Đất và nước trong quá trình định cư của người Việt cổ ở đồng bằng sông Hồng (Giải mã từ góc độ địa - văn hóa)
KHOA H“C & C«NG NGHª
Đất và Nước trong quá trình định cư của ngườiViệt cổ
ở đồng bằng sông Hồng (giải mã từ góc độ địa - văn hóa)
Earth & Water factors during the Settlement of the Ancient Vietnamese in the Red River Delta
(Decoding from a Geo-Cultural Perspective)
Nguyễn Trí Thành
Mở đầu
Tóm tắt
“Văn hóa (VH) là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo, tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi
Người Việt luôn tự hào về truyền thống 4.000
năm dựng nước và giữ nước, nhưng giữa văn
trường tự nhiên và xã hội (XH)”. Tự nhiên khách quan có trước ngoài ý muốn
hóa Việt Nam cổ đại và đương đại có sự gián
của con người; VH là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người và tích lũy thành
đoạn rất lớn. Kiến trúc thời đại Hùng Vương
hệ sinh thái nhân văn. Cách thức con người chung sống với tự nhiên được củng
chỉ còn hình khắc trên di vật đồ đồng Đông
Sơn và khác xa kiến trúc truyền thống. Trong
khi đó các nghiên cứu hồi cố đều không nhìn
được xa hơn 1.500 năm về quá khứ. Bài báo
cố và truyền lại qua nhiều thế hệ, hình thành truyền thống VH quy định lối sống,
thái độ và thế ứng xử. Giữa các tộc người cư trú trên cùng một địa bàn luôn có
sự giao thoa và tương tác, tạo thành những phức hệ con người - ngôn ngữ - VH.
Con người còn, thì VH còn; con người khác đi thì VH cũng thay đổi. Con người
đề cập một vài khía cạnh liên quan đến quá
trình định cư tại đồng bằng Bắc bộ - có tham
chiếu từ các lĩnh vực địa lý, tự nhiên và lịch
sử - văn hóa, thông qua yếu tố con người là
trung tâm - và tìm cách lý giải sự đột biến văn
hóa giữa thời Hồng Bàng và Bắc thuộc.
tiến hóa là sự phát triển tất yếu - nhưng sự đứt mạch/đột biến trong tiến trình VH
thì cần được nhận thức và lý giải một cách thận trọng (nhất là trong sự mù mờ
của tư liệu lịch sử).
1. Tiếp biến văn hóa hay là sự đột biến/đứt mạch văn hóa?
Về địa lý, Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á (mà ở thời tiền sử
có phạm vi lên tới bờ Nam sông Dương Tử của Trung Quốc), vốn là cái nôi hình
thành loài người ở phương Đông, là địa bàn của chủng Nam-Á và là một trong
những trung tâm phát sinh của văn minh nông nghiệp. Lớp VH bản địa nền khởi
đầu từ VH Hòa Bình (5.000-10.000 năm TCN) xuất hiện trong phạm vi toàn khu
vực, rồi bị gián đoạn ~2.500-3.000 năm (không tìm thấy dấu tích vật chất). Sau
đó là các VH Phùng Nguyên (1.500-2.000 năm TCN), VH Đồng Đậu (1.000-1.500
năm TCN), VH Gò Mun (500-1.000 năm TCN) và đỉnh cao là VH Đông Sơn (0-500
năm TCN) ở vùng trung du Bắc Việt Nam -> về thời gian và địa bàn là tương ứng
với thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, với các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ và
18 đời Hùng Vương dựng nước.
Từ khóa: tiếp biến VH, thế ứng xử, giải mã, truyền
thuyết, Đất & Nước, nhà hình thuyền
Abstract
Vietnamese people are always proud of the 4,000-
year tradition of establishing and defending the
country, but there is a huge disruption between
the ancient and contemporary Vietnamese culture.
The houses of the Hung Vuong era engraved on
the Dong Son bronze relics and completely differs
from the traditional architecture. Meanwhile the
retrospective studies look any further than 1,500
years into the past. This paper mentions some
aspects related to the settlement process in the
Northern Delta - with references from the fields of
geography, nature, history & culture, through the
human factor - and seek to explain the cultural
mutation between the Hong Bang and Northern
colonial period.
Nhưng có sự đứt đoạn rất rõ giữa VH Việt truyền thống và VH Đông Sơn.
Các trống đồng - đỉnh cao của VH Đông Sơn - sau đó không còn thấy ở Việt Nam
nữa. Ở Nam Trung Quốc và Bắc Thái Lan cũng có trống đồng - nhưng số lượng
ít, nhỏ hơn và niên đại muộn hơn (nhiều khả năng do mua bán/trao đổi/chiếm
đoạt, không phải được đúc tại chỗ). Việc kiến tạo nhà cửa là một trong những
khía cạnh VH quan trọng, có thể cung cấp những bằng chứng vật chất xác thực.
Nhưng kiểu nhà sàn (khắc trên trống đồng) cũng không còn dấu tích ở Việt Nam -
trong khi vẫn hiện diện ở một số vùng đảo trên Biển Đông (Ví dụ: nhà Tongkonan
của người Toraja ở Sulawesi/nhà Jabu của người Batak Toba ở Bắc Sumatra,
Indonesia). Tượng nam nữ giao hoan trên nắp thạp đồng Đào Thịnh (bảo vật
quốc gia của Việt Nam) dường như trái ngược với truyền thống đề cao “thuần
phong mỹ tục”; trong khi tính phồn thực và nhiều đặc điểm nữa của VH Đông Sơn
lại rất giống với các dân tộc “anh em” khác.
Key words: acculturation, behavior, decoding,
legend, Earth & Water, boat-shape house
Sự giống nhau giữa các nền VH bản địa xa xưa này là có thể hiểu được - vì
hầu hết các dân tộc Đông Nam Á đều có nguồn gốc chung là chủng Indonésien
(Proto-Malay/Cổ Mã Lai), từ đó phát triển thành các chủng Austronésien (Nam
Đảo) và Austro-asiatic (Nam-Á). Sau đó chủng Nam-Á tiếp tục chia tách thành
nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau; rồi người Việt/Kinh tách ra từ nhóm ngữ hệ Việt
- Mường (vào tk.VI-VIII). Đến nay, người Việt hiện đại đã khác rất nhiều so với
người Việt cổ chủ nhân của VH Đông Sơn và văn minh Sông Hồng. Giải mã bằng
công nghệ phân tử cũng cho thấy chất liệu di truyền của người Việt hiện đại có
sự đa dang nguồn gen, kết quả của sự pha trộn với các tộc người gốc Nam Đảo,
Nam Á và Nam Trung Quốc (Bách Việt) throng qua trình tiến hóa.
TS.KTS. Nguyễn Trí Thành
Bộ môn Kiến trúc, công trình công cộng
Khoa Kiến trúc
Email: trithanh66@gmail.com
SĐT:0903445648
VH Việt Nam từ nguyên thủy tới đương đại đã có sự biến đổi rất lớn dưới ảnh
hưởng của VH Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Tiếp thu những tiến bộ và biến
thành nội lực là xu thế vận động tất yếu của sự phát triển VH. Tiếp biến VH là
phương thức sinh tồn của VH Việt Nam. Với VH Ấn Độ, nó diễn ra một cách hoà
Ngày nhận bài: 21/01/2021
Ngày sửa bài: 26/01/2021
Ngày duyệt đăng: 10/02/2021
T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG
32
bình và liên tục thông qua giao thương buôn bán (ở Nam bộ
và Trung bộ) và truyền bá đạo Phật (ở Bắc bộ). Với VH Trung
Hoa - thì trước hết là chống lại sự đồng hoá (thời Bắc thuộc),
sau đó là chọn lọc, tiếp thu và tổng hợp các tư tưởng tôn giáo
(thời kỳ độc lập tự chủ).
(do phần lớn nước bị đóng băng ở 2 cực làm cho mực nước
đại dương hạ xuống) rồi biển tiến (băng tan dần làm nước
biển lại dâng rất cao) - lần gần nhất vào cuối thời băng hà
Wurrm (3000-5000 năm TCN), trước khi Kinh Dương Vương
làm vua nước Xích Quỷ (2879 TCN). Lạc Long Quân và Âu
Cơ sinh 100 trứng, nở thành 100 con trai - là sự gia tăng
dân số nhanh chóng, dẫn đến nhu cầu phải mở rộng diện
tích canh tác. Do đó, việc di dân không phải vì có nguy cơ
đe dọa sự sinh tồn, mà vì xuất hiện cơ hội mới thuận lợi hơn
khi biển thoái.
Trong quá trình đó, hầu hết các nền VH bản địa gốc Bách
Việt - như Điền Việt (ở Vân Nam), Mân Việt (ở Phúc Kiến),
Đông Việt/Ngô Việt (ở Triết Giang), Sơn Việt (ở Giang Tây),
Nam Việt (ở Quảng Đông), Âu Việt (ở Quảng Tây), Quỳ Việt,
Việt Thường,.. - đều đã bị Hán hóa mà suy yếu/diệt vong. Chỉ
có VH Việt Nam (gốc Lạc Việt) là được bảo tồn và tiếp tục
phát triển - mặc dù cũng đã biến đổi rất nhiều.
- Cuộc di dân này có cả 2 hướng “lên rừng” và “xuống
biển”. Xu thế chung của con người là hướng ra nơi rộng rãi,
bằng phẳng, có nước ngọt (sông/hồ) - cho nên vùng trung
du/thung lũng dù sao cũng thuận lợi cho sinh sống và canh
tác hơn là vùng rừng núi cao hơn. Có thể là đội hình của Âu
Cơ không tiến “lên rừng” mà chỉ đi ngang - vượt qua dãy núi
này để tìm sang các thung lũng khác; còn đội hình của Lạc
Long Quân thì theo sông Hồng tiến xuống vùng đất thấp hơn
(hình thành do biển thoái)? Tuy vậy thì quá trình biển thoái
tự nhiên diễn ra tương đối chậm (trung bình 7-10 mm/năm)
và mất hàng trăm năm để các đầm lầy ngập mặn được thau
chua rửa mặn và bồi đắp phù sa thì mới canh tác được. Có lẽ
đã có sự đột biến để hình thành vùng đất mới (VD: do sụt lún
ở đáy biển làm sức chứa của đại dương tăng lên nên biển
thoái nhanh đột ngột), sau đó được bồi lấp tương đối nhanh
bởi lượng phù sa khổng lồ của sông Hồng - chưa kể sự hợp
lưu của sông Đà, sông Lô.
Với phương Tây, Việt Nam có tiếp xúc từ thế kỷ XVI,
nhưng tiếp biến VH chỉ thực sự diễn ra từ cuối thế kỷ XIX
khi trở thành thuộc địa của Pháp - với những biến đổi lớn về
tư tưởng, chính trị và XH, những tiến bộ to lớn về kỹ thuật
(cho phép khắc phục sự bất lợi về khí hậu). Nhưng nó lại mở
đường cho sự thoát ly VH truyền thống, đảo ngược thế ứng
xử với tự nhiên theo hướng chinh phục/áp chế và hủy họa
môi trường sinh thái.
Việt Nam có bờ biển dài >3.000km, nhưng trong phân
vùng địa VH chỉ có vùng VH duyên hải Trung bộ - nơi quan
hệ đất và nước, núi và biển là ổn định và con người sinh
sống trực tiếp với biển (nhưng VH Việt đã dần dần thế chỗ
VH Chăm trong quá trình Nam tiến từ sau thế kỷ XVII). Trong
các vùng VH Bắc bộ và Nam bộ (nơi người Việt áp đảo về
dân số và địa bàn) cũng không có tiểu vùng VH duyên hải -
có lẽ do đồng bằng liên tục lấn ra biển và ít có người cư trú
ở sát biển. Người Việt cổ đã sớm “theo cha xuống biển” (từ
~3.000 năm TCN) nhưng không phải là để bám biển/sống
giữa biển/gắn mình với biển - mà là để khai phá vùng châu
thổ rộng lớn và màu mỡ. Còn các dân tộc “anh em” (cùng
gốc chủng Nam-Á) vẫn trụ lại ở vùng núi (Tây Bắc, Việt Bắc,
Tây Nguyên) thì không có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát
triển - nên đã suy yếu dần thành các dân tộc thiểu số và
tương đối lạc hậu.
- Cùng tôn người con trưởng làm vua, xưng là “Hùng”
(Hùng Vương thứ nhất - HV01). GS. Trần Quốc Vượng dẫn
truyền thuyết thì người con trưởng theo mẹ. Nhưng nếu vậy
thì đội theo cha đã đi đâu? Đã vượt biển ra các đảo ngoài
khơi xa? Hay đã tới Sulawesi rồi trở thành tổ tiên của người
Toraja? Nếu có như thế thì họ cũng không thể vượt biển
ngay khi mới “xuống núi” vì chưa có kỹ thuật làm thuyền và
đi biển. Mặt khác, kiểu “nhà hình thuyền” như trên trống đồng
cho thấy người Toraja có quan hệ với các vua Hùng thuộc
đội “theo mẹ”. Vì vậy có lý nhất là các vua Hùng thuộc đội
“theo cha xuống biển” và trở thành tổ tiên của người Việt ở
đồng bằng Bắc bộ; còn đội “theo mẹ lên rừng” thì trở thành
tổ tiên các dân tộc vùng cao Tây Bắc và Đông Bắc (thậm chí
theo sắc thái ngôn ngữ đặc trưng thì có thể đã vào đến Bắc
Trung bộ - xuôi thung lũng sông Mã, sông Lam). Như thế
cũng là hợp lý để tôn vinh Lạc Long Quân và Âu Cơ là quốc
tổ và quốc mẫu của các dân tộc Việt Nam.
2. Giải mã thông tin từ các truyền thuyết
Các truyền thuyết của người Việt liên quan đến thời Hùng
Vương ít nhiều đều phản ánh việc rời núi xuống đồng bằng -
nhưng không ra đến biển. Truyền thuyết tuy không phải là tư
liệu chính xác - nhưng chứa đựng những sự kiện/hiện tượng
đặc biệt đã từng xảy ra trong quá khứ, có tác động mạnh mẽ
tới nhận thức chung/phản ánh ước nguyện chung của cộng
đồng - cho nên được đồng thuận và được xem là dạng lịch
sử truyền khẩu (khi chưa có chính sử). Có thể bỏ qua thời
điểm ra đời/được ghi nhận (thường có độ trễ hàng trăm/ngàn
năm so với lịch sử), những thông tin/quan hệ mâu thuẫn
do sự thêm thắt của đời sau cũng như những chi tiết được
cường điệu phi thực tế (về thời gian, số lượng, kích thước,
năng lực,..) để xem xét các truyền thuyết trong mối liên hệ
với bối cảnh tự nhiên:
- Trên đường “xuống biển”, đến đất Phong Châu (Việt
Trì) thì đóng đô, lập nước Văn Lang: ngày nay đây là vùng
đồi trung du, nhưng 4.000-6.000 năm TCN biển tiến cực đại
có thể đã ngập tới Vĩnh Phú, thì cửa sông Hồng (sông Thao/
Nậm Tao) còn ở khu vực Phú Thọ (từ Vân Nam sông chảy
gần như thẳng trong vết đứt gãy kiến tạo giữa 2 mảng lục
địa; đến Phú Thọ thì bắt đầu uốn khúc mạnh khi chảy trên
thềm trầm tích phù sa cổ tương đối mềm và bằng phẳng).
Từ 3.500 năm TCN biển bắt đầu thoái thì nơi đây là phần
đáy biển lộ ra đầu tiên, sau đó tiếp tục được sông Đà rồi
sông Lô tụ về cùng với sông Hồng mà bồi đắp thành vùng
đất khởi đầu của châu thổ (lúc đó phần lớn Bắc bộ vẫn còn
chìm dưới nước biển). Và bởi vì không bị thúc ép phải vượt
biển bằng mọi giá, nên khi gặp vùng đất tương đối thoải và
rộng lớn (từ Phú Thọ đến Việt Trì ~30 km), thuận lợi cho việc
trồng trọt và làm nhà - thì người Việt cổ đã dừng lại để định
canh và định cư.
- 50 con theo mẹ (Âu Cơ) + 50 con theo cha (Lạc Long
Quân): thực chất đây là một cuộc di cư quy mô lớn, không
phải của 1-2 gia đình mà cả một cộng đồng/tộc người. Nhưng
cộng đồng này trước đó đã cư trú yên ổn hàng trăm năm thì
tại sao lại phải dời đi? Do bị tộc người khác xâm chiếm/đánh
đuổi? Do môi trường sống bị hủy diệt sau một thảm họa tự
nhiên? (Ví dụ: động đất/núi lửa phun) Những biến cố lớn
như vậy liên quan đến nhiều bên, nhiều tộc người - tuy nhiên
không thấy được truyền thuyết nào nhắc đến. Nhưng có đến
>40 thần thoại và truyền thuyết trên thế giới nói về trận Đại
hồng thủy hủy diệt sự sống, sau khi nước rút mới hồi sinh.
Điều đó phù hợp với thực tế là đã có những thời kỳ biển thoái
- Thánh Gióng đánh giặc Ân (đời HV06): về thời gian có
thể phù hợp với thời nhà Ân, Thương ở Trung Hoa (Thế kỷ
XI-XVI TCN), nhưng sự việc đúc ngựa sắt, rèn gậy sắt và
S¬ 40 - 2021
33
KHOA H“C & C«NG NGHª
giáp sắt cho thấy truyền thuyết này ra đời muộn hơn vào
thời kỳ đồ sắt (ở Việt Nam là ~700 năm TCN, tương ứng với
đời HV17-18). Tuy nhiên, các di chỉ VH Phùng Nguyên/VH
Đồng Đậu (1.000-2.000 năm TCN) khá nhiều ở Phú Thọ, Hà
Nội, Bắc Ninh,.. cho thấy vào thời gian đó, người Việt cổ đã
tiến xuống khai phá khu vực xung quanh Hà Nội ngày nay
(quá Phong Châu ~60 km) để làm nông (trồng lúa, trồng cà).
Họ đã tụ cư (kiểu làng xóm) tại những khu đất cao, nhưng
mật độ còn thưa - nên trung tâm đầu não vẫn đóng ở Phong
Châu. Các dấu tích tự nhiên ở Phù Đổng, Đông Anh, Sóc
Sơn (những nơi liên quan đến sự tích Thánh Gióng) ở phía
Bắc sông Hồng cho thấy: đến thời kỳ đồ sắt thì biển đã lùi xa
hơn về phía Đông Nam (có thể đến Hưng Yên - Hà Nam),
các bãi lầy ven sông đã được bồi lấp thành đồng ruộng (->
sứ giả có thể đi ngựa đến các làng); các vùng trũng còn
lại thì tạo thành những hồ đầm lớn (Đầm Vạc, Đầm Cả, Ao
Vua,..)/những chuỗi ao chuôm kéo dài (-> dấu chân ngựa
sắt).
năm TCN) cả khu vực Hà Nội còn ngập nước (chỉ nổi lên một
vài gò cao có dấu vết cư trú thuộc VH Phùng Nguyên), đến
~1.500 năm TCN biển thoái xa rồi thì đất mới bắt đầu lộ diện.
Và khi đó còn là thời kỳ đồ đá thì chưa thể có công cụ bằng
kim loại để đóng được thuyền lớn.
- Sơn Tinh và Thủy Tinh (đời HV18): phản ánh cuộc đấu
tranh giữa đất và nước, núi và biển (nhưng không phải là
việc đắp đê chống lụt của con người). Sơn Tinh là thần Núi ở
Ba Vì, còn biển thì đã thoái xa 50-60 km -> việc dâng nước
của Thủy Tinh không phải là quy luật thông thường (như thủy
triều hàng ngày ở ven biển/lụt lội hàng năm ở ven sông) - mà
là hiện tượng đột biến có tác động mạnh mẽ (VD: sóng thần),
hoặc diễn ra liên tục trong thời gian dài, trên phạm vi rộng, để
lại hậu quả lâu dài và không thể vãn hồi, làm thay đổi nhận
thức của con người. Đó không phải là trận Đại hồng thủy do
biển tiến, vì cuối thời Hùng Vương (300-500 năm TCN) đang
là giai đoạn biển thoái. Nhiều khả năng đã có lúc biển lại tiến
đột ngột - có thể do hoạt động kiến tạo địa chất của đới đứt
gãy sông Hồng (Ví dụ: động đất/sạt lở núi gây ra sóng thần)?
Hoặc có thể là một giai đoạn đảo chiều - từ biển thoái (do
băng hà/lạnh đi) sang biển tiến (do băng tan/nóng lên) - làm
cho nước dâng bình thường trở nên dữ dội khác thường,
kèm theo cả những hiện tượng cực đoan như thiên tai/mưa
bão/lũ lụt bất thường? Và rất có thể đã gây nên hậu quả là
nền sản xuất nông nghiệp bị tàn phá, khiến nước Văn Lang
bị suy yếu, để rồi HV18 bị Thục Phán chiếm ngôi (?).
- Lang Liêu và sự tích bánh chưng, bánh dày (đời HV07):
đây là những sản phẩm “mới” của nghề nông trồng lúa nước,
được chế biến dâng lên vua cha để cúng tổ tiên (không phải
là “của ngon vật lạ” sẵn có trong tự nhiên) -> phương thức
canh tác đã chuyển từ hái lượm (thụ động) sang trồng trọt
(chủ động). Nhưng các di chỉ khảo cổ cho thấy từ thời tiền
sử (10.000-12.000 năm TCN) người Đông Nam Á cổ đã biết
trồng lúa nước - vậy thì tại sao sự việc này lại được ghi nhận
và đề cao như vậy? Nếu chỉ vì phát hiện và thuần dưỡng
được giống lúa mới (nếp) có năng suất cao/chất lượng tốt
- thì không nhiều ý nghĩa. Nếu vì nghề nông của tổ tiên đã
được phục hồi sau giai đoạn khủng hoảng kéo dài trong thời
kỳ biển tiến - thì rất có ý nghĩa. Nhưng sự thực là SX nông
nghiệp không bị mai một/thất truyền - mà chỉ bị thu hẹp diện
tích (do đồng bằng cổ bị ngập nước) phải rút lên vùng cao
làm nương/rẫy (trồng lúa cạn). Thực tế hơn cả - thì đó là
thành quả toàn diện của công cuộc khai phá vùng châu thổ
mới hình thành sau khi biển thoái.
- Thần Kim Quy và Loa thành: Thục Phán (tộc Âu Việt)
thay thế các vua Hùng (tộc Lạc Việt), xưng là An Dương
Vương, mở rộng lãnh thổ thành nước Âu Lạc (Âu Việt + Lac
Việt, 258-111 TCN), chuyển kinh đô từ Phong Châu về Cổ
Loa ở trung tâm châu thổ. Như vậy, người Việt từ phía Tây
và phía Bắc đã tiến hẳn xuống đồng bằng sông Hồng mà
về cơ bản đã được định hình gần như ngày nay. An Dương
Vương phải dựa vào thần Kim Quy/Rùa vàng (là thần ở sông
nước) để đắp thành Cổ Loa và chống lại quân Triệu Đà ->
cho thấy khu vực này còn rất nhiều sông ngòi/hồ đầm, nền
đất vốn lả trầm tích cổ vẫn còn tương đối yếu. Qua đó cũng
thấy người Âu Việt vẫn bị động trước môi trường nước của
phương Nam, còn người Lạc Việt vốn ở nhà sàn thì chưa
làm chủ được kỹ thuật xây dựng bằng đất của phương Bắc.
Con rùa vốn là vật biểu của phương Bắc, chưa thấy xuất
hiện ở thời Văn Lang -> có lẽ do Thục Phán đưa từ Trung
Hoa vào Âu Việt, rồi đến Âu Lạc.
- Mai An Tiêm và sự tích dưa hấu (đời HV17): An Tiêm bị
đày ra đảo hoang -> người Việt đã dùng thuyền để đi biển;
việc đóng thuyền có lẽ đã được chuyên môn hóa (cho nên
chỉ một mình An Tiêm thì không thể tự làm thuyền để vượt
biển trở về). Đảo ấy bây giờ là núi trong đất liền (nơi có đền
thờ, ở Nga Sơn, Thanh Hóa - gần góc phía Nam của tam
giác châu thổ), cách bờ biển 10-15 km -> vào cuối thời Hùng
Vương thì vùng này vẫn chìm dưới biển (nhiều núi đá nằm
giữa đồng bằng thì cũng từng là đảo như vậy). Liên hệ với
truyền thuyết Thánh Gióng (HV06) thì thấy trong thời Hùng
Vương trung đại (HV07-HV16) quá trình biển thoái diễn ra
khá chậm. Sau này vùng duyên hải phía Nam châu thổ được
bồi đắp chủ yếu bởi lượng phù sa rất lớn của sông Hồng đổ
ra biển rồi được sóng/hải lưu đẩy xuống (còn hệ thống sông
Thái Bình ở phía Bắc ít phù sa vì tương đối ngắn).
Như vậy, các truyền thuyết về thời Hùng Vương tiền kỳ
chỉ nhắc tới biển như một phương hướng; còn các truyền
thuyết về thời Hùng Vương hậu kỳ đã đề cập trực tiếp đến
yếu tố nước trong hoạt động của con người. Đầu thời Bắc
thuộc, nữ tướng Lê Chân còn lánh ra khai phá vùng ven
biển xứ Hải Dương (nay là vùng An Biên/An Dương, Hải
Phòng) - cho thấy phạm vi châu thổ không thay đổi mấy so
với thời HV18 (trước đó ~400 năm) -> biển thoái đã chậm
hơn nhiều. Tốc độ bồi lấp đồng bằng cũng chậm lại - có lẽ
do phù sa phải dàn trải trên diện tích ngày càng rộng hơn.
Đến khi người Việt đắp đê ở vùng trung châu thổ để tránh bị
ngập lụt - thì phù sa bị dồn xuống cuối dòng -> trong đê vẫn
còn nhiều vùng trũng, nhưng các cảng sông thì dần dần bị
bồi lấp (Thế kỷ XVII thì Phố Hiến ở Hưng Yên còn là thương
cảng đầu mối sầm uất gần cửa biển). Rồi khi đê phát triển
đến cửa sông thì phù sa bị đẩy ra biển (-> tạo thành các bãi
bồi song song/ven bờ).
- Chử Đồng Tử và Tiên Dung (đời HV18): đến cuối thời
Hùng Vương biển đã lùi đến Hải Dương/Hưng Yên (quá Hà
Nội ~60 km); khu vực Văn Giang, Khoái Châu (ven sông
Hồng, cách Hà Nội 20-30 km) còn đan xen những đầm lầy
lớn và bãi bồi (đầm Dạ Trạch, bãi Tự Nhiên). Đến ~1.000
năm sau (tk.VI, thời Bắc thuộc) các đầm nước này vẫn còn
rất rộng (là căn cứ của nghĩa quân Triệu Quang Phục) cho
thấy sự bồi lấp đồng bằng diễn ra rất chậm. Tiên Dung là con
gái HV18, cùng thuộc hạ đi thuyền xuôi sông Hồng ~90 km
(từ Phong Châu) -> thuyền lớn, chở nhiều người, đi dài ngày,
dùng mái chèo (vì khi trở về phải ngược dòng). Có tài liệu
nói Tiên Dung là con gái HV03 nhưng có lẽ là không phù hợp
với thực tế - vì vào thời Hùng Vương tiền kỳ (2.000-2.500
3. Giải mã thông tin thị giác trên trống đồng
Không có truyền thuyết nào liên quan đến giai đoạn Hùng
Vương trung kỳ (HV08-HV16). Các di chỉ VH Đồng Đậu/Gò
T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG
34
Mun (cùng thời) để lại những hiện vật nhỏ và đơn giản - qua
đó chỉ biết SX nông nghiệp đã có sự phát triển nhất định
(trồng lúa, săn bắt, câu cá). Nhưng các di vật VH Đông Sơn
(tương ứng với giai đoạn cuối của Văn Lang - Âu Lạc) có
kích thước lớn với nhiều hoa văn/họa tiết đa dạng cho phép
hình dung rõ hơn về giai đoạn Hùng Vương trung kỳ trước
đó. Ngoài chức năng sử dụng, các trống đồng/thạp đồng/rìu
đồng còn cung cấp nhiều thông tin thị giác về đời sống và
sinh hoạt của người Việt cổ: đánh trống, giã gạo, ở nhà sàn,
dùng thuyền, có chữ viết, theo tín ngưỡng phồn thực,..
- Đồng bằng châu thổ còn lầy lội nên kiểu nhà sàn mang
từ vùng núi xuống rất đắc dụng. Nhà sàn trên trống đồng có 2
kiểu khác nhau là mái khum và mái hình thuyền - nhưng mái
hình thuyền thì được nói đến nhiều vì rất độc đáo, trong khi
mái khum gần như bị lãng quên. Nói “nhà sàn hình thuyền” là
không chính xác, vì nhà có hình dạng gần giống con tàu của
thời nay (hình thang cân ngửa lên) nhưng hoàn toàn không
phải là con thuyền của thời đó (thể hiện ở thân trống/thạp).
Nhà hình thuyền là nhà ở, còn nhà mái khum có lẽ là nhà kho
(nhưng không kém phần quan trọng vì bảo quản những thứ
có giá trị - như lương thực/cồng chiêng). Không có hình ảnh
bên ngoài - nên sơ bộ chỉ thấy kiểu hình khum có sống mái
cong lồi, kiểu hình thuyền có sống mái cong lõm; mái rất dày,
có lẽ bằng rơm rạ/cành lá. Để có không gian đủ dùng thì mái
hình thuyền phải có độ dốc lớn; và để giữ ổn định thì diềm
mái có lẽ xuống thấp để liên kết với cột và dầm của sàn (->
gần như che hết phần thân nhà). Có hình người sinh hoạt
dưới chỗ mái vươn chéo ra, nên nhiều khả năng lối vào nhà
ở đầu hồi, bên trong phát triển theo chiều dài, không ngăn
chia.
- Họa tiết trên đồ đồng Đông Sơn chủ yếu gồm các hình
chim, thú, cá (phản ánh môi trường tự nhiên) và các hình
người, nhà sàn, thuyền (phản ánh hoạt động của con người).
Ít thấy hình mây/hoa lá/sóng nước (mà sau này rất phổ biến
trong điêu khắc gỗ). Về tổng thể, thế giới mặt đất (đại diện
là thú) có ý nghĩa quan trọng và luôn song hành với thế giới
trên trời (đại diện là chim), được thể hiện trên mặt trống
đồng, xoay quanh mặt trời. Hình chim rất đa dạng, thú rừng
chủ yếu là hươu (số lượng lớn); một số chim, thú đã được
thuần dưỡng (gắn với hình người). Con người hiện diện như
một thế giới riêng, ở giữa Trời và Đất. Nhiều hình chim thấy
rõ đặc điểm của loài sống ở sông nước: chân cao, mỏ dài
để bắt cá (có hình chim đang ngậm con cá), gián tiếp phản
ánh sự hiện diện của thế giới nước (có cả hình cá sấu là loài
sống ở đầm lầy). Ở thân trống/thạp có nhiều hình thuyền chở
người, cho thấy người Việt đã chủ động thâm nhập vào môi
trường sông biển.
- Chỉ có sống mái dài và cong ở 2 đầu gợi hình ảnh
gần giống con thuyền. Không chắc chắn là sống mái cong
lõm, vì có thể hình nhà phải uốn theo độ cong của băng họa
tiết (trên mặt trống), nhưng hình thuyền (ở thân trống) cong
không đều thì có cơ sở. Mái nhà đối xứng, trong khi mũi
thuyền và đuôi thuyền thì khác biệt rất rõ ràng theo hướng
chuyển động. Mái vươn ra trên cao thì kết cấu phức tạp (phải
có cột chống) mà không có lợi về sử dụng và chịu lực - do
đó chỉ mang tính hình thức, nhằm tạo hiệu quả thị giác. Rất
có thể bộ mái lớn và xòe rộng trên cao là hình ảnh đặc trưng
giúp người Việt cổ nhận biết được ngôi nhà mình và bộ tộc
mình giữa vùng đồng bằng/đầm lầy rộng lớn; là dấu mốc để
khẳng định chủ quyền đối với khu vực cư trú; là dấu hiệu để
định hướng để tìm đến/trở về trong những chuyến đi xa; là
một hình thức bùa chú để xua đuổi tà ma trong quá trình khai
phá vùng đất mới còn hoang dã. Nói “mái hình lưỡi rìu” có lẽ
là có lý - vì rìu đồng lưỡi xéo là vũ khí đặc trưng của người
Việt cổ (có ý kiến cho rằng cả âm “Việt” và chữ “Việt” tượng
hình đều bắt nguồn từ đó).
- Chim Lạc là hình ảnh đặc sắc của VH Đông Sơn, chỉ
hiện hữu trên mặt trống đồng (là nhạc khí, dùng trong nghi
lễ, biểu hiện uy quyền của thủ lĩnh). Đây là loài chim hư cấu,
hình ảnh được cách điệu và nhấn mạnh mang ý nghĩa biểu
trưng - trong khi các loài chim và thú khác được thể hiện phổ
biến trên cả thạp đồng, rìu đồng (là vật dụng sinh hoạt/vũ
khí cá nhân). Chim vốn là vật biểu của phương Nam, là vật
tổ của tộc Lạc Việt - cho nên có rất nhiều hình người khoác
lông chim/đội mũ gắn đầu chim. “Lạc” có thể liên quan đến
Hạc - là loài chim quý được gắn với thần tiên. Tên kỷ “Hồng
Bàng” (của thời Văn Lang) nghĩa là một loài hạc lớn; kinh đô
Phong Châu cũng ở gần ngã ba Bạch Hạc. Có thể nhận định
chim Lạc là biểu tượng của tổ Tiên (quốc mẫu Âu Cơ). Dù
các vua Hùng đã quyết chí “theo cha”, đã nhiều đời nối nhau
truyền ngôi cho con trai - nhưng XH Văn Lang vẫn mang dấu
ấn sâu nặng và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ mẫu
hệ (Sơn Tinh đã theo cha rồi lại tìm về với mẹ). Sau này XH
phong kiến đã chuyển sang phụ hệ, nhưng tín ngưỡng thờ
Mẫu vẫn lưu truyền và phổ biến trong dân gian.
- Hình thuyền trên thân trống đồng và thạp đồng rất
phong phú. Thuyền đều là loại lớn và dài, chở được nhiều
người; nhiều thuyền có cả cấu trúc như mái nhà để chứa
trống đồng và thạp/bình gốm (là trang bị để sử dụng/hàng
hóa để trao đổi). Có thuyền mang theo cả trẻ con và chó, cho
thấy sự sinh hoạt thường xuyên/dài ngày. Như vậy, ở thời
Hùng Vương trung đại người Việt đã thích ứng rất tốt với môi
trường sông nước - không phải bằng cách tiến hóa tự nhiên
(như kiểu vịt có màng ở chân để bơi lội/cá voi có lỗ mũi trên
đỉnh đầu để thở) - mà là sự thích ứng chủ động và sáng tạo.
Họ đã làm chủ kỹ thuật đóng thuyền và đi biển (tuy không
thấy buồm/mái chèo - nhưng có bánh lái để điều hướng; mũi
thuyền uốn cong lên cao để rẽ sóng tốt hơn). Giao thông và
giao thương bằng thuyền có thể là lời giải cho hiện tượng
trống đồng và kiểu nhà trên đó có mặt tại những vùng đảo ở
Nam biển Đông (Ví dụ: nhà Tongkonan ở Sulawesi; nhà Jabu
ở Sumatra; trống đồng ở Timor Leste,..).
- Không có hình Rồng, chỉ thấy hình cá sấu (nguyên mẫu
của Rồng) với kích thước khiêm tốn trên thân trống/thân
thạp, ở tư thế dựng đứng trước mũi thuyền như là chiến lợi
phẩm (để dọa thủy quái/đối phó với sông nước). Có lẽ truyền
thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ ra đời muộn hơn (khi XH
chuyển sang chế độ phụ hệ) nhằm “hợp thức hóa” và “huyền
thoại hóa” vị thế quốc tổ của Lạc Long Quân (chi tiết Âu Cơ
đẻ bọc trứng 100 quả là đặc trưng sinh sản của loài bò sát
được áp cho loài chim). Truyền thuyết này được sử Tàu đời
Đường (Thế kỷ VII-IX) ghi nhận nhằm mục đích quy buộc
người Việt vào nguồn gốc Trung Hoa (Lạc Long Quân là con
trai của Kinh Dương vương và Long Nữ ở hồ Động Đình, là
hậu duệ của Thần Nông/Viêm Đế). Nhưng trống đồng, thạp
đồng là bằng chứng vật chất xác thực đã có từ trước đó rất
lâu thì không thể thay đổi/không làm lại được. Đến thời Lý
(Thế kỷ XI) Rồng mới trở thành biểu tượng của vua (theo mô
thức Trung Hoa), nhưng cũng phổ biến trong dân gian (cả
dân tộc đều là “con Rồng, cháu Tiên”).
Trống đồng có thể mang theo và bị lưu lạc, nhưng ngôi
nhà thì phải dựng lại theo nguyên mẫu/bằng kinh nghiệm gia
truyền. Nói “nhà làm theo hình ảnh con thuyền úp xuống để
che mưa nắng” là phi logic - vì kiểu nhà ở chắc chắn phải
có trước, không thể có thuyền rồi mới nghĩ ra cái nhà. Rất
có thể tổ tiên người Toraja cũng là người Việt cổ đến buôn
bán, rồi bị đắm thuyền phải ở lại đảo. Hoặc khi nước Âu Lạc/
Nam Việt bị phương Bắc thôn tính thì có nhóm người Việt đã
S¬ 40 - 2021
35
KHOA H“C & C«NG NGHª
dùng thuyền xuôi theo hải lưu chạy xuống phía Nam. Và ở
đảo không bị ảnh hưởng bởi VH ngoại lai, thì kiểu dáng nhà
vẫn được bảo lưu - còn hình thức có thể được thay đổi, bổ
sung và đa dạng hóa theo thời gian. Có nhà thu nhỏ làm nhà
nghi lễ của dòng họ (không phải để ở), lòng nhà hẹp, sống
mái vươn ra không cần cột đỡ. Cũng có những nhà lớn hơn/
nhiều cột hơn/cao hơn/mái vươn xa hơn/chi tiết cầu kỳ hơn.
trệt ở miền Nam Trung Hoa đã được sử dụng phổ biến trên
địa bàn Âu Việt, từ đó được Thục An Dương Vương đưa vào
Âu Lạc. Đến khi Triệu Đà chiếm Âu Lạc thì nhà trệt đã được
xây dựng khá nhiều; rồi đến thời Bắc thuộc thì phạm vi càng
mở rộng - không loại trừ là đã được quân Tàu dùng như
công cụ để xóa bỏ kiểu nhà sàn “hình rìu” mang tính biểu
tượng của người bản địa. Bản thân nhà sàn cũng không còn
phù hợp khi người Việt ngày càng tiến xa xuống đồng bằng,
đã tụ cư với mật độ cao, mỗi nhà nhiều thế hệ. Không gian
đóng kín (chỉ mở ở 2 đầu hồi) cũng không phù hợp với môi
trường nóng ẩm; kiểu mái hình lưỡi rìu cao và dốc thì bất lợi
trước gió bão. Nhưng họ không rập khuôn theo kiểu nhà trệt
của Tàu mà vẫn giữ bộ khung kết cấu bằng gỗ (tường/vách
nhẹ chỉ để bao che). Hình thức bên ngoài thay đổi (thấp hơn,
trực tiếp với mặt đất, vào nhà ở khúc giữa) nhưng không
gian bên trong vẫn là cấu trúc mở (không ngăn chia) như
trước.
4. Giải mã từ tâm thức Việt
Trong khi đó ngôi nhà dân gian/truyền thống của người
Việt từ lâu đã không còn giữ hình thức đặc biệt của nhà sàn
Đông Sơn. Đến giữa thời Bắc thuộc, nhà sàn đã nhường
chỗ cho nhà trệt, bao quanh một sân trong như kiểu nhà của
người Hoa (mô hình đất nung trong các mộ táng Thế kỷ I-VI
ở Hoàng Mai, Vạn Phúc). Mái nhà thoải hơn, có xu hướng
xòe rộng ở bên dưới; tường hồi xây lên chặn mái (không có
sống mái kéo dài và uốn cong 2 đầu). Sang thời phong kiến
tự chủ, chỉ một số công trình tôn giáo tín ngưỡng lớn có mái
ở đầu hồi và khi giao với mái chính thì uốn cong lên ở các
góc, theo dạng thức được gọi là “đầu đao”.
Ở đồng bằng nóng, ẩm, mưa nhiều nên thực vật phát
triển hơn động vật; do đó tập quán canh tác đã chuyển
từ săn bắt và hái lượm (thụ động) sang trồng trọt và chăn
nuôi (chủ động). Với phương thức định canh định cư trồng
lúa nước (phụ thuộc vào đất, nước, thời tiết, nắng mưa,..),
người Việt có tâm thế coi trọng sự tĩnh tại, hòa hợp với tự
nhiên (để ổn định lâu dài, không bị xáo trộn). Địa bàn cư trú
và canh tác đan xen với nhiều sông ngòi, ao đầm - nên Đất
và Nước luôn gắn liền với nhau trong tiềm thức của người
Việt (“đất nước”/Tổ quốc = đất và nước của tổ tiên). Tuy vậy
chúng có vị thế khác nhau trong nhận thức và định hướng
hành động của con người. Theo tâm thức chung là “trọng
Âm”, thì cả đất và nước đều Âm; đến sự “chủ về Tĩnh” thì đất
vẫn là Âm (có tính trung hòa, ổn định, bền vững), còn nước
lại Dương (có tính động, biến hóa, đa dạng khó lường). Vì
vậy, mục đích “vị Thổ” luôn được đặt lên hàng đầu (là định
hướng chiến lược lâu dài/có tính kiên định); còn “lệ Thủy” (lệ
thuộc vào nước, nương theo thế nước) là phương thức hành
động/ứng xử linh hoạt.
GS.Trần Ngọc Thêm cho là “đầu đao” có liên hệ với
mái nhà sàn Đông Sơn (hình nhà trên trống đồng -> trang
trí nhà mồ Tây Nguyên -> mái đình chùa Bắc bộ -> chung
nguồn gốc vì đều khác mái Trung Hoa, và đều giống hình
con thuyền). Nhưng sự liên hệ kiểu “bắc cầu” lòng vòng như
vậy là chủ quan và gượng ép. Nếu nó có ý nghĩa biểu tượng
- thì sao không làm ở sống mái trên cao cho trọn vẹn và cân
đối, và nhà nào cũng có? Sao lại làm ở góc mái (chỉ một
vài nhà có nên không phổ biến), ở dưới thấp và không cân
- để rồi cả làng phải tránh “góc ao, đao đình”? Thực tế “đầu
đao” cũng chỉ xuất hiện ở đình/chùa từ thời Lê - Mạc; trước
đó (thời Bắc thuộc cho đến Lý - Trần, ~1500 năm) không
thấy dấu tích của sự chuyển tiếp từ nhà sàn Đông Sơn. Đối
chiếu đầu đao của đình/chùa Việt với mái nhà Tongkonan/
nhà Jabu (Indonesia) cũng không thấy sự tương tự nào về
cấu trúc hay chi tiết.
Có thể vì phải thường xuyên đối phó với VH Trung Hoa
trong ~2.000 năm nên VH kiến trúc của người Việt đã biến
đổi khác hẳn so với nguyên gốc? Có thể kiểu nhà Đông Sơn
đã bị triệt hạ trong suốt 1.000 năm Bắc thuộc, nên đến thời
Lý - Trần thì đã hoàn toàn mai một và không thể phục hồi
được nữa? Nhưng chúng ta vẫn tự hào là đã không bị Hán
hóa (thậm chí còn Việt hóa cả người Tàu sang cai trị) - thì
sự đột biến/đứt mạch VH với thời dựng nước sẽ được lý giải
như thế nào?
Sự song hành Đất và Nước đã được cài đặt ngay từ
nguồn gốc tộc Việt. Đất có thể được ưu tiên vì luôn gắn bó
với người Việt từ khi còn ở rừng núi. Nhưng tâm thế sợ nước/
lệ thuộc vào nước/nương theo nước hẳn đã hình thành từ
thời kỳ Đại hồng thủy trước đó - khi biển dâng lên rất cao,
Nước đã hiện diện ở mọi nơi và rất dữ dội (truyền thuyết
cho Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều có khả năng
đi lại dưới nước như ở trên cạn). Đến thời Hùng Vương thì
biển thoái, Đất được đề cao trong khi sức mạnh và vị thế của
Nước cũng giảm dần. Đến khi đồng bằng đã ổn định và mở
rộng - thì Đất trở thành yếu tố nền tảng (của Tam tài), còn
Nước là yếu tố tác động/ràng buộc (theo Ngũ hành).
Sự đột biến ấy chắc chắn chưa diễn ra trong giai đoạn
258-111 TCN khi Lạc Việt và Âu Việt hợp thành Âu Lạc - vì
cùng gốc Bách Việt. Sau 18 đời vua Hùng, nước Văn Lang
đã đạt cực thịnh thì tất yếu phải suy - nên việc chuyển sang
Âu Lạc là bối cảnh tích cực để tiếp tục phát triển. Lãnh thổ
mở rộng đến phía Nam Trung Hoa; kinh đô chuyển từ Phong
Châu về Cổ Loa (ở trung tâm), việc khai phá châu thổ được
đẩy mạnh. Âu Lạc (và sau đó là Nam Việt) chỉ tồn tại ~150
năm thì không đủ để tạo ra những đột biến, càng không thể
xóa bỏ thành quả >2.500 năm của Văn Lang. Sự đứt mạch
VH phải diễn ra qua nhiều thế hệ, và đó là hậu quả của
~1.000 năm Bắc thuộc, với chính sách đồng hóa trên nhiều
phương diện nhằm tiêu diệt sinh khí và triệt hạ tinh hoa của
người Việt. Ví dụ: Sĩ Nhiếp bắt dùng chữ Hán thay cho chữ
“khoa đẩu” bản địa; Cao Biền trấn yểm huyệt mạch địa lý ở
các nơi; Mã Viện tịch thu và tiêu hủy trống đồng, rìu đồng;
đưa người sang sinh sống để “thay máu” dân tộc,..
- Vị Thổ: người Việt luôn đề cao vai trò của yếu tố đất nói
chung (địa lý phong thủy và Tam tài/Thiên - Địa - Nhân), cũng
như coi trọng sự gắn bó gần gũi với đất trong từng ngữ cảnh
cụ thể (địa hình/địa thế/địa điểm). Vận mệnh con người/quốc
gia đều gắn liền với đất (thế đất -> long mạch -> địa linh
nhân kiệt); mọi việc trồng trọt, chăn nuôi, cư trú (thổ canh,
thổ cư) đều cần có ruộng/đất (điền thổ); người chết cũng cần
có đất để chôn cất (địa táng/nghĩa địa); “không tấc đất cắm
dùi” -> không có tài sản; làm nhà đụng chạm đến đất thì phải
có lễ “động thổ”; Thổ công/ông Địa tuy là thần linh cấp thấp,
nhưng thân thiện và có ban thờ riêng; Thiên thời + Địa lợi
+ Nhân hòa là điều kiện để thành công. Trong cấu trúc của
Ngũ hành (học thuyết về sự vận động của thế giới) thì hành
Thổ luôn được đặt ở vị trí trung tâm (trung hòa giữa nước và
lửa, hữu cơ và vô cơ), và Thổ khắc Thủy (cho nên đảo có ở
Nhưng có lẽ những tiền đề của sự đứt đoạn như vậy đã
manh nha ngay từ thời Âu Lạc. Nhiều khả năng là kiểu nhà
(xem tiếp trang 40)
T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG
36
Bạn đang xem tài liệu "Đất và nước trong quá trình định cư của người Việt cổ ở đồng bằng sông Hồng (Giải mã từ góc độ địa - văn hóa)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dat_va_nuoc_trong_qua_trinh_dinh_cu_cua_nguoi_viet_co_o_dong.pdf