Đất và nước trong quá trình định cư của người Việt cổ ở đồng bằng sông Hồng (Giải mã từ góc độ địa - văn hóa)

KHOA H“C & C«NG NGHª  
Đất và Nước trong quá trình định cư của ngườiViệt cổ  
ở đồng bằng sông Hồng (giải mã từ góc độ địa - văn hóa)  
Earth & Water factors during the Settlement of the Ancient Vietnamese in the Red River Delta  
(Decoding from a Geo-Cultural Perspective)  
Nguyễn Trí Thành  
Mở đầu  
Tóm tắt  
“Văn hóa (VH) là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người  
sáng tạo, tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi  
Người Việt luôn tự hào về truyền thống 4.000  
năm dựng nước và giữ nước, nhưng giữa văn  
trường tự nhiên và xã hội (XH)”. Tự nhiên khách quan có trước ngoài ý muốn  
hóa Việt Nam cổ đại và đương đại có sự gián  
của con người; VH là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người và tích lũy thành  
đoạn rất lớn. Kiến trúc thời đại Hùng Vương  
hệ sinh thái nhân văn. Cách thức con người chung sống với tự nhiên được củng  
chỉ còn hình khắc trên di vật đồ đồng Đông  
Sơn và khác xa kiến trúc truyền thống. Trong  
khi đó các nghiên cứu hồi cố đều không nhìn  
được xa hơn 1.500 năm về quá khứ. Bài báo  
cố và truyền lại qua nhiều thế hệ, hình thành truyền thống VH quy định lối sống,  
thái độ và thế ứng xử. Giữa các tộc người cư trú trên cùng một địa bàn luôn có  
sự giao thoa và tương tác, tạo thành những phức hệ con người - ngôn ngữ - VH.  
Con người còn, thì VH còn; con người khác đi thì VH cũng thay đổi. Con người  
đề cập một vài khía cạnh liên quan đến quá  
trình định cư tại đồng bằng Bắc bộ - có tham  
chiếu từ các lĩnh vực địa lý, tự nhiên và lịch  
sử - văn hóa, thông qua yếu tố con người là  
trung tâm - và tìm cách lý giải sự đột biến văn  
hóa giữa thời Hồng Bàng và Bắc thuộc.  
tiến hóa là sự phát triển tất yếu - nhưng sự đứt mạch/đột biến trong tiến trình VH  
thì cần được nhận thức và lý giải một cách thận trọng (nhất là trong sự mù mờ  
của tư liệu lịch sử).  
1. Tiếp biến văn hóa hay là sự đột biến/đứt mạch văn hóa?  
Về địa lý, Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á (mà ở thời tiền sử  
có phạm vi lên tới bờ Nam sông Dương Tử của Trung Quốc), vốn là cái nôi hình  
thành loài người ở phương Đông, là địa bàn của chủng Nam-Á và là một trong  
những trung tâm phát sinh của văn minh nông nghiệp. Lớp VH bản địa nền khởi  
đầu từ VH Hòa Bình (5.000-10.000 năm TCN) xuất hiện trong phạm vi toàn khu  
vực, rồi bị gián đoạn ~2.500-3.000 năm (không tìm thấy dấu tích vật chất). Sau  
đó là các VH Phùng Nguyên (1.500-2.000 năm TCN), VH Đồng Đậu (1.000-1.500  
năm TCN), VH Gò Mun (500-1.000 năm TCN) và đỉnh cao là VH Đông Sơn (0-500  
năm TCN) ở vùng trung du Bắc Việt Nam -> về thời gian và địa bàn là tương ứng  
với thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, với các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ và  
18 đời Hùng Vương dựng nước.  
Từ khóa: tiếp biến VH, thế ứng xử, giải mã, truyền  
thuyết, Đất & Nước, nhà hình thuyền  
Abstract  
Vietnamese people are always proud of the 4,000-  
year tradition of establishing and defending the  
country, but there is a huge disruption between  
the ancient and contemporary Vietnamese culture.  
The houses of the Hung Vuong era engraved on  
the Dong Son bronze relics and completely differs  
from the traditional architecture. Meanwhile the  
retrospective studies look any further than 1,500  
years into the past. This paper mentions some  
aspects related to the settlement process in the  
Northern Delta - with references from the fields of  
geography, nature, history & culture, through the  
human factor - and seek to explain the cultural  
mutation between the Hong Bang and Northern  
colonial period.  
Nhưng có sự đứt đoạn rất rõ giữa VH Việt truyền thống và VH Đông Sơn.  
Các trống đồng - đỉnh cao của VH Đông Sơn - sau đó không còn thấy ở Việt Nam  
nữa. Ở Nam Trung Quốc và Bắc Thái Lan cũng có trống đồng - nhưng số lượng  
ít, nhỏ hơn và niên đại muộn hơn (nhiều khả năng do mua bán/trao đổi/chiếm  
đoạt, không phải được đúc tại chỗ). Việc kiến tạo nhà cửa là một trong những  
khía cạnh VH quan trọng, có thể cung cấp những bằng chứng vật chất xác thực.  
Nhưng kiểu nhà sàn (khắc trên trống đồng) cũng không còn dấu tích ở Việt Nam -  
trong khi vẫn hiện diện ở một số vùng đảo trên Biển Đông (Ví dụ: nhà Tongkonan  
của người Toraja ở Sulawesi/nhà Jabu của người Batak Toba ở Bắc Sumatra,  
Indonesia). Tượng nam nữ giao hoan trên nắp thạp đồng Đào Thịnh (bảo vật  
quốc gia của Việt Nam) dường như trái ngược với truyền thống đề cao “thuần  
phong mỹ tục”; trong khi tính phồn thực và nhiều đặc điểm nữa của VH Đông Sơn  
lại rất giống với các dân tộc “anh em” khác.  
Key words: acculturation, behavior, decoding,  
legend, Earth & Water, boat-shape house  
Sự giống nhau giữa các nền VH bản địa xa xưa này là có thể hiểu được - vì  
hầu hết các dân tộc Đông Nam Á đều có nguồn gốc chung là chủng Indonésien  
(Proto-Malay/Cổ Mã Lai), từ đó phát triển thành các chủng Austronésien (Nam  
Đảo) và Austro-asiatic (Nam-Á). Sau đó chủng Nam-Á tiếp tục chia tách thành  
nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau; rồi người Việt/Kinh tách ra từ nhóm ngữ hệ Việt  
- Mường (vào tk.VI-VIII). Đến nay, người Việt hiện đại đã khác rất nhiều so với  
người Việt cổ chủ nhân của VH Đông Sơn và văn minh Sông Hồng. Giải mã bằng  
công nghệ phân tử cũng cho thấy chất liệu di truyền của người Việt hiện đại có  
sự đa dang nguồn gen, kết quả của sự pha trộn với các tộc người gốc Nam Đảo,  
Nam Á và Nam Trung Quốc (Bách Việt) throng qua trình tiến hóa.  
TS.KTS. Nguyễn Trí Thành  
Bộ môn Kiến trúc, công trình công cộng  
Khoa Kiến trúc  
Email: trithanh66@gmail.com  
SĐT:0903445648  
VH Việt Nam từ nguyên thủy tới đương đại đã có sự biến đổi rất lớn dưới ảnh  
hưởng của VH Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Tiếp thu những tiến bộ và biến  
thành nội lực là xu thế vận động tất yếu của sự phát triển VH. Tiếp biến VH là  
phương thức sinh tồn của VH Việt Nam. Với VH Ấn Độ, nó diễn ra một cách hoà  
Ngày nhận bài: 21/01/2021  
Ngày sửa bài: 26/01/2021  
Ngày duyệt đăng: 10/02/2021  
T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG  
32  
bình và liên tục thông qua giao thương buôn bán (ở Nam bộ  
và Trung bộ) và truyền bá đạo Phật (ở Bắc bộ). Với VH Trung  
Hoa - thì trước hết là chống lại sự đồng hoá (thời Bắc thuộc),  
sau đó là chọn lọc, tiếp thu và tổng hợp các tư tưởng tôn giáo  
(thời kỳ độc lập tự chủ).  
(do phần lớn nước bị đóng băng ở 2 cực làm cho mực nước  
đại dương hạ xuống) rồi biển tiến (băng tan dần làm nước  
biển lại dâng rất cao) - lần gần nhất vào cuối thời băng hà  
Wurrm (3000-5000 năm TCN), trước khi Kinh Dương Vương  
làm vua nước Xích Quỷ (2879 TCN). Lạc Long Quân và Âu  
Cơ sinh 100 trứng, nở thành 100 con trai - là sự gia tăng  
dân số nhanh chóng, dẫn đến nhu cầu phải mở rộng diện  
tích canh tác. Do đó, việc di dân không phải vì có nguy cơ  
đe dọa sự sinh tồn, mà vì xuất hiện cơ hội mới thuận lợi hơn  
khi biển thoái.  
Trong quá trình đó, hầu hết các nền VH bản địa gốc Bách  
Việt - như Điền Việt (ở Vân Nam), Mân Việt (ở Phúc Kiến),  
Đông Việt/Ngô Việt (ở Triết Giang), Sơn Việt (ở Giang Tây),  
Nam Việt (ở Quảng Đông), Âu Việt (ở Quảng Tây), Quỳ Việt,  
Việt Thường,.. - đều đã bị Hán hóa mà suy yếu/diệt vong. Chỉ  
có VH Việt Nam (gốc Lạc Việt) là được bảo tồn và tiếp tục  
phát triển - mặc dù cũng đã biến đổi rất nhiều.  
- Cuộc di dân này có cả 2 hướng “lên rừng” và “xuống  
biển”. Xu thế chung của con người là hướng ra nơi rộng rãi,  
bằng phẳng, có nước ngọt (sông/hồ) - cho nên vùng trung  
du/thung lũng dù sao cũng thuận lợi cho sinh sống và canh  
tác hơn là vùng rừng núi cao hơn. Có thể là đội hình của Âu  
Cơ không tiến “lên rừng” mà chỉ đi ngang - vượt qua dãy núi  
này để tìm sang các thung lũng khác; còn đội hình của Lạc  
Long Quân thì theo sông Hồng tiến xuống vùng đất thấp hơn  
(hình thành do biển thoái)? Tuy vậy thì quá trình biển thoái  
tự nhiên diễn ra tương đối chậm (trung bình 7-10 mm/năm)  
và mất hàng trăm năm để các đầm lầy ngập mặn được thau  
chua rửa mặn và bồi đắp phù sa thì mới canh tác được. Có lẽ  
đã có sự đột biến để hình thành vùng đất mới (VD: do sụt lún  
ở đáy biển làm sức chứa của đại dương tăng lên nên biển  
thoái nhanh đột ngột), sau đó được bồi lấp tương đối nhanh  
bởi lượng phù sa khổng lồ của sông Hồng - chưa kể sự hợp  
lưu của sông Đà, sông Lô.  
Với phương Tây, Việt Nam có tiếp xúc từ thế kỷ XVI,  
nhưng tiếp biến VH chỉ thực sự diễn ra từ cuối thế kỷ XIX  
khi trở thành thuộc địa của Pháp - với những biến đổi lớn về  
tư tưởng, chính trị và XH, những tiến bộ to lớn về kỹ thuật  
(cho phép khắc phục sự bất lợi về khí hậu). Nhưng nó lại mở  
đường cho sự thoát ly VH truyền thống, đảo ngược thế ứng  
xử với tự nhiên theo hướng chinh phục/áp chế và hủy họa  
môi trường sinh thái.  
Việt Nam có bờ biển dài >3.000km, nhưng trong phân  
vùng địa VH chỉ có vùng VH duyên hải Trung bộ - nơi quan  
hệ đất và nước, núi và biển là ổn định và con người sinh  
sống trực tiếp với biển (nhưng VH Việt đã dần dần thế chỗ  
VH Chăm trong quá trình Nam tiến từ sau thế kỷ XVII). Trong  
các vùng VH Bắc bộ và Nam bộ (nơi người Việt áp đảo về  
dân số và địa bàn) cũng không có tiểu vùng VH duyên hải -  
có lẽ do đồng bằng liên tục lấn ra biển và ít có người cư trú  
ở sát biển. Người Việt cổ đã sớm “theo cha xuống biển” (từ  
~3.000 năm TCN) nhưng không phải là để bám biển/sống  
giữa biển/gắn mình với biển - mà là để khai phá vùng châu  
thổ rộng lớn và màu mỡ. Còn các dân tộc “anh em” (cùng  
gốc chủng Nam-Á) vẫn trụ lại ở vùng núi (Tây Bắc, Việt Bắc,  
Tây Nguyên) thì không có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát  
triển - nên đã suy yếu dần thành các dân tộc thiểu số và  
tương đối lạc hậu.  
- Cùng tôn người con trưởng làm vua, xưng là “Hùng”  
(Hùng Vương thứ nhất - HV01). GS. Trần Quốc Vượng dẫn  
truyền thuyết thì người con trưởng theo mẹ. Nhưng nếu vậy  
thì đội theo cha đã đi đâu? Đã vượt biển ra các đảo ngoài  
khơi xa? Hay đã tới Sulawesi rồi trở thành tổ tiên của người  
Toraja? Nếu có như thế thì họ cũng không thể vượt biển  
ngay khi mới “xuống núi” vì chưa có kỹ thuật làm thuyền và  
đi biển. Mặt khác, kiểu “nhà hình thuyền” như trên trống đồng  
cho thấy người Toraja có quan hệ với các vua Hùng thuộc  
đội “theo mẹ”. Vì vậy có lý nhất là các vua Hùng thuộc đội  
“theo cha xuống biển” và trở thành tổ tiên của người Việt ở  
đồng bằng Bắc bộ; còn đội “theo mẹ lên rừng” thì trở thành  
tổ tiên các dân tộc vùng cao Tây Bắc và Đông Bắc (thậm chí  
theo sắc thái ngôn ngữ đặc trưng thì có thể đã vào đến Bắc  
Trung bộ - xuôi thung lũng sông Mã, sông Lam). Như thế  
cũng là hợp lý để tôn vinh Lạc Long Quân và Âu Cơ là quốc  
tổ và quốc mẫu của các dân tộc Việt Nam.  
2. Giải mã thông tin từ các truyền thuyết  
Các truyền thuyết của người Việt liên quan đến thời Hùng  
Vương ít nhiều đều phản ánh việc rời núi xuống đồng bằng -  
nhưng không ra đến biển. Truyền thuyết tuy không phải là tư  
liệu chính xác - nhưng chứa đựng những sự kiện/hiện tượng  
đặc biệt đã từng xảy ra trong quá khứ, có tác động mạnh mẽ  
tới nhận thức chung/phản ánh ước nguyện chung của cộng  
đồng - cho nên được đồng thuận và được xem là dạng lịch  
sử truyền khẩu (khi chưa có chính sử). Có thể bỏ qua thời  
điểm ra đời/được ghi nhận (thường có độ trễ hàng trăm/ngàn  
năm so với lịch sử), những thông tin/quan hệ mâu thuẫn  
do sự thêm thắt của đời sau cũng như những chi tiết được  
cường điệu phi thực tế (về thời gian, số lượng, kích thước,  
năng lực,..) để xem xét các truyền thuyết trong mối liên hệ  
với bối cảnh tự nhiên:  
- Trên đường “xuống biển”, đến đất Phong Châu (Việt  
Trì) thì đóng đô, lập nước Văn Lang: ngày nay đây là vùng  
đồi trung du, nhưng 4.000-6.000 năm TCN biển tiến cực đại  
có thể đã ngập tới Vĩnh Phú, thì cửa sông Hồng (sông Thao/  
Nậm Tao) còn ở khu vực Phú Thọ (từ Vân Nam sông chảy  
gần như thẳng trong vết đứt gãy kiến tạo giữa 2 mảng lục  
địa; đến Phú Thọ thì bắt đầu uốn khúc mạnh khi chảy trên  
thềm trầm tích phù sa cổ tương đối mềm và bằng phẳng).  
Từ 3.500 năm TCN biển bắt đầu thoái thì nơi đây là phần  
đáy biển lộ ra đầu tiên, sau đó tiếp tục được sông Đà rồi  
sông Lô tụ về cùng với sông Hồng mà bồi đắp thành vùng  
đất khởi đầu của châu thổ (lúc đó phần lớn Bắc bộ vẫn còn  
chìm dưới nước biển). Và bởi vì không bị thúc ép phải vượt  
biển bằng mọi giá, nên khi gặp vùng đất tương đối thoải và  
rộng lớn (từ Phú Thọ đến Việt Trì ~30 km), thuận lợi cho việc  
trồng trọt và làm nhà - thì người Việt cổ đã dừng lại để định  
canh và định cư.  
- 50 con theo mẹ (Âu Cơ) + 50 con theo cha (Lạc Long  
Quân): thực chất đây là một cuộc di cư quy mô lớn, không  
phải của 1-2 gia đình mà cả một cộng đồng/tộc người. Nhưng  
cộng đồng này trước đó đã cư trú yên ổn hàng trăm năm thì  
tại sao lại phải dời đi? Do bị tộc người khác xâm chiếm/đánh  
đuổi? Do môi trường sống bị hủy diệt sau một thảm họa tự  
nhiên? (Ví dụ: động đất/núi lửa phun) Những biến cố lớn  
như vậy liên quan đến nhiều bên, nhiều tộc người - tuy nhiên  
không thấy được truyền thuyết nào nhắc đến. Nhưng có đến  
>40 thần thoại và truyền thuyết trên thế giới nói về trận Đại  
hồng thủy hủy diệt sự sống, sau khi nước rút mới hồi sinh.  
Điều đó phù hợp với thực tế là đã có những thời kỳ biển thoái  
- Thánh Gióng đánh giặc Ân (đời HV06): về thời gian có  
thể phù hợp với thời nhà Ân, Thương ở Trung Hoa (Thế kỷ  
XI-XVI TCN), nhưng sự việc đúc ngựa sắt, rèn gậy sắt và  
S¬ 40 - 2021  
33  
KHOA H“C & C«NG NGHª  
giáp sắt cho thấy truyền thuyết này ra đời muộn hơn vào  
thời kỳ đồ sắt (ở Việt Nam là ~700 năm TCN, tương ứng với  
đời HV17-18). Tuy nhiên, các di chỉ VH Phùng Nguyên/VH  
Đồng Đậu (1.000-2.000 năm TCN) khá nhiều ở Phú Thọ, Hà  
Nội, Bắc Ninh,.. cho thấy vào thời gian đó, người Việt cổ đã  
tiến xuống khai phá khu vực xung quanh Hà Nội ngày nay  
(quá Phong Châu ~60 km) để làm nông (trồng lúa, trồng cà).  
Họ đã tụ cư (kiểu làng xóm) tại những khu đất cao, nhưng  
mật độ còn thưa - nên trung tâm đầu não vẫn đóng ở Phong  
Châu. Các dấu tích tự nhiên ở Phù Đổng, Đông Anh, Sóc  
Sơn (những nơi liên quan đến sự tích Thánh Gióng) ở phía  
Bắc sông Hồng cho thấy: đến thời kỳ đồ sắt thì biển đã lùi xa  
hơn về phía Đông Nam (có thể đến Hưng Yên - Hà Nam),  
các bãi lầy ven sông đã được bồi lấp thành đồng ruộng (->  
sứ giả có thể đi ngựa đến các làng); các vùng trũng còn  
lại thì tạo thành những hồ đầm lớn (Đầm Vạc, Đầm Cả, Ao  
Vua,..)/những chuỗi ao chuôm kéo dài (-> dấu chân ngựa  
sắt).  
năm TCN) cả khu vực Hà Nội còn ngập nước (chỉ nổi lên một  
vài gò cao có dấu vết cư trú thuộc VH Phùng Nguyên), đến  
~1.500 năm TCN biển thoái xa rồi thì đất mới bắt đầu lộ diện.  
Và khi đó còn là thời kỳ đồ đá thì chưa thể có công cụ bằng  
kim loại để đóng được thuyền lớn.  
- Sơn Tinh và Thủy Tinh (đời HV18): phản ánh cuộc đấu  
tranh giữa đất và nước, núi và biển (nhưng không phải là  
việc đắp đê chống lụt của con người). Sơn Tinh là thần Núi ở  
Ba Vì, còn biển thì đã thoái xa 50-60 km -> việc dâng nước  
của Thủy Tinh không phải là quy luật thông thường (như thủy  
triều hàng ngày ở ven biển/lụt lội hàng năm ở ven sông) - mà  
là hiện tượng đột biến có tác động mạnh mẽ (VD: sóng thần),  
hoặc diễn ra liên tục trong thời gian dài, trên phạm vi rộng, để  
lại hậu quả lâu dài và không thể vãn hồi, làm thay đổi nhận  
thức của con người. Đó không phải là trận Đại hồng thủy do  
biển tiến, vì cuối thời Hùng Vương (300-500 năm TCN) đang  
là giai đoạn biển thoái. Nhiều khả năng đã có lúc biển lại tiến  
đột ngột - có thể do hoạt động kiến tạo địa chất của đới đứt  
gãy sông Hồng (Ví dụ: động đất/sạt lở núi gây ra sóng thần)?  
Hoặc có thể là một giai đoạn đảo chiều - từ biển thoái (do  
băng hà/lạnh đi) sang biển tiến (do băng tan/nóng lên) - làm  
cho nước dâng bình thường trở nên dữ dội khác thường,  
kèm theo cả những hiện tượng cực đoan như thiên tai/mưa  
bão/lũ lụt bất thường? Và rất có thể đã gây nên hậu quả là  
nền sản xuất nông nghiệp bị tàn phá, khiến nước Văn Lang  
bị suy yếu, để rồi HV18 bị Thục Phán chiếm ngôi (?).  
- Lang Liêu và sự tích bánh chưng, bánh dày (đời HV07):  
đây là những sản phẩm “mới” của nghề nông trồng lúa nước,  
được chế biến dâng lên vua cha để cúng tổ tiên (không phải  
là “của ngon vật lạ” sẵn có trong tự nhiên) -> phương thức  
canh tác đã chuyển từ hái lượm (thụ động) sang trồng trọt  
(chủ động). Nhưng các di chỉ khảo cổ cho thấy từ thời tiền  
sử (10.000-12.000 năm TCN) người Đông Nam Á cổ đã biết  
trồng lúa nước - vậy thì tại sao sự việc này lại được ghi nhận  
và đề cao như vậy? Nếu chỉ vì phát hiện và thuần dưỡng  
được giống lúa mới (nếp) có năng suất cao/chất lượng tốt  
- thì không nhiều ý nghĩa. Nếu vì nghề nông của tổ tiên đã  
được phục hồi sau giai đoạn khủng hoảng kéo dài trong thời  
kỳ biển tiến - thì rất có ý nghĩa. Nhưng sự thực là SX nông  
nghiệp không bị mai một/thất truyền - mà chỉ bị thu hẹp diện  
tích (do đồng bằng cổ bị ngập nước) phải rút lên vùng cao  
làm nương/rẫy (trồng lúa cạn). Thực tế hơn cả - thì đó là  
thành quả toàn diện của công cuộc khai phá vùng châu thổ  
mới hình thành sau khi biển thoái.  
- Thần Kim Quy và Loa thành: Thục Phán (tộc Âu Việt)  
thay thế các vua Hùng (tộc Lạc Việt), xưng là An Dương  
Vương, mở rộng lãnh thổ thành nước Âu Lạc (Âu Việt + Lac  
Việt, 258-111 TCN), chuyển kinh đô từ Phong Châu về Cổ  
Loa ở trung tâm châu thổ. Như vậy, người Việt từ phía Tây  
và phía Bắc đã tiến hẳn xuống đồng bằng sông Hồng mà  
về cơ bản đã được định hình gần như ngày nay. An Dương  
Vương phải dựa vào thần Kim Quy/Rùa vàng (là thần ở sông  
nước) để đắp thành Cổ Loa và chống lại quân Triệu Đà ->  
cho thấy khu vực này còn rất nhiều sông ngòi/hồ đầm, nền  
đất vốn lả trầm tích cổ vẫn còn tương đối yếu. Qua đó cũng  
thấy người Âu Việt vẫn bị động trước môi trường nước của  
phương Nam, còn người Lạc Việt vốn ở nhà sàn thì chưa  
làm chủ được kỹ thuật xây dựng bằng đất của phương Bắc.  
Con rùa vốn là vật biểu của phương Bắc, chưa thấy xuất  
hiện ở thời Văn Lang -> có lẽ do Thục Phán đưa từ Trung  
Hoa vào Âu Việt, rồi đến Âu Lạc.  
- Mai An Tiêm và sự tích dưa hấu (đời HV17): An Tiêm bị  
đày ra đảo hoang -> người Việt đã dùng thuyền để đi biển;  
việc đóng thuyền có lẽ đã được chuyên môn hóa (cho nên  
chỉ một mình An Tiêm thì không thể tự làm thuyền để vượt  
biển trở về). Đảo ấy bây giờ là núi trong đất liền (nơi có đền  
thờ, ở Nga Sơn, Thanh Hóa - gần góc phía Nam của tam  
giác châu thổ), cách bờ biển 10-15 km -> vào cuối thời Hùng  
Vương thì vùng này vẫn chìm dưới biển (nhiều núi đá nằm  
giữa đồng bằng thì cũng từng là đảo như vậy). Liên hệ với  
truyền thuyết Thánh Gióng (HV06) thì thấy trong thời Hùng  
Vương trung đại (HV07-HV16) quá trình biển thoái diễn ra  
khá chậm. Sau này vùng duyên hải phía Nam châu thổ được  
bồi đắp chủ yếu bởi lượng phù sa rất lớn của sông Hồng đổ  
ra biển rồi được sóng/hải lưu đẩy xuống (còn hệ thống sông  
Thái Bình ở phía Bắc ít phù sa vì tương đối ngắn).  
Như vậy, các truyền thuyết về thời Hùng Vương tiền kỳ  
chỉ nhắc tới biển như một phương hướng; còn các truyền  
thuyết về thời Hùng Vương hậu kỳ đã đề cập trực tiếp đến  
yếu tố nước trong hoạt động của con người. Đầu thời Bắc  
thuộc, nữ tướng Lê Chân còn lánh ra khai phá vùng ven  
biển xứ Hải Dương (nay là vùng An Biên/An Dương, Hải  
Phòng) - cho thấy phạm vi châu thổ không thay đổi mấy so  
với thời HV18 (trước đó ~400 năm) -> biển thoái đã chậm  
hơn nhiều. Tốc độ bồi lấp đồng bằng cũng chậm lại - có lẽ  
do phù sa phải dàn trải trên diện tích ngày càng rộng hơn.  
Đến khi người Việt đắp đê ở vùng trung châu thổ để tránh bị  
ngập lụt - thì phù sa bị dồn xuống cuối dòng -> trong đê vẫn  
còn nhiều vùng trũng, nhưng các cảng sông thì dần dần bị  
bồi lấp (Thế kỷ XVII thì Phố Hiến ở Hưng Yên còn là thương  
cảng đầu mối sầm uất gần cửa biển). Rồi khi đê phát triển  
đến cửa sông thì phù sa bị đẩy ra biển (-> tạo thành các bãi  
bồi song song/ven bờ).  
- Chử Đồng Tử và Tiên Dung (đời HV18): đến cuối thời  
Hùng Vương biển đã lùi đến Hải Dương/Hưng Yên (quá Hà  
Nội ~60 km); khu vực Văn Giang, Khoái Châu (ven sông  
Hồng, cách Hà Nội 20-30 km) còn đan xen những đầm lầy  
lớn và bãi bồi (đầm Dạ Trạch, bãi Tự Nhiên). Đến ~1.000  
năm sau (tk.VI, thời Bắc thuộc) các đầm nước này vẫn còn  
rất rộng (là căn cứ của nghĩa quân Triệu Quang Phục) cho  
thấy sự bồi lấp đồng bằng diễn ra rất chậm. Tiên Dung là con  
gái HV18, cùng thuộc hạ đi thuyền xuôi sông Hồng ~90 km  
(từ Phong Châu) -> thuyền lớn, chở nhiều người, đi dài ngày,  
dùng mái chèo (vì khi trở về phải ngược dòng). Có tài liệu  
nói Tiên Dung là con gái HV03 nhưng có lẽ là không phù hợp  
với thực tế - vì vào thời Hùng Vương tiền kỳ (2.000-2.500  
3. Giải mã thông tin thị giác trên trống đồng  
Không có truyền thuyết nào liên quan đến giai đoạn Hùng  
Vương trung kỳ (HV08-HV16). Các di chỉ VH Đồng Đậu/Gò  
T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG  
34  
Mun (cùng thời) để lại những hiện vật nhỏ và đơn giản - qua  
đó chỉ biết SX nông nghiệp đã có sự phát triển nhất định  
(trồng lúa, săn bắt, câu cá). Nhưng các di vật VH Đông Sơn  
(tương ứng với giai đoạn cuối của Văn Lang - Âu Lạc) có  
kích thước lớn với nhiều hoa văn/họa tiết đa dạng cho phép  
hình dung rõ hơn về giai đoạn Hùng Vương trung kỳ trước  
đó. Ngoài chức năng sử dụng, các trống đồng/thạp đồng/rìu  
đồng còn cung cấp nhiều thông tin thị giác về đời sống và  
sinh hoạt của người Việt cổ: đánh trống, giã gạo, ở nhà sàn,  
dùng thuyền, có chữ viết, theo tín ngưỡng phồn thực,..  
- Đồng bằng châu thổ còn lầy lội nên kiểu nhà sàn mang  
từ vùng núi xuống rất đắc dụng. Nhà sàn trên trống đồng có 2  
kiểu khác nhau là mái khum và mái hình thuyền - nhưng mái  
hình thuyền thì được nói đến nhiều vì rất độc đáo, trong khi  
mái khum gần như bị lãng quên. Nói “nhà sàn hình thuyền” là  
không chính xác, vì nhà có hình dạng gần giống con tàu của  
thời nay (hình thang cân ngửa lên) nhưng hoàn toàn không  
phải là con thuyền của thời đó (thể hiện ở thân trống/thạp).  
Nhà hình thuyền là nhà ở, còn nhà mái khum có lẽ là nhà kho  
(nhưng không kém phần quan trọng vì bảo quản những thứ  
có giá trị - như lương thực/cồng chiêng). Không có hình ảnh  
bên ngoài - nên sơ bộ chỉ thấy kiểu hình khum có sống mái  
cong lồi, kiểu hình thuyền có sống mái cong lõm; mái rất dày,  
có lẽ bằng rơm rạ/cành lá. Để có không gian đủ dùng thì mái  
hình thuyền phải có độ dốc lớn; và để giữ ổn định thì diềm  
mái có lẽ xuống thấp để liên kết với cột và dầm của sàn (->  
gần như che hết phần thân nhà). Có hình người sinh hoạt  
dưới chỗ mái vươn chéo ra, nên nhiều khả năng lối vào nhà  
ở đầu hồi, bên trong phát triển theo chiều dài, không ngăn  
chia.  
- Họa tiết trên đồ đồng Đông Sơn chủ yếu gồm các hình  
chim, thú, cá (phản ánh môi trường tự nhiên) và các hình  
người, nhà sàn, thuyền (phản ánh hoạt động của con người).  
Ít thấy hình mây/hoa lá/sóng nước (mà sau này rất phổ biến  
trong điêu khắc gỗ). Về tổng thể, thế giới mặt đất (đại diện  
là thú) có ý nghĩa quan trọng và luôn song hành với thế giới  
trên trời (đại diện là chim), được thể hiện trên mặt trống  
đồng, xoay quanh mặt trời. Hình chim rất đa dạng, thú rừng  
chủ yếu là hươu (số lượng lớn); một số chim, thú đã được  
thuần dưỡng (gắn với hình người). Con người hiện diện như  
một thế giới riêng, ở giữa Trời và Đất. Nhiều hình chim thấy  
rõ đặc điểm của loài sống ở sông nước: chân cao, mỏ dài  
để bắt cá (có hình chim đang ngậm con cá), gián tiếp phản  
ánh sự hiện diện của thế giới nước (có cả hình cá sấu là loài  
sống ở đầm lầy). Ở thân trống/thạp có nhiều hình thuyền chở  
người, cho thấy người Việt đã chủ động thâm nhập vào môi  
trường sông biển.  
- Chỉ có sống mái dài và cong ở 2 đầu gợi hình ảnh  
gần giống con thuyền. Không chắc chắn là sống mái cong  
lõm, vì có thể hình nhà phải uốn theo độ cong của băng họa  
tiết (trên mặt trống), nhưng hình thuyền (ở thân trống) cong  
không đều thì có cơ sở. Mái nhà đối xứng, trong khi mũi  
thuyền và đuôi thuyền thì khác biệt rất rõ ràng theo hướng  
chuyển động. Mái vươn ra trên cao thì kết cấu phức tạp (phải  
có cột chống) mà không có lợi về sử dụng và chịu lực - do  
đó chỉ mang tính hình thức, nhằm tạo hiệu quả thị giác. Rất  
có thể bộ mái lớn và xòe rộng trên cao là hình ảnh đặc trưng  
giúp người Việt cổ nhận biết được ngôi nhà mình và bộ tộc  
mình giữa vùng đồng bằng/đầm lầy rộng lớn; là dấu mốc để  
khẳng định chủ quyền đối với khu vực cư trú; là dấu hiệu để  
định hướng để tìm đến/trở về trong những chuyến đi xa; là  
một hình thức bùa chú để xua đuổi tà ma trong quá trình khai  
phá vùng đất mới còn hoang dã. Nói “mái hình lưỡi rìu” có lẽ  
là có lý - vì rìu đồng lưỡi xéo là vũ khí đặc trưng của người  
Việt cổ (có ý kiến cho rằng cả âm “Việt” và chữ “Việt” tượng  
hình đều bắt nguồn từ đó).  
- Chim Lạc là hình ảnh đặc sắc của VH Đông Sơn, chỉ  
hiện hữu trên mặt trống đồng (là nhạc khí, dùng trong nghi  
lễ, biểu hiện uy quyền của thủ lĩnh). Đây là loài chim hư cấu,  
hình ảnh được cách điệu và nhấn mạnh mang ý nghĩa biểu  
trưng - trong khi các loài chim và thú khác được thể hiện phổ  
biến trên cả thạp đồng, rìu đồng (là vật dụng sinh hoạt/vũ  
khí cá nhân). Chim vốn là vật biểu của phương Nam, là vật  
tổ của tộc Lạc Việt - cho nên có rất nhiều hình người khoác  
lông chim/đội mũ gắn đầu chim. “Lạc” có thể liên quan đến  
Hạc - là loài chim quý được gắn với thần tiên. Tên kỷ “Hồng  
Bàng” (của thời Văn Lang) nghĩa là một loài hạc lớn; kinh đô  
Phong Châu cũng ở gần ngã ba Bạch Hạc. Có thể nhận định  
chim Lạc là biểu tượng của tổ Tiên (quốc mẫu Âu Cơ). Dù  
các vua Hùng đã quyết chí “theo cha”, đã nhiều đời nối nhau  
truyền ngôi cho con trai - nhưng XH Văn Lang vẫn mang dấu  
ấn sâu nặng và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ mẫu  
hệ (Sơn Tinh đã theo cha rồi lại tìm về với mẹ). Sau này XH  
phong kiến đã chuyển sang phụ hệ, nhưng tín ngưỡng thờ  
Mẫu vẫn lưu truyền và phổ biến trong dân gian.  
- Hình thuyền trên thân trống đồng và thạp đồng rất  
phong phú. Thuyền đều là loại lớn và dài, chở được nhiều  
người; nhiều thuyền có cả cấu trúc như mái nhà để chứa  
trống đồng và thạp/bình gốm (là trang bị để sử dụng/hàng  
hóa để trao đổi). Có thuyền mang theo cả trẻ con và chó, cho  
thấy sự sinh hoạt thường xuyên/dài ngày. Như vậy, ở thời  
Hùng Vương trung đại người Việt đã thích ứng rất tốt với môi  
trường sông nước - không phải bằng cách tiến hóa tự nhiên  
(như kiểu vịt có màng ở chân để bơi lội/cá voi có lỗ mũi trên  
đỉnh đầu để thở) - mà là sự thích ứng chủ động và sáng tạo.  
Họ đã làm chủ kỹ thuật đóng thuyền và đi biển (tuy không  
thấy buồm/mái chèo - nhưng có bánh lái để điều hướng; mũi  
thuyền uốn cong lên cao để rẽ sóng tốt hơn). Giao thông và  
giao thương bằng thuyền có thể là lời giải cho hiện tượng  
trống đồng và kiểu nhà trên đó có mặt tại những vùng đảo ở  
Nam biển Đông (Ví dụ: nhà Tongkonan ở Sulawesi; nhà Jabu  
ở Sumatra; trống đồng ở Timor Leste,..).  
- Không có hình Rồng, chỉ thấy hình cá sấu (nguyên mẫu  
của Rồng) với kích thước khiêm tốn trên thân trống/thân  
thạp, ở tư thế dựng đứng trước mũi thuyền như là chiến lợi  
phẩm (để dọa thủy quái/đối phó với sông nước). Có lẽ truyền  
thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ ra đời muộn hơn (khi XH  
chuyển sang chế độ phụ hệ) nhằm “hợp thức hóa” và “huyền  
thoại hóa” vị thế quốc tổ của Lạc Long Quân (chi tiết Âu Cơ  
đẻ bọc trứng 100 quả là đặc trưng sinh sản của loài bò sát  
được áp cho loài chim). Truyền thuyết này được sử Tàu đời  
Đường (Thế kỷ VII-IX) ghi nhận nhằm mục đích quy buộc  
người Việt vào nguồn gốc Trung Hoa (Lạc Long Quân là con  
trai của Kinh Dương vương và Long Nữ ở hồ Động Đình, là  
hậu duệ của Thần Nông/Viêm Đế). Nhưng trống đồng, thạp  
đồng là bằng chứng vật chất xác thực đã có từ trước đó rất  
lâu thì không thể thay đổi/không làm lại được. Đến thời Lý  
(Thế kỷ XI) Rồng mới trở thành biểu tượng của vua (theo mô  
thức Trung Hoa), nhưng cũng phổ biến trong dân gian (cả  
dân tộc đều là “con Rồng, cháu Tiên”).  
Trống đồng có thể mang theo và bị lưu lạc, nhưng ngôi  
nhà thì phải dựng lại theo nguyên mẫu/bằng kinh nghiệm gia  
truyền. Nói “nhà làm theo hình ảnh con thuyền úp xuống để  
che mưa nắng” là phi logic - vì kiểu nhà ở chắc chắn phải  
có trước, không thể có thuyền rồi mới nghĩ ra cái nhà. Rất  
có thể tổ tiên người Toraja cũng là người Việt cổ đến buôn  
bán, rồi bị đắm thuyền phải ở lại đảo. Hoặc khi nước Âu Lạc/  
Nam Việt bị phương Bắc thôn tính thì có nhóm người Việt đã  
S¬ 40 - 2021  
35  
KHOA H“C & C«NG NGHª  
dùng thuyền xuôi theo hải lưu chạy xuống phía Nam. Và ở  
đảo không bị ảnh hưởng bởi VH ngoại lai, thì kiểu dáng nhà  
vẫn được bảo lưu - còn hình thức có thể được thay đổi, bổ  
sung và đa dạng hóa theo thời gian. Có nhà thu nhỏ làm nhà  
nghi lễ của dòng họ (không phải để ở), lòng nhà hẹp, sống  
mái vươn ra không cần cột đỡ. Cũng có những nhà lớn hơn/  
nhiều cột hơn/cao hơn/mái vươn xa hơn/chi tiết cầu kỳ hơn.  
trệt ở miền Nam Trung Hoa đã được sử dụng phổ biến trên  
địa bàn Âu Việt, từ đó được Thục An Dương Vương đưa vào  
Âu Lạc. Đến khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc thì nhà trệt đã được  
xây dựng khá nhiều; rồi đến thời Bắc thuộc thì phạm vi càng  
mở rộng - không loại trừ là đã được quân Tàu dùng như  
công cụ để xóa bỏ kiểu nhà sàn “hình rìu” mang tính biểu  
tượng của người bản địa. Bản thân nhà sàn cũng không còn  
phù hợp khi người Việt ngày càng tiến xa xuống đồng bằng,  
đã tụ cư với mật độ cao, mỗi nhà nhiều thế hệ. Không gian  
đóng kín (chỉ mở ở 2 đầu hồi) cũng không phù hợp với môi  
trường nóng ẩm; kiểu mái hình lưỡi rìu cao và dốc thì bất lợi  
trước gió bão. Nhưng họ không rập khuôn theo kiểu nhà trệt  
của Tàu mà vẫn giữ bộ khung kết cấu bằng gỗ (tường/vách  
nhẹ chỉ để bao che). Hình thức bên ngoài thay đổi (thấp hơn,  
trực tiếp với mặt đất, vào nhà ở khúc giữa) nhưng không  
gian bên trong vẫn là cấu trúc mở (không ngăn chia) như  
trước.  
4. Giải mã từ tâm thức Việt  
Trong khi đó ngôi nhà dân gian/truyền thống của người  
Việt từ lâu đã không còn giữ hình thức đặc biệt của nhà sàn  
Đông Sơn. Đến giữa thời Bắc thuộc, nhà sàn đã nhường  
chỗ cho nhà trệt, bao quanh một sân trong như kiểu nhà của  
người Hoa (mô hình đất nung trong các mộ táng Thế kỷ I-VI  
ở Hoàng Mai, Vạn Phúc). Mái nhà thoải hơn, có xu hướng  
xòe rộng ở bên dưới; tường hồi xây lên chặn mái (không có  
sống mái kéo dài và uốn cong 2 đầu). Sang thời phong kiến  
tự chủ, chỉ một số công trình tôn giáo tín ngưỡng lớn có mái  
ở đầu hồi và khi giao với mái chính thì uốn cong lên ở các  
góc, theo dạng thức được gọi là “đầu đao”.  
Ở đồng bằng nóng, ẩm, mưa nhiều nên thực vật phát  
triển hơn động vật; do đó tập quán canh tác đã chuyển  
từ săn bắt và hái lượm (thụ động) sang trồng trọt và chăn  
nuôi (chủ động). Với phương thức định canh định cư trồng  
lúa nước (phụ thuộc vào đất, nước, thời tiết, nắng mưa,..),  
người Việt có tâm thế coi trọng sự tĩnh tại, hòa hợp với tự  
nhiên (để ổn định lâu dài, không bị xáo trộn). Địa bàn cư trú  
và canh tác đan xen với nhiều sông ngòi, ao đầm - nên Đất  
và Nước luôn gắn liền với nhau trong tiềm thức của người  
Việt (“đất nước”/Tổ quốc = đất và nước của tổ tiên). Tuy vậy  
chúng có vị thế khác nhau trong nhận thức và định hướng  
hành động của con người. Theo tâm thức chung là “trọng  
Âm”, thì cả đất và nước đều Âm; đến sự “chủ về Tĩnh” thì đất  
vẫn là Âm (có tính trung hòa, ổn định, bền vững), còn nước  
lại Dương (có tính động, biến hóa, đa dạng khó lường). Vì  
vậy, mục đích “vị Thổ” luôn được đặt lên hàng đầu (là định  
hướng chiến lược lâu dài/có tính kiên định); còn “lệ Thủy” (lệ  
thuộc vào nước, nương theo thế nước) là phương thức hành  
động/ứng xử linh hoạt.  
GS.Trần Ngọc Thêm cho là “đầu đao” có liên hệ với  
mái nhà sàn Đông Sơn (hình nhà trên trống đồng -> trang  
trí nhà mồ Tây Nguyên -> mái đình chùa Bắc bộ -> chung  
nguồn gốc vì đều khác mái Trung Hoa, và đều giống hình  
con thuyền). Nhưng sự liên hệ kiểu “bắc cầu” lòng vòng như  
vậy là chủ quan và gượng ép. Nếu nó có ý nghĩa biểu tượng  
- thì sao không làm ở sống mái trên cao cho trọn vẹn và cân  
đối, và nhà nào cũng có? Sao lại làm ở góc mái (chỉ một  
vài nhà có nên không phổ biến), ở dưới thấp và không cân  
- để rồi cả làng phải tránh “góc ao, đao đình”? Thực tế “đầu  
đao” cũng chỉ xuất hiện ở đình/chùa từ thời Lê - Mạc; trước  
đó (thời Bắc thuộc cho đến Lý - Trần, ~1500 năm) không  
thấy dấu tích của sự chuyển tiếp từ nhà sàn Đông Sơn. Đối  
chiếu đầu đao của đình/chùa Việt với mái nhà Tongkonan/  
nhà Jabu (Indonesia) cũng không thấy sự tương tự nào về  
cấu trúc hay chi tiết.  
Có thể vì phải thường xuyên đối phó với VH Trung Hoa  
trong ~2.000 năm nên VH kiến trúc của người Việt đã biến  
đổi khác hẳn so với nguyên gốc? Có thể kiểu nhà Đông Sơn  
đã bị triệt hạ trong suốt 1.000 năm Bắc thuộc, nên đến thời  
Lý - Trần thì đã hoàn toàn mai một và không thể phục hồi  
được nữa? Nhưng chúng ta vẫn tự hào là đã không bị Hán  
hóa (thậm chí còn Việt hóa cả người Tàu sang cai trị) - thì  
sự đột biến/đứt mạch VH với thời dựng nước sẽ được lý giải  
như thế nào?  
Sự song hành Đất và Nước đã được cài đặt ngay từ  
nguồn gốc tộc Việt. Đất có thể được ưu tiên vì luôn gắn bó  
với người Việt từ khi còn ở rừng núi. Nhưng tâm thế sợ nước/  
lệ thuộc vào nước/nương theo nước hẳn đã hình thành từ  
thời kỳ Đại hồng thủy trước đó - khi biển dâng lên rất cao,  
Nước đã hiện diện ở mọi nơi và rất dữ dội (truyền thuyết  
cho Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều có khả năng  
đi lại dưới nước như ở trên cạn). Đến thời Hùng Vương thì  
biển thoái, Đất được đề cao trong khi sức mạnh và vị thế của  
Nước cũng giảm dần. Đến khi đồng bằng đã ổn định và mở  
rộng - thì Đất trở thành yếu tố nền tảng (của Tam tài), còn  
Nước là yếu tố tác động/ràng buộc (theo Ngũ hành).  
Sự đột biến ấy chắc chắn chưa diễn ra trong giai đoạn  
258-111 TCN khi Lạc Việt và Âu Việt hợp thành Âu Lạc - vì  
cùng gốc Bách Việt. Sau 18 đời vua Hùng, nước Văn Lang  
đã đạt cực thịnh thì tất yếu phải suy - nên việc chuyển sang  
Âu Lạc là bối cảnh tích cực để tiếp tục phát triển. Lãnh thổ  
mở rộng đến phía Nam Trung Hoa; kinh đô chuyển từ Phong  
Châu về Cổ Loa (ở trung tâm), việc khai phá châu thổ được  
đẩy mạnh. Âu Lạc (và sau đó là Nam Việt) chỉ tồn tại ~150  
năm thì không đủ để tạo ra những đột biến, càng không thể  
xóa bỏ thành quả >2.500 năm của Văn Lang. Sự đứt mạch  
VH phải diễn ra qua nhiều thế hệ, và đó là hậu quả của  
~1.000 năm Bắc thuộc, với chính sách đồng hóa trên nhiều  
phương diện nhằm tiêu diệt sinh khí và triệt hạ tinh hoa của  
người Việt. Ví dụ: Sĩ Nhiếp bắt dùng chữ Hán thay cho chữ  
“khoa đẩu” bản địa; Cao Biền trấn yểm huyệt mạch địa lý ở  
các nơi; Mã Viện tịch thu và tiêu hủy trống đồng, rìu đồng;  
đưa người sang sinh sống để “thay máu” dân tộc,..  
- Vị Thổ: người Việt luôn đề cao vai trò của yếu tố đất nói  
chung (địa lý phong thủy và Tam tài/Thiên - Địa - Nhân), cũng  
như coi trọng sự gắn bó gần gũi với đất trong từng ngữ cảnh  
cụ thể (địa hình/địa thế/địa điểm). Vận mệnh con người/quốc  
gia đều gắn liền với đất (thế đất -> long mạch -> địa linh  
nhân kiệt); mọi việc trồng trọt, chăn nuôi, cư trú (thổ canh,  
thổ cư) đều cần có ruộng/đất (điền thổ); người chết cũng cần  
có đất để chôn cất (địa táng/nghĩa địa); “không tấc đất cắm  
dùi” -> không có tài sản; làm nhà đụng chạm đến đất thì phải  
có lễ “động thổ”; Thổ công/ông Địa tuy là thần linh cấp thấp,  
nhưng thân thiện và có ban thờ riêng; Thiên thời + Địa lợi  
+ Nhân hòa là điều kiện để thành công. Trong cấu trúc của  
Ngũ hành (học thuyết về sự vận động của thế giới) thì hành  
Thổ luôn được đặt ở vị trí trung tâm (trung hòa giữa nước và  
lửa, hữu cơ và vô cơ), và Thổ khắc Thủy (cho nên đảo có ở  
Nhưng có lẽ những tiền đề của sự đứt đoạn như vậy đã  
manh nha ngay từ thời Âu Lạc. Nhiều khả năng là kiểu nhà  
(xem tiếp trang 40)  
T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG  
36  
pdf 5 trang yennguyen 19/04/2022 1260
Bạn đang xem tài liệu "Đất và nước trong quá trình định cư của người Việt cổ ở đồng bằng sông Hồng (Giải mã từ góc độ địa - văn hóa)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfdat_va_nuoc_trong_qua_trinh_dinh_cu_cua_nguoi_viet_co_o_dong.pdf