Vẻ đẹp quê hương đất nước và phong tục tập quán qua tản văn Việt Nam hiện đại

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
VẺ ĐẸP QUÊ HƢƠNG ĐẤT NƢỚC VÀ PHONG TỤC TẬP QUÁN  
QUA TẢN VĂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI  
NCS. Nguyễn Thị 1  
Tóm tắt: Tản văn Việt Nam hiện đại (tính từ thế kỷ 20 cho đến nay) đã đạt được những  
thành tựu nhất định và có thể khái quát tập trung với các xu hướng như sau: 1- Tản văn ca  
ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước; 2- Tản văn đi vào phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của  
dân tộc; 3- Tản văn khai thác các vấn đề mang tính xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng; 4-  
Tản văn đi vào các vấn đề văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, theo sự phát triển của thời gian, cùng  
với đội ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, đề tài của tản văn ngày càng được mở rộng phong  
phú, đa dạng và mới mẻ hơn. Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu vào đề tài ca ngợi vẻ đẹp quê  
hương và phong tục tập quán dân tộc của tản văn Việt Nam hiện đại.  
Từ khóa:Tản văn Việt Nam hiện đại, vẻ đẹp quê hương đất nước, phong tục tập quán.  
I. Đặt vấn đề  
Tản văn là thể loại văn học có mặt ngay từ những chặng đầu của nền văn học hiện đại  
Việt Nam. Từ thập kỉ thứ hai của thế kỷ 20, các sáng tác của Tản Đà, Nguyễn Văn Vĩnh,  
Nguyễn Bá Trác, Đạm Phương... đã được độc giả yêu thích và đón nhận như nhiều thể loại  
văn xuôi hiện đại khác. Tản văn xuất hiện sớm và đã có những bước phát triển ghi dấu ấn  
trong đời sống văn học, góp phần quan trọng trong việc tạo nên diện mạo và thành tựu phong  
phú của nền văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Cả trên bình diện lý thuyết và thực tiễn  
nghiên cứu văn học đều cho thấy, cho tới nay, giới nghiên cứu vẫn chưa thực sự quan tâm đến  
thể loại này, thậm chí, theo GS. Trần Đình Sử, tản văn là thể loại hầu như bị quên lãng suốt cả  
một thế kỉ - thế kỉ 20. Tuy nhiên, đến nay, tản văn ngày càng khẳng định được vai trò, vị thế  
riêng của mình. Không chỉ là một thể loại “quen thuộc” với người đọc mà tản văn còn đi sâu  
vào những vấn đề của đời sống và con người đương đại. Trong đó, vẻ đẹp quê hương và  
phong tục tập quán dân tộc là một chủ đề lớn được các nhà văn bộc lộ trực diện và thẳng thắn  
dưới góc độ đa chiều.  
II. Nội dung  
1. Khái quát về tản văn Việt Nam hiện đại  
Từ sau chiến thắng mùa xuân 1975, lịch sử văn học nước ta đã có sự thay đổi trong mọi  
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng phải chờ đến đại hội VI (1986) mới trở thành yêu cầu bức  
thiết, có ý nghĩa sống còn của đất nước. Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 28/11/1987 của Bộ  
Chính trị về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa,  
phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”  
là Nghị quyết duy nhất dành riêng cho văn nghệ, mở ra một cách nhìn mới, hướng đi mới cho  
văn học nghệ thuật. Ở thời điểm ấy, văn học cũng đã dần tự biến đổi mình để có thêm những  
tác giả, tác phẩm mới với những đặc điểm về phong cách và nội dung khác với thời kỳ trước.  
1 Khoa Luật và Quản lý nhà nước - Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa  
53  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Bước sang thế kỷ 21, xã hội có nhiều biến chuyển, đặc biệt là sau năm 1986, từ sự biến  
đổi văn hóa, chính trị đã kéo theo sự vận động chuyển mình của văn học nói chung và thể loại  
tản văn nói riêng. Thời điểm này đã đánh dấu một thời kỳ mới trong văn học Việt Nam hiện đại.  
Tính chất đổi mới của văn học dĩ nhiên không chỉ ở vấn đề số lượng sách báo được in ra vượt  
trội mà chính là ở cảm hứng mới về hiện thực, quan niệm mới về con người.  
Cùng với sự phát triển của công nghệ truyền thông thông tin, báo chí, in ấn, Internet,  
xuất bản… đã tạo điều kiện cho tản văn bùng nổ với sự xuất hiện của hàng loạt nhà văn kể cả  
tác giả chuyên nghiệp và không chuyên. Điều đặc biệt, về sự xuất hiện của tản văn đó là tản  
văn không chỉ xuất hiện với hình thức in thành sách của các nhà xuất bản mà tản văn còn xuất  
hiện dày đặc trên báo chí (Báo Văn nghệ, Báo Người lao động, Tạp chí Thanh Niên..). Thậm  
chí, trên các trang địa phương cũng có mục dành riêng cho tản văn, hay một số báo dành riêng  
cho lứa tuổi thanh thiếu niên (Báo Thiếu niên Tiền phong, Báo Hoa học trò...) và nhiều  
Website dành vị trí nhất định để đưa tản văn đến với bạn đọc như: quehuongonline.vn;  
tapchisonghuong.com.vn...  
Có thể nói, trong thời đại không thật dư dả thời gian đọc, chưa nói đến văn hóa đọc hiện  
nay còn nhiều điều đáng bàn thì tản văn với khả năng phục vụ nhanh và khéo léo cho mọi đối  
tượng đã hút vào mình một lượng công chúng rộng rãi, đa dạng thành phần và có hẳn những  
lớp độc giả trung thành. Đúng như tác giả Nguyễn Việt Hà thừa nhận “ngày hôm nay, số  
người mua và đọc tạp văn thường đông hơn hẳn số người mua và đọc tiểu thuyết”. Thực tế  
này “nên lo hay mừng” chưa vội bàn nhưng ít nhất, nó khẳng định tản văn đã thắng lớn trên  
một thị trường văn học mà văn học dịch/văn học nước ngoài đang chiếm thế thượng phong và  
đi sâu trong hầu hết các cuộc đọc bài bản, kĩ lưỡng.  
Tản văn trong những năm gần đây bắt đầu nhận được sự quan tâm của giới chuyên môn.  
Từ đầu thế kỉ 21 trở đi, “tản văn Việt Nam hiện đại - một thể loại bị lãng quên” (Trần Đình  
Sử) đang có sự hồi sinh, “đổ bộ” vào các hiệu sách, thư viện, trang mạng như đây là “thời”  
của mình. Tuy về chất lượng sáng tác còn nhiều điều đáng bàn nhưng về mặt số lượng, đội  
ngũ sáng tác có dấu hiệu vượt trội, nhiều cây bút đã gây dựng được tên tuổi, góp phần làm  
nên diện mạo mới của văn chương Việt Nam.  
Tản văn, tạp văn, tùy bút hay đoản văn trước đây xuất hiện lác đác, nhưng trong một  
thập kỷ trở lại đây, thể loại này ngày càng xuất hiện đều đặn trên các chuyên mục “đinh” của  
nhiều tờ báo, tạp chí với những mẩu chuyện nhỏ, luận đàm mang tính thời sự; dần dần, tản  
văn nổi lên như một hiện tượng của dòng chảy văn học đương đại. Thật khó có thể thống kê  
đầy đủ số lượng các tác phẩm tản văn xuất hiện trong giai đoạn này. Bởi nhiều tuyển tập tản  
văn được in sách ra mắt bạn đọc thì có nhiều tác giả lựa chọn các kênh truyền tải thông tin  
khác nhau. Từ năm 2010 đến hết tháng 6/2015, riêng Nxb Trẻ đã có 62 tựa sách tản văn.  
Trong đó, tính riêng 6 tháng đầu năm, Nxb Trẻ đã in tổng cộng 18 tựa sách thuộc thể loại này,  
với 32.000 bản được ấn hành ở Hà Nội. Nhiều báo, tạp chí có chuyên mục tản văn hoặc đăng  
nhiều tản văn. Có thể kể đến các báo, tạp chí như Thanh niên, Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Người  
lao động, Giáo dục và thời đại, Đại đoàn kết, Văn nghệ Quân đội, Hà Nội mới cuối tuần...  
54  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Chưa kể là các báo, tạp chí dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên, báo giấy, báo mạng, trên các  
trang cá nhân, trên các kênh truyền hình, phát thanh...  
Tản văn là thể văn dễ đọc nhưng không dễ viết. Nhiều nhà văn Việt Nam đã thành danh  
ở các thể loại thơ, tiểu thuyết hay truyện ngắn vẫn không ngại ngần tìm đến tản văn. Hầu như  
các loại hình báo chí đều dành một phần “diện tích” vừa đủ cho sự xuất hiện một tác phẩm tản  
văn. Dường như với sự kiệm lời mà vẫn chuyển tải những vấn đề có ý nghĩa thời sự và nhân  
văn, tản văn đã điểm trúng vào thị hiếu thẩm mỹ của người đọc hôm nay. Người đọc không  
khỏi ngạc nhiên đến vui mừng khi các cây bút chuyên nghiệp lẫn các gương mặt mới đều  
chứng tỏ nội lực sáng tạo và gây ấn tượng với người đọc, bởi sự phong phú về đề tài và đa  
dạng trong diễn ngôn của họ ở địa hạt tản văn. Có thể kể đến các tác giả: Trần Nhã Thụy với  
Cuộc đời vui quá, không buồn được (Nxb Phụ nữ, 2009) Triều cường, chân ngắn, rau sạch  
(Nxb Trẻ, 2014); Nguyễn Vĩnh Nguyên với Tivi, xe máy, nhạc chế, karaoke, tăm xỉa răng và  
những thứ khác (Nxb Lao động, 2012) và Những đồ vật trò chuyện cùng ta (Nxb Trẻ, 2014);  
Nguyễn Ngọc Tư với Yêu người ngóng núi (Nxb Trẻ, 2009); Nguyễn Nhật Ánh với Người  
Quảng đi ăn mỳ Quảng (Nxb Trẻ, 2011), Sương khói quê nhà (Nxb Trẻ, 2012) và Thương nhớ  
Trà Long (Nxb Trẻ, 2014); Đỗ Bích Thúy với Trên căn gác áp mái (Nxb Phụ nữ, 2011) và  
Đến độ hoa vàng (Nxb Văn học, 2013); Hoàng Việt Hằng với Tiêu gì cho thời gian để sống  
(Nxb Trẻ, 2014); Huỳnh Như Phương với Ngôi nhà và con người (Nxb Văn nghệ Tp Hồ Chí  
Minh, 2006) và Bây giờ mà có về quê (Nxb Phụ nữ, 2011); Y Phương với Tháng giêng, tháng  
giêng, một vòng dao quắm (Nxb Phụ nữ, 2009); Nguyễn Việt Hà với Con giai phố cổ (Nxb  
Trẻ, 2013); Đỗ Phấn với Hà Nội thì không có tuyết (Nxb Trẻ, 2013)…  
Do vậy, phải thừa nhận rằng tản văn góp phần đáng kể vào việc dân chủ hóa nền văn  
học. Thứ nhất, nó trở thành một thể loại năng động, đa dạng về số lượng, chất lượng và nhiều  
thành tựu trong nền văn học Việt Nam hiện/đương đại. Thứ hai, nó đã chứng tỏ là một thể loại  
gần gũi nhất, áp sát nhất vào đời sống thế tục nhưng vẫn đảm bảo tính nghệ thuật… Thứ ba,  
nó đã kiến tạo được một thứ ngôn ngữ tươi mới, sống động. Theo đó, thứ tư, chính là giọng  
điệu, một giọng điệu đa dạng, hết sức cá tính, riêng biệt trên một nền chung. Tản văn đã, đang  
xác định một giọng điệu riêng, độc đáo. Tản văn đã thực sự khẳng định được chỗ đứng vững  
chắc với tư cách là một thể loại trong nền văn học Việt Nam hiện/đương đại. Nó đã có một  
lịch sử của chính nó, có vị trí văn học sử thực sự, không thua kém bất cứ thể loại văn học nào.  
2. Vẻ đẹp quê hƣơng, đất nƣớc và phong tục tập quán qua tản văn Việt Nam hiện đại  
2.1. Tản văn ca ngợi vẻ đẹp quê hương, đất nước Việt Nam  
Quê hương đất nước chính là đề tài quen thuộc trong văn học, nhưng với riêng tản văn, đề  
tài này chiếm số lượng tác phẩm nhiều hơn cả. Các tác phẩm tản văn Việt Nam hiện đại đã đi  
sâu phản ánh vẻ đẹp bình dị, dân dã, quen thuộc trên khắp các vùng miền quê hương đất Việt.  
Trước hết, cảnh đẹp quê hương đất nước đi vào tản văn với những nét đặc trưng tạo nên  
vẻ đẹp đa dạng, muôn màu của đất nước, non sông. Nổi bật ở mảng đề tài này là các tản văn  
viết về đề tài đô thị, trong đó, Hà Nội vẫn là trái tim của cả nước. Với tên tuổi của các tác giả:  
Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Hoàng Việt Hằng, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Quang Thiều...  
các tác giả đi sâu vào việc khắc họa kí ức về vẻ đẹp ngàn năm văn hiến của Hà Nội xưa; vẻ  
55  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
đẹp đời sống đô thị trong thời kì đổi mới; vẻ đẹp mùa thu thơ mộng và lãng mạn đã trở thành  
đặc trưng đi vào lòng người của riêng Hà Nội; Sự cô đơn của con người giữa đô thị hiện đại  
và nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc... Nguyễn Ngọc Tiến với các tản văn “5678 bước chân  
quanh Hồ Gươm”, “Đi dọc Hà Nội”, “Đi ngang Hà Nội’, “Đi xuyên Hà Nội” đã tái hiện Hà  
Nội với nhiều góc cạnh qua những thăng trầm lịch sử với những thú chơi hay phong tục của  
thời trước. Nguyễn Việt Hà với “Con giai phố cổ” mang đậm nét đặc sắc riêng, độc đáo của  
một nhóm người tiêu biểu cho lớp thế hệ xưa từng sinh sống ở Hà Nội. Nguyễn Trương Quý  
là đại diện cho người trẻ sáng tác về Hà Nội với cách nhìn nhận mới có sự khác biệt tương đối  
với các tác giả khác. Dù sao, cách nhìn của người trẻ vẫn luôn đổi mới và thú vị theo “cá tính”  
thời gian. Mỗi tên tựa là một khám phá, rất thời sự, dí dỏm, trần trụi nhưng không hề thiếu  
chất lãng mạn của tản văn Nguyễn Trương Quý: “Tự nhiên như người Hà Nội”, “Hà Nội  
là Hà Nội”, “Ăn phở rất khó thấy ngon”. Hay Đỗ Phấn với các tập tản văn: Chuyện vãn  
trước gương (2005), Ông ngoại hay cười (2011), Phượng ơi (2012), Hà Nội thì không có tuyết  
(2013)... Trong cảm nhận của cá nhân tác giả, Hà Nội còn là sự giằng co giữa ý thức truyền  
thống và đổi mới, không ít người cảm thấy lạc lõng giữa nơi mình đang sinh sống. Nguyễn  
Bảo Sinh với “Bát phố” là sự pha trộn giữa tản văn và tiểu thuyết, viết về Hà Nội từ một góc  
nhìn vừa mang nét riêng tư, vừa khái quát “đến nỗi những người Hà Nội cùng thế hệ đọc đều  
gật gù”. Băng Sơn với “Hà Nội rong ruổi quẩn quanh” gồm 33 bài tản văn viết về Hà Nội,  
thể hiện cách nhìn và cách yêu Hà Nội mang dấu ấn riêng tác giả. Chúng ta như được cùng  
nhà văn khám phá Hà Nội, một Hà Nội của cả quá khứ và hiện tại, một Hà Nội thanh lịch,  
trầm mặc và nhộn nhịp sầm uất. Viết về Hà Nội, còn có nhiều tác giả với hai cuốn: “Làng -  
ngõ, vỉa hè” Hàng rong phố cổ”. Tập hợp những bài tản văn về Hà Nội mang nét rất  
riêng, đưa người đọc đến với vùng đất Hà Nội xưa và nay, để hiểu thêm về văn hóa và con  
người nơi đây... Gần đây nhất là ngày 15/3/2016, nhạc sĩ Việt kiều Mai Lâm ra mắt ba tập tản  
văn “Từ xa Hà Nội”, “Xa rồi ngày xanh”, “Chỉ còn tuyết trắng”, đó là sự lưu luyến, day dứt  
của người thương nhớ Hà Nội khôn nguôi. Trong mỗi câu chữ luôn thấp thoáng nỗi buồn lạc  
lõng, dù ở quê nhà hay xứ người.  
Tản văn viết về Sài Gòn cũng không kém phần sôi nổi. Chỉ riêng cuối năm 2013 và  
những tháng đầu năm 2014 đã có hàng loạt tản văn mới. Bộ ba cuốn mang tên chung Sài Gòn  
tạp văn bao gồm: “Sài Gòn sau màn bụi”, “Ngon vì nhớ”, “Hẻm phố thông ra thế giới” là  
những lát cắt văn chương và cuộc đời chốn đô thị của những cây bút gắn bó với Sài Gòn.  
Không chỉ là câu chuyện về món ăn, thức uống, một chỗ ngồi, một con phố, tên người... tản  
văn về Sài Gòn diễn dịch lại chính mình trong hình dung của thành phố bao dung. Đàm Hà  
Phú với “Sài Gòn bao nhớ” là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết của tác giả xung quanh đề tài  
tính cách của con người Sài Gòn. Bằng những mẩu chuyện thú vị, ấm áp về những con người  
Sài Gòn bình thường, có thật, nhà văn khắc họa sinh động và sâu sắc tính cách Sài Gòn: giản  
dị, hào sảng, nghĩa khí; “Những lối về ấu thơlà tập tản văn đầy cảm xúc của một thời thơ trẻ  
về một Sài Gòn cũ kỹ đã xa; “Chuyện nhỏ Sài Gòn” diễn tả tình cảm yêu thương mảnh đất  
này thật mơ hồ mà mãnh liệt đến ngạt thở của Đàm Hà Phú. Khải Đơn với tập tản văn “Sài  
Gòn - Thị thành hoang dại” viết về Sài Gòn, về những người nhập cư đã rời xa quê hương để  
56  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
đi tìm một “miền đất hứa”. Họ thắp lửa trong tim, mang vào thành phố với những số phận  
khác nhau nhưng thể hiện tình yêu và sức mạnh của mình với Sài Gòn. Tập tản văn “Sài Gòn  
cứ vội” của hai tác giả trẻ Tử An và Ngọc Hoài Nhân đưa bạn đọc tới một Sài Gòn vừa sôi  
động, tình cảm, lại vừa trầm lắng, bâng khuâng. Hay “Sài Gòn - Chuyện đời” của Phạm Công  
Luận gồm 36 bài viết về những câu chuyện gợi nhớ một Sài Gòn xưa: Con đường ký ức, Hồn  
đô thị, Nhà cổ ven đường, Tìm lại giấc mơ xưa, Nhiếp ảnh gia của nghệ sĩ Sài Gòn, Bản hợp  
ca Thăng Long, Một cuộc thi hoa hậu, Giai nhân một thuở... Với sự tò mò cố hữu và kinh  
nghiệm 30 năm làm báo, tác giả đã ghi lại được nhiều câu chuyện thú vị. MC Tùng Leo với  
“Tìm nhau giữa Sài Gòn” mang cái nhìn về thời cuộc, lối sống của giới trẻ đô thị. Không tả  
thực đơn thuần về cảnh sắc và con người của Sài Gòn, những bài viết ngắn giàu cảm xúc, dễ  
đi vào lòng người của Tùng Leo về tình yêu, những chuyến đi, những gì mình yêu thích, cho  
độc giả thấy không gian chứng kiến những biến động trong cuộc sống của MC tài năng này.  
Phong vị của Sài Gòn hiện lên một cách rất tự nhiên và thấm sâu, bắt nhịp rất đồng điệu với  
các hoạt động sôi động đang diễn ra ở Sài Gòn. Sài Gòn chữ vội trên vai của tác giả Vũ Minh  
Đức ra mắt tháng 7/2016 là một tản văn khá nhẹ nhàng, nhưng từng mẩu chuyện, từng câu  
chữ cũng đã phần nào chạm đến được cảm xúc của những người đã và đang sống, đang được  
thở hơi thở của Sài Gòn. Với 30 tản văn viết về Sài Gòn và những câu chuyện đời thường. 30  
tản văn như 30 thông điệp gửi đến bạn đọc cho 30 ngày của một tháng, tác giả chỉ mong  
muốn mọi người hãy sống chậm lại một chút giữa Sài Gòn vội vã này để cảm nhận cuộc sống  
quanh mình đẹp hơn, để cùng nhau sống tử tế và ý nghĩa hơn. Ngoài ra, còn có nhiều cây bút  
thành danh như: Huỳnh Như Phương, Lý Quý Chung, Trần Tiến Dũng, Huỳnh Ngọc Trảng,  
Quốc Bảo, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Võ Phi Hùng, Sue Hajdu, Dennis Coleman... tất cả đã tạo  
ra một dòng thời gian về Sài Gòn thật đặc sắc.  
Dọc theo chiều dài đất nước, tản văn viết về Huế cũng không kém phần mơ mộng, trầm  
tư và trữ tình. Huế với dòng sông Hương đẹp đến nao lòng đã đi vào tản văn của nhiều tác giả  
như một biểu tượng trường tồn của xứ Huế. Dòng sông ấy “mượt mà như dải lụa, lòng bời bời  
nỗi nhớ” (Ngạt ngào dòng Hương - Nguyễn Văn Dũng). Độc giả được về với xứ sở của tà áo  
dài Huế cùng những biểu tượng đẹp của xứ mộng mơ được đánh giá là catalogue bỏ túi hữu  
ích cho du khách trên những hành trình du lịch qua hai tập tản văn của nhiều tác giả gồm: “Áo  
bay khép mở nhiều tâm sự”, “Mộng mơ và ăn cay nói nặng”.  
Vẻ đẹp quê hương đất nước còn được phản ánh qua nét sinh hoạt của con người Việt  
Nam, đó là hương vị quê hương “Thoang thoảng hương cau - Phan Thị Thanh Ly”, là Hoa  
mướp vàng - Đức Huy, là Hoa nhãn - Nguyễn Tiến Bình, là Chan chát vị sung xanh - Song  
Hà... Tản văn cũng khai thác được đặc trưng của các vùng miền qua các món ăn đặc sản như:  
Khoai lang xứ Quảng - Phan Thị Thanh Ly, Rươi Đông Triều, bún tôm Uông Bí - Uông Triều,  
Cốm vòng - Ngọc Lành, Về Trùng Khánh mà nghe hạt dẻ - Y Phương...  
Với giọng điệu thiết tha, tự hào, các tác giả gửi gắm tình quê hương đất nước sâu sắc.  
Đặc biệt, ngày nay chứng kiến những thay đổi lớn về cuộc sống, môi trường thiên nhiên đang  
bị hủy hoại nghiêm trọng, tản văn khá tinh tế và nhạy cảm đã muốn gửi tới con người thông  
điệp cần phải có thái độ ứng xử đúng đắn và trân trọng với thiên nhiên. Bởi, thiên nhiên chính  
57  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
là “bản thể đậm chất người’ trong tâm thức sáng tạo của con người (“Có một kẻ rời bỏ thành  
phố”, “Trò chuyện về những cái cây đã chết”- Quang Thiều; “Phố và cây Hà Nội” - Hoàng  
Việt Hằng…).  
2.2. Tản văn ca ngợi phong tục tập quán Việt Nam  
Nói về phong tục tập quán của Việt Nam qua tản văn, các tác giả đề cập nhiều nhất đến  
phong tục về ngày tết. Đó là tục đầu năm đi lễ chùa, xin lộc với mong ước cầu may, tài lộc  
cho bản thân và gia đình “làm tôn lên vẻ đẹp văn hóa truyền thống của người Việt, mãi là một  
nét chấm phá lung linh trong mùa xuân của toàn dân tộc Việt Nam” (Lễ chùa, xin lộc đầu năm  
- Lam Điền); đó là biểu tượng về cây nêu ngày tết “trừ tà ma, một biểu tượng của cây vũ trụ,  
chuyên chở những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp” - Tản mạn về cây nêu - Trần Vân Hạc; Tc  
xông đất, nét đẹp văn hóa Việt - Hồng Hạnh hay tục đi chúc tết, tổ chức các trò chơi, lễ hội  
đầu năm... (Tản mạn về tết cổ truyền- Hoàng Trọng Muôn); tục viết câu đối và treo câu đối  
xuân (Tản mạn về câu đối Tết - Trần Phỏng Diều)...  
Tản văn viết về phong tục tập quán truyền thống nổi bật nhất với các tản văn của Y  
Phương - một phong cách riêng, độc đáo cho vùng văn hóa dân tộc miền núi. Là nhà thơ dân  
tộc Tày sinh ra và lớn lên ở Cao Bằng, Y Phương luôn cháy bỏng khát khao về cảnh sắc thiên  
nhiên và con người, cuộc sống của đồng bào người Tày. Với sự kết tinh bản sắc văn hóa Tày  
độc đáo, có sự giao thoa - tiếp biến với bản sắc văn hóa Việt đã mang lại một “hương sắc  
riêng” không thể lẫn với tản văn của các nhà văn khác. Bản sắc văn hóa Tày Nùng được thể  
hiện rõ nét trong tản văn Y Phương “Tháng giêng tháng giêng một vòng giao quắm”,  
“Kungfu người Co Xàu”. Thông qua các tản văn về trò chơi dân gian, ẩm thực, lễ hội truyền  
thống, phong tục ngày lễ tết... Y Phương đã giúp người đọc có cái nhìn bao quát về văn hóa  
tâm linh của con người miền núi nói chung, người Tày Nùng trên mảnh đất Trùng Khánh -  
Cao Bằng quê hương của ông nói riêng. Đọc tản văn của Y Phương người đọc thấy chất miền  
núi, chất Tày vẫn không bị mất đi mà kết hợp hài hòa lối tư duy hiện đại tạo nên những trang  
viết bình dị mà sâu lắng, thiết tha nghĩa tình thấm đượm. Y Phương không chỉ hiểu biết về  
cách thức tổ chức trong các lễ hội, phong tục mà trong chiều sâu văn hóa, ông đã thấy được ý  
nghĩa của nó đối với đời sống con người. Mỗi phong tục là một vẻ đẹp, đó là vẻ đẹp trong lối  
sống, tâm hồn của con người nơi đây. Y Phương nói về các phong tục trong ngày lễ, tết như:  
Mùa xuân vùng cao trong tản văn Y Phương là trò chơi dân gian qua tản văn “Đố bên nào  
ném thủng hồng tâm”, người Tày Nùng với tết Slip Sli, với hai món ăn không thể thiếu là  
bánh gai và thịt vịt (Tết Slip Sli ăn thịt vịt), hay Tết cốm vào tháng tám... Và các phong tục tập  
quán trên quê hương của mình như: Tục thăm gái đẻ (Dzương eng, tục thăm gái đẻ)... Y  
Phương dường như trở thành chuyên gia ẩm thực, hiểu tường tận về các món ăn đặc trưng của  
vùng núi Cao Bằng như: Phở chua, xôi ngũ sắc, vịt quay, xôi đen... Dấu ấn văn hóa tâm linh  
thể hiện rất đậm nét qua tản văn Y Phương, ông phản ánh lễ tết, tục thờ cúng của đồng bào  
dân tộc Tày Nùng với Thanh minh trong tiết tháng Ba hay Chuyện ma gà... Bằng giọng văn  
giản dị, mộc mạc, chân thực, mọi góc cạnh của đời sống văn hóa tâm linh đều được ông thể  
hiện chiều sâu văn hóa đậm nét văn hóa dân tộc.  
58  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Màu sắc văn hóa Nam Bộ cũng được khắc họa sắc nét trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư  
với Yêu người ngóng núi, Gáy thì người lạnh, Đong tấm lòng. Là một người con sinh ra và  
lớn lên trên mảnh đất quê hương Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư có một “không gian” văn hóa của  
riêng mình, như cội nguồn của mọi sáng tạo. Dấu ấn của không gian văn hóa Nam Bộ bao  
trùm trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, đó là hiện thực cuộc sống con người về vùng đất  
phù sa sông nước, cánh đồng lúa trải dài bất tận, những miệt vườn rộng lớn, sum sê cây trái...  
về chợ nổi, bài vọng cổ buồn... Tác giả vẽ nên bức tranh toàn cảnh về mảnh đất Nam Bộ giản  
dị, tự nhiên, đầy sức sống. Con người Nam Bộ bình dị, lam lũ, nghèo khổ nhưng đáng trân  
trọng, đặc biệt nhất là hình ảnh người má thân thương, tần tảo. Trong tản văn Nguyễn Ngọc  
Tư, cái “chất quê” rất dồi dào, mặn mòi, thấm thía từ cảnh cho tới người, từ cái nếp nghĩ, tình  
thương cho tới lời ăn tiếng nói, thể hiện tình yêu thương, tự hào, gắn bó, yêu mến cảnh sắc,  
hương vị đặc trưng về đất Mũi. Với lối viết gần gũi, tự nhiên, giọng văn tinh tế, tản văn  
Nguyễn Ngọc Tư là một bức tranh văn hóa đa màu sắc, một thế giới thấm đẫm màu văn hóa  
Nam Bộ với những nét văn hóa độc đáo, đặc trưng về thiên nhiên của vùng quê sông nước, về  
nét văn hóa ứng xử tình người và về cả gìn giữ văn hóa trong sự đa chiều, phức tạp của cuộc  
sống hiện đại.  
Hay phong vị quê hương Quảng Nam được phản ánh sâu đậm trong tản văn của Nguyễn  
Nhật Ánh. Với Nguyễn Nhật Ánh, quê hương đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất tận và dạt  
dào cảm xúc. Mạch cảm hứng về quê hương, đất nước như một dòng chảy mạnh mẽ xuyên  
suốt các tản văn của Nguyễn Nhật Ánh. Qua các tập tản văn Sương khói quê nhà, Người  
Quảng đi ăn mì Quảng đến Thương nhớ Trà Long, tác giả đều dành một vị trí đặc biệt ở trang  
bìa đầu tiên, để nâng niu đặt lên đó tên gọi miền quê của mình. Nguyễn Nhật Ánh có những kỉ  
niệm đặc biệt gắn bó với thôn quê. Hầu hết, những tác phẩm của ông đều lấy bối cảnh Quảng  
Nam, khi Bình Quế, Bình Tú, lúc Tam Kỳ… Ông “về quê” qua những địa danh, ký ức trong  
văn chương cũng như ẩm thực. Mỳ Quảng là món ăn đặc trưng của người Quảng Nam, cũng  
chính là hình bóng quê hương trong lòng tác giả. Cảm hứng về quê hương đất nước, nhân văn  
và con người và những nét đẹp của văn hóa vùng miền trong tản văn Nguyễn Nhật Ánh.  
Những hồi ức, ghi nhớ rất đỗi chân thực và tinh tế đã vẽ ra cả một miền quê với vẻ đẹp tự  
nhiên, bình dị, lối sống kích thích sự tò mò và yêu thích của độc giả.  
Với giọng điệu mang đậm sắc thái ngợi ca, thể hiện niềm tự hào của dân tộc, tản văn  
thời kì này đã tái hiện sắc nét vẻ đẹp văn hóa, phong tục tập quán lâu đời được bảo tồn  
nguyên vẹn trong cộng đồng dân tộc, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó, tản văn  
góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kì hội  
nhập và giao lưu quốc tế.  
3. Kết luận  
Có thể nói, tản văn hiện đại Việt Nam dần khẳng định được vị thế của mình trong  
thành tựu của nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Sự bùng nổ của công nghệ thông tin,  
môi trường mạng chính là không gian lý tưởng cho tản văn tồn tại và phát triển mạnh mẽ. Tản  
văn thời kì này cũng khá đa dạng về mặt đề tài, nhưng bản sắc văn hóa dân tộc qua tản văn ca  
ngợi vẻ đẹp quê hương đất nước, phong tục tập quán, là một trong những đóng góp quan  
59  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
trọng của tản văn về số lượng, nội dung nghệ thuật và sự phong phú về phương thức thể hiện.  
Tản văn đề tài này mang sắc thái ngợi ca, tự hào, qua đó, người đọc có cái nhìn toàn diện, sâu  
sắc, đa chiều hơn về văn hóa truyền thống của dân tộc trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.  
Tài liệu tham khảo  
[1]. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hóa, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa học  
xã hội, Hà Nội.  
[2]. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.  
[3]. Lê Trà My (2008), “Tản văn Việt Nam thế kỷ 20 (Từ cái nhìn thể loại)”, Luận án  
tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.  
van-thoi-doi-moi-va-hoi-nhap-254642.  
THE BEAUTY OF THE HOMELAND AND TRADITIONAL CUSTOMS  
EXPRESSED IN VIETNAMESE CONTEMPORARY PROSE  
Nguyen Thi Ha, Ph.D student  
Abstract: Vietnamese contemporary prose (since the 20th century until now) has  
achieved certain achievements and covered with the following themes: 1- The beauty of the  
homeland; 2- Traditional customs and cultural identity; 3- Social issues; 4- Literature and  
art. Along with the growth of writers and works, the themes of proses have been more and  
more diverse. As a result, the beauty of the homeland and traditional customs expressed in  
Vietnamese contemporary prose is presented in this paper.  
Key words: Vietnamese contemporary prose, the beauty of the homeland, traditional  
customs  
Người phản biện: NCS.GVC. Hoàng Thị Kim Oanh (ngày nhận bài 22/12/2018; ngày gửi phản  
biện 24/12/2018; ngày duyệt đăng 05/01/2019).  
60  
pdf 8 trang yennguyen 21/04/2022 2060
Bạn đang xem tài liệu "Vẻ đẹp quê hương đất nước và phong tục tập quán qua tản văn Việt Nam hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfve_dep_que_huong_dat_nuoc_va_phong_tuc_tap_quan_qua_tan_van.pdf