Tiểu luận Công nghệ sau thu hoạch - Chủ đề: Quy trình thu hoạch, bảo quản hạt lúa nhằm giảm tối đa tổn thất sau thu hoạch

BỘ CÔNG THƯƠNG  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM  
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM  
   
TIỂU LUẬN  
CÔNG NGHỆ SAU THU HOẠCH  
CHỦ ĐỀ: QUY TRÌNH THU HOẠCH, BẢO QUẢN HẠT LÚA  
NHẰM GIẢM TỐI ĐA TỔN THẤT SAU THU HOẠCH  
Giáo viên hướng dẫn : HOÀNG THỊ TRÚC QUỲNH  
Nhóm thực hiện: Nhóm 13  
1.  
2.  
3.  
4.  
5.  
Nguyễn Chi Bảo Hân  
Nguyễn Quốc Bảo  
Đỗ Như Hiền  
2005140134  
2005140021  
2005140156  
2005140164  
2005140215  
Phan Chánh Hiệp  
Phan Trần Anh Huy  
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 10 Năm 2016  
MỤC LỤC  
1
2
LỜI MỞ ĐẦU  
Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới. Đối với người Việt  
chúng ta cây lúa không chỉ một loại cây lương thực quý mà còn là một biểu trưng trong  
văn chương ẩn dưới “bát cơm”, “hạt gạo”  
Việt Nam, một nước nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước  
thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp  
của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước  
mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước  
ta là một trong những ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng đạt được những  
thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Nước ta  
không thể đứng đầu thế giới, không phải thiếu diện tích đất trồng mà do không kịp thời nắm  
bắt khoa học kỹ thuật hiện đại. Cùng với việc sản xuất bảo quản lúa sau thu hoạch chỉ  
dựa vào kinh nghiệm của cha ông để lại nên đã gây những tổn thất đáng kể, dẫn đến số  
lượng chất lượng không được đảm bảo  
Với những tài liệu, thông tin trên sách báo và internet, nhóm chúng em đã tổng hợp  
được “QUY TRÌNH THU HOẠCH, BẢO QUẢN HẠT LÚA NHẰM GIẢM TỐI ĐA  
TỔN THẤT SAU THU HOẠCH. Nếu thiếu sót gì mong cô và các bạn góp ý  
3
 
A. TỔNG QUAN VỀ HẠT LÚA  
Họ: Poaceae/Gramineae (Hòa thảo)  
Phân họ: Oryzoideae  
Tộc: Oryza  
Loài: Oryza sativar L  
I. Nguồn gốc lịch sử phát triển  
Cây lúa là một trong những cây trồng lâu đời nhất trên thế giới. Từ những cây lúa  
hoang mọc ở các vùng đầm lầy ven song, con người đã dần dần thuần hóa và tạo nên cây  
lúa trồng ngày nay. Tổn tại rất nhiều những ý kiến, những học thuyết khác nhau về sự xuất  
hiện khác nhau về nguồn gốc cây lúa. Nhiều ý kiến cho rằng cây lúa có nguồn gốc từ Chấu  
Á và xuất hiện cách đây khoảng 8000 năm. Người ta tìm thấy dấu vết của giống lúa cổ tại  
ba địa điểm Đông Nam Á; vùng Assam(Ấn Độ); vùng biên giới Thái Lan – Myanma và  
vùng trung du Tây Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, gần đây các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm  
thấy những hạt lúa nguyên thủy cùng các nông cụ cổ có niên đại khoảng 9000 năm. Đầu  
tiên, lúa được trồng ở Châu Á. Sau đó những người du mục Ả Rập mang chúng đến Hy Lạp  
cổ đại, từ đây Alexender đại đế mang chúng đến Ấn Độ bắt đầu đi khắp thế giới. một  
số ý kiến khác về nguồn gốc cây lúa châu Á, xuất từ vùng Assam (Ấn Độ), giống lúa O.  
sativa dần tiến hóa thành giống O. sativa India thích ứng với khí hậu khô hạn đặc trưng của  
khí hậu vùng này. Sau này, giống này phát tán dần về phía Đông Bắc qua Nepal, Myanma  
di chuyển theo bờ biển lên hạ lưu song Dương Tử tiến hóa thành giống lúa O. sativa  
Japoinica.  
Cây lúa trồng phát triền ở Châu Á được phát tán trên khắp thế giới bắng nhiều con  
đường khác nhau. Lúa O.sativa Indica từ Ấn Độ phát tán trên khắp thế giới qua các nước  
nước Trung Đông, Bắc Phi và phát triển tại Châu Âu( thời điểm khoảng 1000 năm trước  
công nguyên). Từ một con đường khác, lúa Châu Á từ Ấn Độ được phát tán đến vùng Đông  
Phi. Cây lúa trồng ở Tây Phi ngày nay lại không xuất phát từ Châu Á mà lại nhận từ các  
giống lúa phát triển ở từ Châu Âu. Cây láu đến vùng Nam Mỹ nhờ người Châu Âu, những  
người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã đem các giống lúa Châu Âu đến cho người Nam  
Mỹ. Sau đó, cây láu được du nhập vào nước Mỹ một cách có chọn lọc từ các nước thuộc  
vùng Nam Á và Đông Á. Ngày nay các nước phát triển trên một bình diện rộng khắp thế  
4
   
giới với khoảng 100 quốc gia trồng lúa. Vùng trong và tiêu thụ lúa chính vẫn là Châu Á, là  
nơi gạo đóng một vai trò không thể thay thế trong đời sống hàng ngày. Ba nước xuất  
khẩu gạo lớn nhất trên thế giới là Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc. Ở Việt Nam lúa được  
trồng ở cả ba miền với nhiều giống khác nhau, phổ biến nhất giống lai năng suất cao,  
kháng sâu bệnh tốt. Vùng trồng lúa lớn nhất Việt Nam là đồng bằng Sông Hồng đồng  
bằng Sông Cửu Long  
II.  
Cấu tạo của hạt lúa  
1. Vỏ lúa  
Vỏ lúa gồm 2 vỏ trấu ghép lại (trấu lớn trấu nhỏ). Ở gốc 2 vỏ trấu chổ gắn vào đế  
hoa có mang hai tiểu dĩnh. Phần vỏ chiếm khoảng 20% trọng lượng hạt lúa.  
Hình : Cấu tạo hạt lúa  
2. Hạt lúa  
Bên trong vỏ lúa là hạt gạo. Hạt gạo gồm 2 phần:  
- Phần phôi hay mầm (embryo): nằm ở góc dưới hạt gạo, chổ đính vào đế hoa, ở về  
phía trấu lớn.  
- Phôi nhũ: chiếm phần lớn hạt gạo chứa chất dự trữ, chủ yếu là tinh bột (phần gạo  
chúng ta ăn hàng ngày). Bên ngoài hạt gạo được bao bọc bởi một lớp vỏ lụa mỏng chứa  
nhiều vitamin, nhất là vitamin nhóm B. Khi xay xát (giai đoạn chà trắng) lớp nầy tróc ra  
thành cám mịn.  
5
     
Hình: Cấu tạo hạt lúa  
3. Sự nảy mầm của hạt lúa  
Hạt lúa trong khi bảo quản vẫn còn chứa một lượng nước nhất định từ 12-14% trọng  
lượng khô. Khi ngâm trong nước, hạt hút nước trương lên, ẩm độ trong hạt gia tăng đến  
25% thì có thể nẩy mầm được. Khi ấy tinh bột trong phôi nhũ bị phân giải thành những chất  
đơn giản để cung cấp cho mầm phát triển. Thời gian hút nước nhanh hay chậm tùy theo hạt  
giống cũ hay mới, vỏ trấu mỏng hay dầy, nhiệt độ nước ngâm cao hay thấp. Nói chung,  
nhiệt độ không khí cao, nước ấm, hạt giống cũ hay vỏ hạt mỏng dễ thấm nước thì hạt hút  
nước nhanh, mau đạt tới ẩm độ cần thiết. Ngâm quá lâu, hạt hút nhiều nước, các chất dinh  
dưỡng hòa tan và khuyếch tán ra ngoài môi trường làm tiêu hao chất dự trữ trong phôi nhũ,  
đồng thời làm cho nước ngâm bị chua, hạt bị thối nẩy mầm yếu. Hàm lượng nước trong  
hạt thích hợp cho quá trình nẩy mầm biến thiên từ 30-40% tùy điều kiện nhiệt độ. Nhiệt độ  
thích hợp cho hạt lúa nẩy mầm từ 27-370C. Nhiệt độ thấp hoặc cao hơn khoảng nhiệt độ  
này, hạt lúa sẽ nẩy mầm yếu thời gian nẩy mầm kéo dài.  
Trong điều kiện nhiệt độ ẩm độ thích hợp thì mầm lúa sẽ phát triển xuyên qua vỏ  
trấu xuất hiện ra ngoài: hạt nẩy mầm (germination). So với nhiều hạt giống khác thì hạt  
lúa nẩy mầm cần ít oxy hơn. Trong điều kiện bình thường, sau khi mầm hạt phá vở vỏ trấu  
thì rễ mầm sẽ mọc ra trước, rồi mới đến thân mầm. Tuy nhiên, nếu bị ngập nước (môi  
trường yếm khí) thì thân mầm sẽ phát triển trước. Khi lá đầu tiên xuất hiện, thì các rễ thứ  
cấp sẽ bắt đầu xuất hiện để giúp cây lúa bám chặt vào đất, hút nước và dinh dưỡng  
6
 
Hình: Các thời kỳ nảy mầm của hạt lúa  
III. Vai trò của hạt lúa  
Trên thế giới, cây lúa được 250 triệu nông dân trồng, lương thực chính của 1,3 tỉ  
người nghèo nhất trên thế giới, là sinh kế chủ yếu của nông dân. Là nguồn cung cấp năng  
lượng lớn nhất cho con người, bình quân 180 – 200 kg gạo/ người/ năm tại các nước châu á,  
khoảng 10 kg/ người/ năm tại các nước châu Mỹ.  
Ở Việt Nam, dân số trên 80 triệu và 100% người Việt Nam sử dụng lúa gạo làm  
lương thực chính.  
Sản phẩm chính của cây lúa  
Sản phẩm chính của cây lúa là gạo làm lương thực. Từ gạo thể nấu cơm, chế biến  
thành các loại món ăn khác như bánh đa nem, phở, bánh đa, bánh chưng, bún, rượu. Ngoài  
ra còn bánh rán, bánh tét, bánh giò và hàng chục loại thực phẩm khác từ gạo  
Sản phẩm phụ của cây lúa  
- Tấm: sản xuất tinh bột, rượu cồn, Aceton, phấn mịn thuốc chữa bệnh.  
- Cám : Dùng để sản xuất thức ăn tổng hợp; sản xuất vitamin B1 để chữa bệnh tê  
phù, chế tạo sơn cao cấp hoặc làm nguyên liệu xà phòng.  
- Trấu: sản xuất nấm men làm thức ăn gia súc, vật liệu đóng lót hàng, vật liệu độn  
cho phân chuồng, hoặc làm chất đốt.  
7
 
- Rơm rạ: được sử dụng cho công nghệ sản suất giày, các tông xây dựng, đồ gia  
dụng( thừng, chão, mũ, giày dép, hoặc làm thức ăn cho gia súc, sản xuất nấm…  
Như vậy, ngoài hạt lúa là bộ phận chính làm lương thực, tất cả các bộ phận khác của  
cây lúa đều được con người sử dụng phục vụ cho nhu cầu cần thiết, thậm chí bộ phận rễ lúa  
còn nằm trong đất sau khi thu hoạch cũng được cày bừa vùi lấp làm cho đất tơi xốp, được vi  
sinh vật phân giải thành nguồn dinh dưỡng bổ sung cho cây trồng vụ sau.  
B. KHÁT QUÁT QUY TRÌNH TRỒNG LÚA  
I. Quy trình  
1. Chuẩn bị đất  
Đối với vụ Đông xuân:  
- Dọn sạch cỏ.  
- Trục đánh bùn và san bằng mặt ruộng bằng máy cày bánh lồng.  
Đối với vụ Hè thu:  
- Cày đất bằng máy với độ sâu từ 15-20 cm.  
- Phơi ải trong thời gian 1 tháng.  
- Bừa, trục và san bằng mặt ruộng bằng máy kéo bánh lồng có công cụ trang phẳng  
mặt ruộng kèm theo.  
- Sử dụng máy kéo liên hợp với máy phay hoặc bánh lồng trục bùn. Tuỳ theo diện  
tích ruộng lớn hay nhỏ mà dùng máy kéo lớn, trung bình hoặc nhỏ.  
Chú ý: Ruộng phải bằng phẳng, hệ thống thoát nước tốt và không đọng nước.  
2. Gieo sạ  
Chuẩn bị hạt giống  
- Làm sạch hạt lúa trước khi ngâm ủ bằng cách ngâm hạt trong nước muối 15% trong  
thời gian 5-10 phút, loại bỏ hạt lép lửng lẫn tạp.  
- Sau đó, cho vào bao ngâm trong nước sạch 30 giờ.  
- Rửa bằng nước sạch, để ráo nước, ủ trong 24 giờ đảm bảo hạt vừa nhú mầm.  
- Xử hạt giống trước khi gieo bằng Regent hoặc Carban 3%.  
Chú ý: Trước khi gieo sạ 6 giờ, không nên tưới nước cho hạt giống để dễ gieo sạ.  
Biện pháp gieo sạ  
- Gieo hàng bằng công cụ gieo hàng kéo tay hoặc liên hợp với máy kéo.  
8
       
- Lượng hạt giống gieo: 100-120 kg/ha.  
- Khoảng cách gieo: hàng cách hàng 20 cm.  
Chú ý: Lượng hạt giống cho vào trống của công cụ gieo hàng chỉ bằng 2/3 thể tích  
trống và trách làm ướt bên trong trống để hạt ra đều.  
3. Bón phân  
- Bón phân cân đối giữa đạm, lân và kali.  
- giai đoạn để nhánh và làm đòng, sử dụng bảng so màu lá để điều chỉnh lượng  
phân đạm cần bón.  
4. Quản nước  
- Giai đoạn cây con: rút cạn nước trước khi sạ giữ khô mặt ruộng trong vòng 3  
ngày sau khi sạ, ngày thứ 4 cho nước láng mặt ruộng 1 ngày sau đó rút cạn để đảm bảo đủ  
ẩm bề mặt ruộng.  
- Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Sau khi sạ được 7-10 ngày, bắt đầu cho nước từ  
từ vào ruộng giữ nước trên mặt ruộng ở mức 5-7 cm. Trong giai đoạn này, thay nước  
trong ruộng lúa từ 2-3 lần, sau mỗi lần thay nước giữ cạn trong 2-3 ngày.  
- Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Giữ nước trong ruộng ở mức 3-5 cm.  
- Giai đoạn chín: Giữ nước trong ruộng ở mức 2-3 cm cho đến giai đoạn chín vàng  
(7-10 ngày trước khi thu hoạch) tháo cạn nước trong ruộng.  
5. Phòng trừ cỏ dại và sâu, bệnh hại  
Tùy từng giai đoạn thích hợp sử dụng các biện pháp hóa học, sinh hoc,… để tiêu  
diệt các loại cỏ dại và sâu bênh hại  
II.  
Các yếu tố ảnh hưởng đến đời sống cây lúa  
1. Nước  
Cây lúa sống trong ruộng nước, là cây cần ưa nước điển hình nên từ “lúa nước”  
bao giờ cũng gắn liền với cây lúa. Ở nước ta đại bộ phận ruộng lúa đều tưới ngập nước, tuy  
nhiên cũng những giống lúa có khả năng chịu hạn (lúa cạn, lúa nương...) sinh trưởng  
hoàn toàn phụ thuộc vào nước trời, nhưng năng suất không cao bằng lúa nước. Lại những  
giống lúa chịu được nước sâu, vùng Ðồng Tháp Mười những giống lúa cổ truyền thể  
9
         
chịu ngập sâu đến 3 mét. Nước là thành phần chủ yếu của cây lúa, nếu lấy 100g lá lúa tươi  
đem sấy thì lượng lá khô chỉ còn lại 12g (còn 88g là lượng nước bốc hơi), đem phần lá khô  
đốt cháy hoàn toàn thì lượng tro còn lại là 1,5g. Với 88% trọng lượng cây lúa, nước là thành  
phần chủ yếu cực kỳ quan trọng đối với đời sống cây lúa. Nước điều kiện để thực hiện  
các quá trình sinh lý trong cây lúa, đồng thời cũng là môi trường sống của cây lúa, là điều  
kiện ngoại cảnh không thể thiếu được đối với cây lúa. Nước một trong những nguồn vật  
liệu thô để chế tạo thức ăn, vận chuyển thức ăn lên xuống trong cây, đến những bộ phận  
khác nhau của cây lúa. Bên cạnh đó lượng nước trong cây lúa và nước ruộng lúa là yếu tố  
điều hòa nhiệt độ cho cây lúa cũng như quần thể, không gian ruộng lúa. Nước cũng góp  
phần làm cứng thân và lá lúa, nếu thiếu nước thân lá lúa sẽ khô, lá lúa bị cuộn lại rủ  
xuống, còn nếu cây lúa đẩy đủ nước thì thân lá lúa sẽ đứng, bản mở rộng. Nhu cầu về  
nước qua các thời kỳ sinh trưởng phát triển của cây lúa cũng khác nhau:  
- Thời kỳ nảy mầm: hạt lúa khi bảo quản thường phải giữ độ ẩm 13%, khi ngâm ủ hạt  
thóc hút nước đạt 22% thì có thể hoạt động nảy mầm tốt khi độ ẩm ðạt 25-28%. Những  
giống lúa cạn lại được gieo khô khi đất đủ ẩm hoặc trời mưa nước mới nảy mầm mọc  
được.  
- Thời kỳ mạ: từ sau gieo đến mạ mũi chông thì chỉ cần giữ ruộng đủ ẩm. Trong điều  
kiện như vậy rễ lúa được cung cấp nhiều oxy để phát triển nội nhũ cũng phân giải thuận  
lợi hơn. Khi cây mạ được 3-4 lá thì có thể giữ ẩm hoặc để một lớp nước nông cho đến khi  
nhổ cấy.  
- Thời kỳ ruộng cấy: từ sau cấy đến khi lúa chín là thời kỳ cây lúa rất cần nước. Nếu  
ruộng khô hạn thì các quá trình sinh trưởng gặp trở ngại rệt. Ngược lại nếu mức nước  
trong ruộng quá cao, ngập úng cũng không có lợi: cây lúa đẻ nhánh khó, cây vươn dài, yếu  
ớt, dễ bị đổ và sâu bệnh. Người ta còn dùng nước để điều tiết sự ðẻ nhánh hữu hiệu của  
ruộng lúa.  
2. Nhiệt độ  
Cây lúa xuất xứ từ vùng nhiệt đới nên điều kiện khí hậu nóng ẩm điều kiện thuận  
lợi cho cây lúa phát triển. Lúa là loại cây ưa nóng, để hoàn thành chu kỳ sống, cây lúa cần  
một lượng nhiệt nhất ðịnh. Trong điều kiện trồng lúa ở nước ta, thường những giống ngắn  
ngày cần một lượng tổng tích ôn là 2.500-3.0000C, giống trung ngày từ 3.000-3.5000C,  
10  
 
giống dài ngày từ 3.500-4.5000C. Trong quá trình sinh trưởng, nếu nhiệt độ cao cây lúa  
nhanh đạt được tổng nhiệt độ cần thiết thì sẽ ra hoa và chín sớm hơn, tức là rút ngắn thời  
gian sinh trưởng. Nếu nhiệt độ thấp thì ngược lại. Ðối với vụ chiêm xuân ở nước ta, các  
giống lúa ngắn ngày là những giống mẫn cảm với nhiệt độ (giống cảm ôn) nên thời gian  
sinh trưởng dễ biến động theo nhiệt độ hàng năm và theo mùa vụ cấy sớm hay muộn, vậy  
việc dự báo khí tượng trong vụ chiêm xuân cần phải được coi trọng và chú ý theo dõi để bố  
trí cơ cấu mùa vụ cho thích hợp, tránh để trường hợp khi lúa trỗ gặp rét. Với vụ mùa thì điều  
kiện nhiệt độ tương đối ổn định nên thời gian sinh trưởng của các giống lúa cấy trong vụ  
mùa ít thay đổi. Cây lúa yêu cầu nhiệt độ khác nhau qua các thời kỳ sinh trưởng:  
- Thời kỳ nảy mầm: nhiệt độ thích hợp nhất đối với quá trình nảy mầm là 30-350C,  
ngưỡng nhiệt độ giới hạn thấp nhất là 10-120C và cao nhất là 400C không có lợi cho quá  
trình cảy mầm và phát triển của mầm.  
- Thời kỳ mạ: nhiệt độ thích hợp cho cây mạ phát triển là 25-300C. Với vụ hè thu và  
vụ mùa nói chung nhiệt độ thích hợp cho cây mạ phát triển. Với vụ chiêm xuân ở miền Bắc  
nước ta thì diễn biến thời tiết phức tạp, nếu gieo mạ sớm hoặc những năm trời ấm kéo dài  
thường hiện tượng mạ già, mạ ống; những năm giai đoạn mạ gặp trời rét, cây mạ có  
thể bị chết rét. Ðể chống rét cho mạ, hiện nay người ta dùng biện pháp kỹ thuật che phủ  
nilông cho mạ biện pháp chống rét hữu hiệu nhất.  
- Thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng: nhiệt độ thích hợp nhất là 25-320C. Nhiệt độ thấp dưới  
160C hay cao hơn 380C đều không thuận lợi cho việc đẻ nhánh, làm đòng của cây lúa. Diễn  
biến phức tạp của nhiệt độ trong vụ chiêm xuân ở miền Bắc cũng nhiều bất thuận cho  
thời kỳ này.  
- Thời kỳ trỗ bông, làm hạt: đây thời kỳ cây lúa mẫn cảm nhất với điều kiện ngoại  
cảnh, nhất nhiệt độ. Thời kỳ này yêu cầu nhiệt độ tốt nhất từ 28-300C. Với ngưỡng nhiệt  
độ này, vụ chiêm xuân các tỉnh phía Bắc nếu không bố trí cơ cấu mùa vụ thích hợp thì  
thời gian trỗ dễ gặp lạnh. Trong ðiều kiện cây lúa nở hoa, phơi màu, thụ tinh nếu gặp nhiệt  
độ thấp (dưới 170C) hoặc quá cao (trên 400C) đều không có lợi. Khi gặp rét hoặc nhiệt độ  
quá cao hạt phấn mất sức nảy mầm, không thụ phấn thụ tinh được làm tỉ lệ lép cao. Thời kỳ  
làm hạt nếu gặp rét, quá trình vận chuyển vật chất về hạt kém, trọng lượng hạt giảm cũng  
ảnh hưởng đến năng suất lúa.  
11  
3. Ánh sáng  
Cũng giống như yếu tố nhiệt độ, cây lúa có nguồn gốc nhiệt đới nên nó là cây ưa  
sáng và mẫn cảm với quang chu kỳ (độ dài ngày). Giống như đại đa số các cây trồng khác,  
cường độ ánh sáng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động quang hợp tạo năng suất lúa. Ðặc  
biệt với một số giống lúa địa phương trung và dài ngày, chu kỳ chiếu sáng có tác động đến  
quá trình làm đòng, ra hoa (gọi những giống phản ứng quang chu kỳ hay là giống cảm  
quang). Về cường ðộ ánh sáng do bức xạ mặt trời chiếu xuống mặt đất thì ánh sáng mà ta  
nhìn thấy được loại ánh sáng có tác dụng cho quá trình quang hợp của cây lúa. Cường độ  
ánh sáng thay đổi theo vĩ độ địa lý, theo thời gian trong năm thời gian trong ngày. Trong  
ngày, cường độ ánh sáng đạt cực đại vào khoảng 11-13 giờ trưa, còn ở thời điểm 8-9 giờ  
sáng và 15-16 giờ chiều thì cường độ ánh sáng chỉ bẳng ½ thời điểm cực đại trong ngày.  
Trong năm, với các tỉnh phía Nam và Nam Trung bộ thì cường độ ánh sáng phân bổ đồng  
đều không có biến đổi nhiều, riêng đối với các tỉnh phía Bắc Bắc Trung bộ thì cường ðộ  
ánh sáng khá đầy đủ trong vụ mùa, riêng vụ đông xuân thì giai đoạn mạ, cấy đẻ nhánh  
thời tiết thường âm u, rét kéo dài, cường độ ánh sáng không đầy đủ, đến tháng 4-5 trở đi có  
nắng ấm và ánh sáng tương đối đầy đủ nên lúa xuân bắt đầu sinh trưởng thuận lợi. Về thời  
gian chiếu sáng (độ dài ngày): thời gian chiếu sáng và bóng tối trong một ngày đêm (gọi là  
quang chu kỳ) có tác dụng rệt đến quá trình phân hóa đòng trỗ bông. Nếu không có  
điều kiện chiếu sáng phù hợp thì cây lúa không thể ra hoa kết quả được. Nếu các cây trồng  
hàng nãm phân chia làm 3 loại theo đặc tính phản ứng quang chu kỳ (loại phản ứng ánh  
sáng dài ngày, loại phản ứng ánh sáng ngắn ngày và loại phản ứng trung tính với ánh sáng)  
thì cây lúa thuộc nhóm cây ngày ngắn, chỉ đòi hỏi thời gian chiếu sáng dưới 13 giờ/ngày.  
Với thời gian chiếu sáng từ 9-10 giờ/ngày có tác dụng rệt đối với việc xúc tiến quá trình  
làm đòng, trỗ bông của cây lúa. Tuy nhiên mức độ phản ứng với quang chu kỳ còn phụ  
thuộc vào giống và vùng trồng. Ở nước ta, một số giống lúa mùa địa phương phản ứng  
rất với quang chu kỳ, đem các giống này cấy vào cụ chiêm xuân lúa sẽ không ra hoa.  
Thường các giống lúa ngắn ngày có phản ứng yếu hoặc không phản ứng với quang chu kỳ  
thì có thể gieo cấy vào mọi thời vụ trong năm.  
C. QUY TRÌNH THU HOẠCH  
Thông thường trong ruộng lúa, toàn bộ các bông lúa không thể chín hoàn toàn cùng  
một thời điểm, vì có bông lúa trỗ trước thì chín trước, bông lúa trỗ sau thì chín sau. Thậm  
12  
   
chí trong cùng một bông lúa, các hạt ở đầu bông chín trước, các hạt ở cuối bông chín sau.  
Hạt lúa các nhánh gié cấp I chín trước, hạt lúa nhánh giéo cấp II chín sau… Vì thế,  
không thể chờ tất cả các hạt lúa của bông lúa và các bông lúa trong ruộng lúa đều chín hoàn  
toàn mới thu hoạch, chỉ cần khoảng 85% số bông lúa có khoảng 80% số hạt chắc trên  
bông đã chín (màu hạt chín đặc trưng của giống lúa) và hầu hết các hạt chắc ở cổ bông lúa  
đã chín sáp là có thể thu hoạch được. Thu hoạch lúa có hai phương thức cơ bản là thu thủ  
công hay thu bằng máy móc. Thu thủ công là phương thức cổ truyền và thích hợp với mọi  
tình trạng của ruộng lúa như: Lúa đứng, lúa ngã, diện tích ruộng lớn hay nhỏ, nhưng năng  
suất thu hoạch thấp, hao hụt nhiều bị áp lực nhân công thời vụ. Thu hoạch bằng máy thì  
năng suất lao động cao, nhưng chỉ áp dụng được ở những chân ruộng đất khô hoặc không bị  
lún... Cho nên, tùy theo điều kiện nơi trồng lúa, tùy theo tình trạng ruộng lúa, chúng ta lựa  
chọn phương thức thu hoạch lúa cho phù hợp để tăng năng suất lao động, góp phần hạ giá  
thành sản phẩm  
I. Xác định các thời kì chín của lúa  
Muốn xác định được thời điểm thu hoạch lúa, chúng ta cần tìm hiểu các thời kỳ chín  
của lúa để biện pháp theo dõi, đánh giá và kết luận chính xác thời điểm thu hoạch. Người  
ta chia giai đoạn chín của lúa thành ba thời kỳ nhỏ là chín sữa, chín sáp và chín hoàn toàn  
như sau:  
1. Xác định thời kì chín sữa  
Sau khi hoa lúa nở 7-10 ngày, những hoa lúa đã được thụ phấn chất dự trữ bên  
trong vỏ trấu dạng lỏng, màu trắng đục giống như sữa. Hình dạng hạt gạo đã hoàn thành,  
vỏ hạt gạo có màu xanh. Khối lượng hạt tăng nhanh, có thể đạt 70-80 % khối lượng cuối  
cùng của hạt, đó thời kỳ chín sữa  
13  
   
Hình : Hạt lúa giai đoạn chín sữa  
Toàn thể ruộng lúa lúc này đang ở giai đoạn chín sữa. Thời kỳ chín sữa kết thúc thì  
lượng chất khô trong hạt là 25%, lượng nước trong hạt là 75%  
Hình : Ruộng lúa giai đoạn chín sữa  
2. Xác định thời kì chín sáp  
Thời kỳ chín sáp kéo dài 7-10 ngày, vỏ hạt lúa vẫn có màu xanh  
14  
 
Hình : Vỏ hạt lúa vẫn có màu xanh  
Chất dịch lỏng trong hạt gạo dần dần đặc lại, hạt gạo cứng dần lên, vỏ hạt gạo vẫn có  
màu xanh, nhưng vỏ ở lưng hạt gạo chuyển sang màu nâu nhạt  
Hình : Hạt gạo cứng dần lên  
Khối lượng hạt gạo tiếp tục tăng lên, lượng chất khô trong hạt đạt 50%, lượng nước  
trong hạt giảm dần còn 50%. Đó thời kỳ chín sáp  
Hình : Khối lượng hạt gạo tiếp tục tăng  
Ruộng lúa giai đoạn chín sáp. Cuối giai đoạn chín sáp, các hạt lúa ở đầu bống lúa  
đã chuyển sang màu chín đặc trưng của giống lúa  
15  
Hình : Ruộng lúa ở thời kỳ chín sáp  
3. Xác định thời kì chín hoàn toàn  
Thời kỳ này kéo dài 7-10 ngày, vỏ trấu chuyển sang màu vàng sáng hoặc màu sắc  
chín đặc trưng của giống, chất khô trong hạt tăng đến 75%, lượng nước trong hạt giảm còn  
25%. Khối lượng hạt gạo đạt tối đa  
Hình : Ruộng lúa ở thời kì chin hoàn toàn  
II.  
Xác định độ chín của lúa  
Để biết được chính xác độ chính của lúa, ta có thể xác định bằng cách quan sát trực  
tiếp trên đồng ruộng. Sau khi lúa trỗ được 25 ngày thì quan sát trực tiếp thường xuyên hàng  
ngày trên ruộng lúa. Khi nào trên ruộng lúa có khoảng 85% số bông lúa trong ruộng lúa có  
khoảng 80% số hạt chắc trên bông đã chín là thu hoạch được.  
III. Xác định thời tiết, khí hậu  
Nếu dự báo thời tiết của đài khí tượng thủy văn mưa, gió lớn đúngngày xác định  
thu hoạch thể thu sớm hoặc trễ vài ngày để thu hoạch đỡ gặp phải thời tiết xấu. Thậm chí  
16  
     
tránh lũ phải thu sớm cả tuần. Mặc năng suất bị giảm, còn hơn bị lũ nhấn chìm. Hoặc trời  
mưa gió lớn thể để trễ vài ngày, vẫn hơn là thu đúng ngày mưa sẽ bị thất thoát lớn.  
IV. Xác định ngày thu hoạch  
Nếu thu hoạch sau khi hạt lúa đã chín hoàn toàn, thất thoát do tỷ lệ rụng hạt khoảng  
4,5%. Nếu thu hoạch sau 20 ngày lúa đã chín hoàn toàn, tỷ lệ rụng hạt lên đến 20%. Tỷ lệ  
này cũng còn tùy thuộc vào giống. Những giống dễ rụng hạt, tỷ lệ rụng thể nhiều hơn.  
Chính vậy phải xác định thời điểm thu hoạch cho phù hợp để giảm tối đa thất thoát sau thu  
hoạch. Khi xác định ngày thu hoạch, chúng ta nên chọn ngày không mưa.  
V. Xác định phương thức thu hoạch  
Tùy vào tình trạng đồng lúa và điều kiện vùng trồng lúa ta có thể lựa chọn phương  
thức thu hoạch lúa thích hợp để tránh tổn thất thấp nhất để góp phần tăng năng suất lao  
động hạ giá thành sản phẩm. Do đó ta có thể quyết định thu hoạch lúa bằng liềm,bằng  
máy gặ txếp dãy hay máy gặt đập liên hợp  
VI. Thu hoạch lúa  
1. Cắt lúa  
Là công việc dùng dụng cụ làm tách rời phần trên của cây lúa có mang bông ra khỏi  
thân (gốc) cây lúa. Những dụng cụ này có thể liềm (lưỡi hái) hay máy gặt lúa.  
Cắt lúa bằng liềm  
Liềm cắt lúa  
Cắt lúa bằng liềm  
17  
       
Lúa cắt xong được để gọn thành từng đống nhỏ. Các đống lúa nhỏ được để nối đuôi nhau  
thành các hàng. Sau đó tiến hành cắt bông lúa từ những cây lúa đã cắt để gọn lại thành  
từng đống lúa  
Thân cây lúa đã cắt  
Xén rời bông lúa từ thân cây lúa  
Ưu: Chi phí thấp, hạn chế thất thoát lúa  
Nhược: Đòi hỏi nhiều lao động, tốn thời gian, năng suất kém  
Cắt lúa bằng máy gặt lúa xếp dãy  
Là dùng dụng cụ bộ phận cắt lúa gắn vào động cơ, người ta điều khiển máy gặt cắt  
lúa đã chín, cắt tới đâu lúa ngả ra thành từng dãy (hàng) tới đó  
Hình: Máy gặt lúa xếp dãy  
Ưu điểm:  
Năng suất lao động cao  
18  
Nhược điểm:  
- Cần kỹ thuật cao  
- Cần có máy móc  
- Cần ruộng lúa lúc chín không đổ ngã và chân ruộng khô, không bị lún  
- Diện tích ruộng phải đủ đmáy hoạt động  
Cắt lúa bằng máy gặt đập liên hợp  
Khi thực hiện, người ta điều khiển máy gặt đập liên hợp để vừa cắt lúa,vừa tuốt hạt  
luôn, lúa hạt được chứa vào các bao và xếp ngay trên máy. Khi các bao chứa lúa đã xếp đầy  
chỗ xếp ở trên máy thì đưa các bao lúa lên bờ ruộng  
Hình: Máy gặt đập liên hợp  
Ưu điểm: Năng suất nhân công cao, giảm bớt cả công tuốt lúa  
Nhược điểm:  
- Cần kỹ thuật cao  
- Cần có máy móc  
- Lúc lúa chín bắt buốc chân ruộng lúa phải khô, không bị lún  
- Diện tích ruộng phải đủ đcho máy hoạt động  
2. Gom lúa bông  
động tác gom gọn lúa bông đã được cắt để mang đi nơi khác tuốt hạt hay gom để tuốt hạt  
ngay tại ruộng  
19  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 32 trang yennguyen 04/04/2022 7980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Công nghệ sau thu hoạch - Chủ đề: Quy trình thu hoạch, bảo quản hạt lúa nhằm giảm tối đa tổn thất sau thu hoạch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • doctieu_luan_cong_nghe_sau_thu_hoach_chu_de_quy_trinh_thu_hoach.doc