bạn đang xem tài liệu "Tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tinh_hoa_van_hoa_dan_toc_va_nhan_loai_trong_tuyen_ngon_doc_l.pdf