Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế của một số cơ sở y tế tư nhân tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
SITUATION OF MEDICAL SOLID WASTE MANAGEMENT OF SOME PRIVATE
MEDICAL INSTITUTIONS IN THAI NGUYEN CITY, THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Thi Bich Lien1*, Vi Thuy Linh1, Chu Thanh Huy1, Pham Huyen Trang2
1TNU - University of Sciences
2TNU - Technical economic college
ARTICLE INFO
ABSTRACT
The article analyzes the current situation of medical solid waste
management at 3 medical facilities: Hanoi - Thai Nguyen General
Clinic, Central General Hospital, An Phu General Hospital. The author
uses survey and survey methods to collect information, identify specific
solid waste generated by collecting samples, weighing, measuring and
monitoring the evolution of generated medical solid waste and the
process of treatment of each research facility. Research results show
that the source of medical solid waste generation comes from
professional and daily activities of medical staff and patients' family
members. The volume of daily-life solid waste and hazardous medical
solid waste at medical facilities are different, the volume of hazardous
medical solid waste is much larger than the survey and interview with
medical staff. at each research facility. The collection, storage,
transportation and treatment of medical solid waste are carried out but
not in accordance with the regulations of the Ministry of Health. In
order to well manage medical solid waste at research facilities, it is
necessary to apply a number of solutions synchronously, such as: policy
solutions, economic solutions, treatment technology solutions and
solutions on propaganda and education.
Received:
Revised:
25/4/2021
21/5/2021
01/6/2021
Published:
KEYWORDS
Manage
Solid waste
Medical
Hospital
Thai Nguyen City
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ CỦA MỘT SỐ CƠ SỞ
Y TẾ TƢ NHÂN TẠI THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Bích Liên1*, Vi Thùy Linh1, Chu Thành Huy1, Phạm Huyền Trang2
1Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
2Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - ĐH Thái Nguyên
THÔNG TIN BÀI BÁO
Ngày nhận bài: 25/4/2021
Ngày hoàn thiện: 21/5/2021
Ngày đăng: 01/6/2021
TÓM TẮT
Bài báo phân tích thực trạng quản lý chất thải rắn y tế tại 3 cơ sở y tế:
Phòng khám Đa khoa Hà Nội – Thái Nguyên, Bệnh viện Đa khoa
Trung tâm, Bệnh viện Đa khoa An Phú. Tác giả sử dụng phương pháp
điều tra, khảo sát để thu thập thông tin, xác định chất thải rắn phát sinh
cụ thể bằng cách thu mẫu, tiến hành cân đo và theo dõi diễn biến chất
thải rắn y tế phát sinh và quy trình xử lý của từng cơ sở nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nguồn phát sinh chất thải rắn y tế từ hoạt
động chuyên môn và sinh hoạt của cán bộ y tế, người nhà bệnh nhân.
Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn y tế nguy hại tại các
cơ sở y tế có sự khác nhau, khối lượng chất thải rắn y tế nguy hại là lớn
hơn nhiều so với điều tra, phỏng vấn nhân viên y tế tại mỗi cơ sở
nghiên cứu. Việc thu gom, lưu trữ, vận chuyển và xử lý chất thải rắn y
tế được thực hiện nhưng chưa theo đúng quy định của Bộ Y tế. Để
quản lý tốt chất thải rắn y tế tại các cơ sở nghiên cứu cần áp dụng đồng
bộ một số giải pháp như: giải pháp về chính sách, kinh tế, giải pháp
công nghệ xử lý và giải pháp về tuyên truyền giáo dục.
TỪ KHÓA
Quản lý
Chất thải rắn
Y tế
Bệnh viện
Thành phố Thái Nguyên
* Corresponding author. Email: lienntb@tnus.edu.vn
203
Email: jst@tnu.edu.vn
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
1. Giới thiệu
Chất thải y tế nói chung và chất thải rắn y tế (CTRYT) nói riêng có đặc tính là chứa nhiều yếu tố
nguy hiểm tới con người, môi trường. Việc quản lý và xử lý CTRYT là rất cần thiết. Các kết quả
nghiên cứu trước đây đã đề cập đến vấn đề quản lý CTRYT tại các bệnh viện. Trong [1] nhóm tác
giả đã đưa ra thực trạng quản lý chất thải nguy hại y tế tuyến tỉnh tại Thái Bình. Trong [2] các tác
giả đưa ra thực trạng quản lý CTRYT tại sáu bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh. Trong [3] tác giả nghiên
cứu việc quản lý CTYT tại một số bệnh viện công thuộc tỉnh Tiền Giang. Trong [4] các tác giả chỉ
ra thực trạng quản lý chất thải tại các bệnh viện huyện, tỉnh Yên Bái. Trong những năm gần đây
công tác quản lý CTRYT tại Việt Nam được tiến hành hiệu quả và triệt để hơn. Điều này được thể
hiện trong việc tuân thủ quy trình thu gom, xử lý chất thải rắn tại các cơ sở y tế. Tuy nhiên, chỉ tại
các bệnh viện lớn của nhà nước và số ít các cơ sở chữa bệnh tư nhân với quy mô lớn, hiện đại mới
có sự hiểu biết và phương tiện xử lý hiệu quả. Các cơ sở khám chữa tư nhân khác, đặc biệt là các
phòng khám tư nhân vừa và nhỏ thì công tác quản lý CTRYT còn nhiều hạn chế. Trong [5] các tác
giả đã chỉ ra rằng có sự khác biệt về tỷ lệ phát sinh CTRYT giữa các tuyến bệnh viện, việc thực
hiện công tác quản lý CTRYT tuyến trung ương tốt hơn tuyến tỉnh.
Cùng với các cơ sở y tế công lập, hệ thống các cơ sở y tế tư nhân ở Thành phố Thái Nguyên
thời gian qua hình thành và phát triển nhanh chóng. Điều này cho thấy một vấn đề là sẽ có một
khối lượng lớn chất thải y tế được phát sinh kèm theo. Câu hỏi đặt ra là, công tác quản lý chất
thải rắn y tế diễn ra như thế nào? Liệu có triệt để, an toàn theo những quy trình yêu cầu? Đã có
nghiên cứu [6] về công tác quản lý CTRYT tại bệnh viện đa khoa trung ương Thái Nguyên. Hiện
chưa có nhiều những nghiên cứu về quản lý chất thải y tế cho các cơ sở tư nhân trên địa bàn
thành phố. Vì vậy bài báo này nhằm mục đích đưa ra hiện trạng công tác quản lý CTRYT của
một số cơ sở y tế tư nhân trên địa bàn thành phố.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập số liệu từ các báo cáo, thống kê về công tác phân loại, thu gom, xử lý chất thải rắn y
tế của ba cơ sở nghiên cứu.
2.2. Phương pháp điều tra cơ bản, khảo sát thực địa
Quan sát thực tế hệ thống phân loại, thu gom, lưu trữ, vận chuyển và xử lý chất thải rắn y tế
tại các cơ sở nghiên cứu. Tiến hành điều tra, phỏng vấn cán bộ nhân viên y tế (cả hộ lý) tại các cơ
sở và bệnh nhân, người nhà bệnh nhân. Thiết kế phiếu điều tra cho hai nhóm đối tượng là:
+ Nhóm 1: cán bộ nhân viên y tế, hộ lý trong ba cơ sở nghiên cứu, lựa chọn có chủ đích các
nhân viên theo thực tế nhân sự tại mỗi cơ sở, số lượng 20 phiếu/cơ sở.
+ Nhóm 2: bệnh nhân vào bệnh viện (phòng khám) được hai ngày trở lên và người nhà bệnh
nhân. Lựa chọn ngẫu nhiên theo ngày đến điều tra, mỗi cơ sở phát 10 phiếu phỏng vấn/ngày.
Nội dung: tiến hành phỏng vấn với phiếu hỏi thiết kế sẵn với 2 loại câu hỏi là đóng (70%) và
mở (30%) để đánh giá thực trạng công tác quản lý CTRYT của các cơ sở nghiên cứu; đánh giá
được ý thức và trách nhiệm thực hiện theo quy định phân loại, xử lý CTRYT; đồng thời có hướng
dẫn, lời khuyên đối với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân về việc phân loại theo quy định. Số
lần khảo sát: 3 ngày/ tuần và 1 lần/ ngày.
2.3. Phương pháp xác định rác thải phát sinh
Tiến hành cân đo và theo dõi diễn biến CTRYT phát sinh và quy trình xử lý của từng cơ sở
nghiên cứu. Xác nhận lượng CTRYT được tiến hành tại bộ phận thu gom rác thải của ba cơ sở
nghiên cứu. Lượng CTRYT được xác định theo ngày, diễn biến được ghi lại trong bảng thống kê.
Tần suất 3 ngày/tuần trong vòng 2 tháng (8 tuần/tháng vào thứ 3, thứ 5, thứ 7 và thứ 2, thứ 4, chủ
nhật). Thời điểm tiến hành: vào trước giờ thu gom rác thải y tế của các cơ sở nghiên cứu. Dụng
cụ: cân định lượng 5 kg, 30 kg, 100 kg.
204
Email: jst@tnu.edu.vn
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
2.4. Phương pháp tổng hợp phân tích và xử lý số liệu
Số liệu sơ cấp: lượng rác thải cân được tổng hợp theo ngày sau đó được nhập và tính toán
trung bình trên Excel, Word. Số liệu thứ cấp: thu thập từ báo cáo công tác quản lý và xử lý
CTRYT, vệ sinh môi trường, hồ sơ đăng ký chủ nguồn chất thải nguy hại,…
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Nguồn gốc phát sinh chất thải y tế của ba cơ sở nghiên cứu
Qua bảng 1 cho thấy, chất thải của ba cơ sở y tế được chia thành 5 loại chính, trong đó đáng
chú ý nhất là chất thải nguy hại và chất thải rắn thông thường vì đây là hai nguồn có khả năng
gây ô nhiễm môi trường rất lớn. Nguồn phát sinh chất thải tùy thuộc vào từng khoa chức năng
trong đó chất thải lây nhiễm có nguồn gốc phát sinh chủ yếu từ khám bệnh, khoa lâm sàng, cận
lâm sàng, khoa ngoại, khoa sản, phòng mổ và khoa xét nghiệm, các chất thải sinh hoạt (CTSH)
phát sinh chủ yếu tại các phòng điều trị bệnh nhân và văn phòng.
Bảng 1. Thống kê nguồn phát sinh chất thải y tế tại ba cơ sở nghiên cứu
TT Nguyên liệu thô
PKĐK HN-TN
BVĐKTT
BVĐKAP
Phát sinh từ các hoạt động Phát sinh từ các hoạt động
chuyên môn, từ quá trình chuyên môn, từ quá trình
khám chữa bệnh gồm các chất khám chữa bệnh gồm các chất
thải nhiễm khuẩn, các vật sắc thải nhiễm khuẩn, các vật sắc
nhọn, chất thải có nguy cơ lây nhọn, chất thải có nguy cơ lây
nhiễm cao, phòng xét nghiệm, nhiễm cao, phòng xét nghiệm,
Phát sinh từ các hoạt
động y tế của phòng
khám gồm vật sắc nhọn,
chất thải nhiễm khuẩn,
chất thải phát sinh trong
khoa xét nghiệm
1 Chất thải lây nhiễm
mô và cơ quan người.
mô và cơ quan người.
Nhà thuốc: Dược phẩm quá
hạn, không còn nhu cầu sử
dụng, thuốc gây độc tế bào;
chất thải chứa kim loại nặng
Nhà thuốc: dược phẩm quá Nhà thuốc: dược phẩm quá
hạn, kém phẩm chất không hạn, kém phẩm chất không
Chất thải hóa học
nguy hại
2
còn khả năng sử dụng
còn khả năng sử dụng
Các chất thải hóa
học nguy hại khác
Chất hàn răng almagam, bóng Khoa RHM: Chất hàn răng
3
Bóng đèn huỳnh quang
đèn huỳnh quang
almagam, bóng đèn huỳnh quang
CTSH từ các hoạt động
chuyên môn y tế, hành
chính, chất thải ngoại
cảnh (lá cây và rác từ khu
vực ngoại cảnh)
CTSH từ các hoạt động
Chất thải rắn
thông thường
chuyên môn y tế, phòng bệnh Chất thải rắn sinh hoạt: buồng
nhân, công việc hành chính, điều trị, văn phòng
chất thải ngoại cảnh
4
Phòng điều trị: Vỏ chai, lọ Phòng điều trị: Vỏ chai, lọ Phòng điều trị: Vỏ chai, lọ
thuốc, giấy, thùng carton thuốc, giấy, bìa carton thuốc, giấy, bìa carton
5 Chất thải tái chế
(Nguồn: PKĐK HN-TN, BVĐKTT, BVĐKAP - 2019)
Hình 1. Biểu đồ khối lượng CTRYT trong 2 tháng ở PKĐK HN-TN
(Nguồn: Số liệu điều tra thực tế tháng 1 - 2/2020)
205
Email: jst@tnu.edu.vn
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
Qua hình 1 cho biết, khối lượng CTRYT của PKĐK HN-TN phát sinh nhiều vào các ngày
nghỉ (thứ 7 và chủ nhật) các ngày trong tuần ít hơn. Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH)
gồm: túi nilon, thức ăn thừa, vỏ hộp, giấy các loại,… từ 4,2 - 15,5 kg/ngày và chất thải rắn y tế
nguy hại (CTRYTNH) gồm: bông băng, gạc, kim tiêm, dây truyền nhiễm khuẩn,… chỉ từ 0,5 -
3,8 kg/ngày. Tuy nhiên, các chất thải rắn này có tính nguy hại cao nên cần quản lý chặt chẽ.
Ngoài ra, còn một lượng nhỏ chất thải rắn ngoại cảnh như: cành, lá, gạch, đá,… Khoa dược phát
sinh CTRYTNH ít nhất. Nguyên nhân chính là chỉ có các loại thuốc hết hạn mới bỏ đi. Ngoài ra,
PKĐK HN-TN chỉ mua số lượng đủ dùng cho bệnh nhân.
Hình 2. Biểu đồ khối lượng CTRYT trong 2 tháng ở BVĐKTT
(Nguồn: Số liệu điều tra thực tế tháng 3 - 4/2020)
Qua hình 2 cho biết, khối lượng CTRYT của BVĐKTT phát sinh nhiều vào các ngày nghỉ (thứ
7 và chủ nhật) còn các ngày trong tuần thì ít hơn. Khối lượng CTRSH từ 8,7 – 27,5 kg/ngày và
CTRYTNH từ 2,0 – 6,6 kg/ngày. Thành phần CTRSH gồm chủ yếu là: thức ăn thừa, vỏ hộp, giấy
các loại, túi nilon,… chiếm khối lượng lớn hơn nhiều so với CTRYTNH. Các loại CTRYTNH như
bệnh phẩm, bông băng, gạc, kim tiêm, dây truyền dính máu,… chiếm khối lượng nhỏ hơn CTRSH
nhiều lần. Nhưng các chất thải rắn này có tính nguy hại cao (gây độc, ăn mòn, chứa chất độc hại,
kim loại nặng, chứa các tác nhân gây bệnh) nên bệnh viện cần quản lý chặt chẽ.
Kg/ngày
35
30
25
20
15
10
5
Chú
giải
Khối lượng
CTRYTNH
(kg/ngày)
0
Khối lượng
CTRSH
(kg/ngày)
1
2
3
4
5
6
7
8
Hình 3. Biểu đồ khối lượng CTRYT trong 2 tháng ở BVĐKAP
(Nguồn: Số liệu điều tra thực tế tháng 5 - 6/2020)
Qua hình 3 cho biết, khối lượng chất thải rắn y tế của BVĐKAP phát sinh nhiều vào các ngày
nghỉ (ngày thứ 7 và ngày chủ nhật) còn các ngày trong tuần thì ít hơn. Khối lượng CTRSH từ 7,3
– 23,5 kg/ngày và CTRYTNH từ 1,7 – 5,1 kg/ngày. Nguyên nhân của việc lượng CTRYTNH
tăng vào các ngày (thứ 7 và chủ nhật) là do nhu cầu khám chữa bệnh tăng lên (ngày nghỉ bệnh
viện công lập không làm việc) nên kéo theo lượng bệnh nhân đến khám và điều trị tại BVĐKAP
cũng tăng cao. Khối lượng CTRYTNH ở các phòng tiêm, xét nghiệm cho bệnh nhân, phòng sản
206
Email: jst@tnu.edu.vn
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
và phòng phẫu thuật (các bệnh phẩm) là cao nhất trong tổng chất thải rắn nguy hại phát sinh. Do
lượng bệnh nhân nội trú khá đông và hoạt động khám chữa bệnh liên quan đến phẫu thuật nhiều
nên lượng CTRYTNH phát sinh tại các phòng (khoa) này lớn, chủ yếu là: bông băng dính máu,
kim tiêm, ống tiêm, các bộ phận cơ thể bị cắt bỏ, nhau thai, bào thai, u bóc tách,...
3.2. Thực trạng công tác thu gom chất thải rắn y tế của ba cơ sở nghiên cứu
Bảng 2 cho thấy, dụng cụ chứa và thu gom CTRYT tại ba cơ sở y tế tư nhân Thái Nguyên:
Thùng đựng rác thải trong bệnh viện: sử dụng các thùng nhựa hoặc sọt rác có lót túi bóng nilon
(màu xanh, vàng, đen) và có nắp đậy (sọt rác không có). Vị trí các thùng được bố trí ở các phòng
khám, chữa bệnh, dọc hành lang và nhà vệ sinh. Thùng rác đặt ở những vị trí dễ nhìn, đông người
qua lại và những vị trí phát sinh nhiều chất thải. Thùng rác có hai lớp, làm bằng nhựa PE
(Polyetylen) có độ bền cao và không có bánh xe. Bên ngoài các thùng không có vạch báo hiệu ở
mức ¾ hộp và ghi dòng chữ “KHÔNG ĐƯỢC ĐỰNG QUÁ VẠCH NÀY”. Việc sử dụng sọt rác
và không ghi vạch báo hiệu là thực hiện chưa đúng như quy chế quản lý chất thải y tế tại Quy chế
43/2007/QĐ-BYT và thông tư số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT.
Dụng cụ chứa và thu gom CTRSH tại các phòng bệnh nhân nội trú và phòng hành chính: mỗi
phòng bệnh đều có các thùng nhựa lót túi hoặc sọt rác nilon màu xanh hoặc màu đen, có đậy nắp,
mở bằng đạp chân và bên ngoài có ghi “RÁC THẢI SINH HOẠT”. Việc lót túi bóng màu đen và
sử dụng sọt rác là không đúng quy định.
Tại các phòng tiêm và phòng xét nghiệm đều được trang bị hộp (tận dụng chai truyền dịch)
đựng kim tiêm, khi đầy được bỏ vào thùng rác (sọt rác) có lót túi bóng màu vàng (PKĐK HN-
TN). Như vậy, việc bỏ kim tiêm vào túi bóng màu vàng là chưa đúng.
Về túi nilon: các cơ sở sử dụng 4 loại túi (túi màu xanh đựng chất thải sinh hoạt, túi màu vàng
đựng chất thải lây nhiễm, túi màu đen đựng chất thải nguy hại và túi màu trắng đựng chất thải tái
chế. Tuy nhiên, màu trắng và màu đen không được sử dụng nhiều nên tỷ lệ cán bộ nhân viên y tế
và bệnh nhân biết đến chiếm tỷ lệ nhỏ. Bệnh viện luôn có sẵn túi nilon để thay thế khi túi đầy.
Trong ba cơ sở y tế tư nhân thì chỉ có BVĐKTT có xây nơi lưu trữ CTRYT (2 ngăn bằng bê
tông có tấm che và ghi “Rác thải sinh hoạt”, “Rác thải y tế”. Nhưng hiện tại không sử dụng mà
để vào xe đẩy bằng tay. Còn PKĐK HN-TN và BVĐKAP lưu trữ tại hành lang tầng 2 và nơi để
xe của cơ sở y tế đó. Nhìn chung, cả ba cơ sở đã có ý thức chấp hành việc thu gom CTRYT và
phần nào đáp ứng yêu cầu theo Quy chế quản lý chất thải y tế do Bộ Y tế ban hành (BVĐKAP
và BVĐKTT thực hiện theo Quy chế 43/2007/QĐ-BYT ngày 30 tháng 11 năm 2007 Quản lý
chất thải bệnh viện; PKĐK HN-TN thực hiện theo Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-
BTNMT ngày 31/12/2015 của liên Bộ Y tế và Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định về quản
lý chất thải y tế và Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT về việc Ban hành Quy chế quản lý chất
thải y tế). Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý chất thải y tế tại PKĐK HN-TN ít được
đầu tư hơn cả. BVĐKTT có hệ thống cơ sở vật chất tốt nhất. Qua kết quả điều tra phỏng vấn thì
toàn bộ cán bộ, nhân viên y tế được phỏng vấn đều trả lời: tại cơ sở y tế (phòng khám hoặc
bệnh viện) đã thực hiện công việc phân loại chất thải rắn y tế tại nguồn và theo đúng quy định
của Bộ Y tế.
Theo điều tra thực tế thể hiện ở bảng 3, hiện tại công tác phân loại tại các khoa của ba cơ sở
đã được thực hiện nhưng còn phiến diện, chưa nghiêm ngặt: Màu túi bóng còn sử dụng sai theo
quy định của Bộ Y tế. Ví dụ: chất thải hoá học nguy hại phải cho vào túi màu đen thì tại
BVĐKTT có ngày lại cho vào túi màu vàng, PKĐK HN-TN lại để chất thải lây nhiễm vào túi
màu đen và khi các chai chống thủng hết thì để vật sắc nhọn vào túi bóng màu vàng. Ngoài ra,
BVĐKTT để các bệnh phẩm (CTRYTNH) vào túi màu xanh, không đúng quy định. Đây là loại
chất thải lây nhiễm cao vì có chứa các vi sinh vật gây bệnh. Có thể nói BVĐKAP thực hiện công
tác này tốt hơn cả, sau đó đến BVĐKTT và cuối cùng là PKĐK HN-TN. Như vậy, cho thấy công
tác phân loại ở PKĐK HN-TN cần học hỏi và có sự điều chỉnh.
207
Email: jst@tnu.edu.vn
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
Bảng 2. Phương tiện thu gom CTRYT của ba cơ sở nghiên cứu
Tên cơ sở
TT Phƣơng
tiện thu gom
BVĐKTT
BVĐKAP
PKĐK HN-TN
3 màu (xanh, vàng, đen) đựng 3 màu (xanh, vàng, đen) đựng 3 màu (xanh, vàng, đen)
chất thải sinh hoạt, rác thải y rác thải sinh hoạt, rác thải y đựng chất thải sinh hoạt, chất
Túi nilon đựng
CTRYT
1
tế và chất thải phóng xạ
tế và chất thải phóng xạ
thải y tế và chất thải phóng xạ
Mỗi khoa đặt 1 thùng rác có lót
túi bóng màu xanh hoặc vàng
bên trong, ngoài khoa và hành
lang có thùng rác lót túi màu
đen bên trong tương ứng với
từng loại CTRYT
Mỗi khoa đặt 1 thùng rác có Mỗi khoa đặt 1 thùng rác
lót túi bóng màu xanh hoặc có lót túi bóng màu xanh
màu vàng hoặc màu đen hoặc màu vàng hoặc màu
bên trong tương ứng với đen bên trong tương ứng
2 Thùng rác
từng loại CTRYT
với từng loại CTRYT
Có xây nơi lưu giữ rác (2
ngăn bằng bê tông có tấm
Để ở ban công, cạnh nhà vệ che và ghi “Rác thải sinh
1 thùng 120 ml màu xanh
(ghi rác thải dân dụng, 2
thùng 80 ml (rác thải y tế
màu vàng, rác thải tái chế
màu trắng)
Thùng rác đặt
3 tại nơi lưu giữ
cuối cùng
sinh tầng 2
hoạt”, “Rác thải y tế”. Nhưng
hiện tại không sử dụng mà
để vào xe đẩy bằng tay
Có (tận dụng chai truyền
dịch), hạn chế (chỉ có ở phòng
tiêm cho bệnh nhân), hộp
đựng kim tiêm đầy thì lại cho
vào túi bóng màu vàng
Có (tận dụng chai truyền
dịch), hạn chế (chỉ có ở
phòng tiêm và phòng xét
nghiệm cho bệnh nhân)
Có (tận dụng chai truyền
dịch), hạn chế (chỉ có ở
phòng tiêm cho bệnh nhân)
Hộp đựng kim
tiêm
4
Nơi để rác thải/ Để ở ban công, cạnh nhà vệ
lưu giữ CTRYT sinh tầng 2
5
Nhà để xe
Gầm cầu thang/nhà để xe
(Nguồn: Số liệu điều tra - 2020)
Bảng 3. Phân loại CTRYTNH của ba cơ sở nghiên cứu Thái Nguyên
TT
Tên
PKĐK HN-TN
BVĐKTT
BVĐKAP
Được cho vào chai nhựa
Chất thải lây nhiễm sắc (tận dụng các chai nhựa sẵn
1 nhọn như kim tiêm, có như chai truyền dịch,…),
Được cho vào chai nhựa
(tận dụng các chai nhựa
sẵn có như chai truyền
dịch,…)
Được cho vào chai nhựa
(tận dụng các chai nhựa
sẵn có như chai truyền
dịch (đường),…)
mảnh thuỷ tinh vỡ
đầy chai nhựa thì lại để vào
túi bóng màu vàng
Được cho vào túi màu đen Để vào túi màu đen (hết túi
hoặc vàng để dưới đất đen thì để vào túi màu
Bông băng, gạc, các
bệnh phẩm,…
Để vào túi màu vàng
được lót trong sọt rác
2
3
(không có sọt rác)
xanh) được lót trong sọt rác
Cho vào túi màu đen rồi
buộc chặt mang để vào
thùng rác ghi rác thải độc
hại ở gầm cầu thang –
nhà gửi xe. Chất thải rắn
y tế nguy hại được bệnh
viện ký kết hợp đồng với
Công ty Urenco 10 xử lý.
Cho vào túi màu đen rồi Cho vào túi màu vàng rồi
buộc chặt mang để vào buộc chặt mang ra chỗ xe
ban công tầng 2. Chất thải rác đẩy bằng tay để -
rắn y tế nguy hại được Phòng chứa chất thải y tế.
phòng khám ký kết hợp Bệnh viện thuê Công ty
Chất thải hoá học nguy
hại, chất phóng xạ (các
vỏ chai, lọ thuốc chứa
các chất độc hóa học,
hóa chất, dược phẩm
hết hạn sử dụng)
đồng với Công ty Urenco Anh
Đăng
xử
lý
10 để xử lý. CTRYTNH.
(Nguồn: Số liệu điều tra - 2020)
Qua bảng 4 cho thấy, công tác thu gom và vận chuyển của ba cơ sở đều thực hiện thủ công
(bằng tay). Các cơ sở cho CTRYT vào các túi rác theo màu sắc quy định của Bộ Y tế. Đến giờ
quy định thì hộ lý sẽ dồn túi tại mỗi khoa. Túi đầy được hộ lý buộc cổ túi lại. Hộ lý sẽ mang các
túi đó đến nơi lưu trữ của bệnh viện. CTRYTNH không được xử lý sơ bộ tại nơi phát sinh mà chỉ
mang để trước cửa của bệnh viện để Công ty cổ phần môi trường đô thị và công nghiệp 10 –
URENCO 10 (PKĐK HN-TN, BVĐKAP) vận chuyển, xử lý. Còn BVĐKTT thuê Công ty Anh
Đăng vận chuyển và xử lý chất thải y tế nguy hại.
208
Email: jst@tnu.edu.vn
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
Tuy nhiên, công tác thu gom và vận chuyển CTRYT tại BVĐKAP khá tốt, quan sát bằng mắt
thường chúng tôi thấy tại đây khá sạch sẽ. Phỏng vấn một số bệnh nhân tại ba cơ sở nghiên cứu
cho thấy đa số bệnh nhân hài lòng với môi trường tại BVĐKAP.
Bảng 4. Thu gom và vận chuyển CTRYT của ba cơ sở nghiên cứu
TT
Tên
PKĐK HN-TN
BVĐKTT
BVĐKAP
Có túi bóng (xanh, vàng Có túi bóng (xanh, vàng
hoặc đen) lót trong sọt rác hoặc đen) lót trong sọt rác
Có túi bóng xanh, vàng hoặc
đen tại mỗi khoa/phòng
1 Vật chứa
đặt tại mỗi khoa/phòng,
đặt tại mỗi khoa/phòng
Xách bằng tay các túi bóng Xách bằng tay các túi
Xách bằng tay các túi
2 Dụng cụ thu gom
đựng chất thải y tế tới nơi bóng đựng chất thải y tế bóng đựng chất thải y tế
lưu giữ của cơ sở.
tới nơi lưu giữ của cơ sở. tới nơi lưu giữ của cơ sở.
Dồn túi, mỗi túi được
Mỗi túi chỉ đầy tới 3/4 túi,
đựng đầy tới miệng túi,
sau đó buộc cổ túi lại.
sau đó buộc lại
Lượng CTR chứa
trong mỗi túi
Dồn túi sau đó được buộc
cổ túi lại.
3
4 Tần suất thu gom
2 lần/ngày (sáng, chiều)
2 lần/ ngày (chiều và tối) 2 lần/ngày (chiều và tối)
Chất thải lây nhiễm Không được xử lý sơ bộ tại Không được xử lý sơ bộ Không được xử lý sơ bộ
5
6
cao/CTRYTNH
nơi phát sinh
tại nơi phát sinh
- Chiều 13h30
- Tối 9h30
tại nơi phát sinh
Thời gian vận chuyển - Sáng 6h
- Chiều 13h30
chất thải ra thùng rác - Chiều 13h30
- Tối 10h00
(Nguồn: Số liệu điều tra - 2020)
3.3. Thực trạng công tác xử lý chất thải rắn y tế của ba cơ sở nghiên cứu
* Đối với chất thải y tế nguy hại
Xử lý ban đầu: Một số khoa/phòng tại ba cơ sở nói trên phát sinh CTRYTNH có mức độ lây
nhiễm cao, gây độc cho con người như chất thải phóng xạ, chất thải liên quan đến giải phẫu,…
Các CTRYTNH này trước khi đưa ra thùng chứa và vận chuyển đến nơi lưu giữ rác đều không
được xử lý sơ bộ/ban đầu ngay tại nơi phát sinh mà chỉ cho vào túi bóng màu vàng hoặc màu đen
không ghi ký hiệu rồi buộc lại. Đối với CTR như lam kính vỡ, đĩa thạch, ống làm test kiểm tra,
bơm kim tiêm, dao mổ, bộ Troca dùng để mở màng phổi, dây truyền dịch, sông dẫn lưu khí – lưu
dịch, lọ lấy đờm để làm xét nghiệm, ống lấy mẫu máu – nước tiểu bệnh phẩm của phòng xét
nghiệm đều được bỏ vào túi bóng trước khi mang ra thùng để rác.
- Các chai lọ đựng dung dịch chứa phóng xạ phục vụ cho chụp X quang được để riêng sau đó
các hộ lý mang đi bán cho người thu mua phế liệu. Chỉ có BVĐKAP thực hiện đổi lại nhà sản xuất.
- CTRYT của BVĐKAP, PKĐK HN-TN sẽ được Công ty cổ phần môi trường đô thị và công
nghiệp 10 – URENCO 10 vận chuyển từ nơi để rác của bệnh viện về tập trung, xử lý tại khu xử
lý chất thải công nghiệp, nguy hại. Còn BVĐKTT thuê Công ty Anh Đăng vận chuyển và xử lý
CTRYTNH.
* Đối với CTR thông thường
- Các chất thải tái chế: Ba phòng khám đã tiến hành thu gom các chất thải tái chế bao gồm:
các chai nhựa đựng dịch truyền, chai lọ thủy tinh không chứa các thành phần nguy hại như giấy
báo, bìa, thùng carton,… Tại cả ba phòng khám, các hộ lý đã tiến hành thu hồi vỏ chai thuốc dịch
truyền, lon nước ngọt, bìa carton, vỏ hộp, phim X quang. Chất thải tái chế được hộ lý bán cho
người mua ve chai/đồng nát và tiền thu được thì hộ lý hưởng. Sau đó, công việc tái chế như thế
nào thì các các cơ sở y tế tư nhân không quan tâm.
- Các CTRSH: Tại BVĐKTT và BVĐKAP, CTRSH được phân loại và thu gom riêng biệt với
CTRYTNH. Tại các buồng tiêm, nhà vệ sinh,… của các khoa/phòng được trang bị các túi màu
xanh hoặc đen lót trong các sọt rác hoặc thùng nhỏ có nắp mở bằng đạp chân để thu gom CTR
thông thường. Các khu vực hành chính cũng được bố trí đặt các thùng nhỏ có nắp mở bằng đạp
chân bên trong lót túi nilon màu xanh để thu gom. Ở PKĐK HN-TN hai loại này được thu gom
209
Email: jst@tnu.edu.vn
226(08): 203 - 210
TNU Journal of Science and Technology
và cho vào túi màu xanh hoặc đen. Tuy nhiên ở cả ba cơ sở, sau khi phân loại và thu gom xong
túi bóng đựng CRTRYTNH và túi bóng đựng CTRSH lại được tập kết chung tại khu lưu giữ.
Đến giờ quy định hộ lý mang các túi này ra vỉa hè (BVĐKTT thì đẩy xe để rác ra trước cửa
bệnh viện), tại đó công nhân vệ sinh môi trường của thành phố sẽ tiến hành thu gom và vận
chuyển về bãi tập kết rác 1 (khu vực gần Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên). CTRYT
của BVĐKAP và PKĐK HN-TN sẽ được Công ty cổ phần môi trường và công trình đô thị Thái
Nguyên vận chuyển từ nơi để rác của bệnh viện mang đến chôn lấp, xử lý theo đúng quy định tại
Bãi rác Đá Mài, cách TP. Thái Nguyên 20 km về phía Tây Nam của thành phố. Còn BVĐKTT
thì thuê Công ty Anh Đăng thu gom và xử lý CTRYT.
4. Kết luận
Khối lượng CTRYT tại ba cơ sở y tế phát sinh tương ứng với lượt người đến khám bệnh tại
các cơ sở, dao động từ 4,2 – 15,5 kg/ngày CTRSH, 0,5 – 3,8 kg/ngày CTRYTNH tại PKĐK HN-
TN; khối lượng CTRSH từ 8,7 – 27,5 kg/ngày và CTRYTNH từ 2,0 – 6,6 kg/ngày tại BVĐKTT;
khối lượng CTRSH từ 7,3 – 23,5 kg/ngày và CTRYTNH từ 1,7 – 5,1 kg/ngày tại BVĐKAP.
Công tác quản lý CTRYT tại ba cơ sở nghiên cứu cơ bản tuân thủ quy định của Bộ Y tế tuy
nhiên trong quá trình quản lý vẫn còn có những sai sót, tồn tại có thể khắc phục được. Một số giải
pháp chúng tôi kiến nghị để nâng cao công tác quản lý CTRYT tại các cơ sở y tế bao gồm: Quan
tâm, hỗ trợ hơn bác sỹ, y tá, kỹ thuật viên và đặc biệt là hộ lý trong việc phân loại, thu gom, vận
chuyển và xử lý sơ bộ CTRYTNH của phòng khám bằng những việc làm như trợ cấp, khen
thưởng, tuyên dương; Đầu tư hơn nữa trang thiết bị phục vụ cho công tác phân loại, thu gom, lưu
trữ CTRYT; Tăng cường thanh tra, giám sát của các đơn vị hữu quan; Tăng cường tuyên truyền,
giáo dục cho cán bộ, bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, lắp đặt đầy đủ hơn quy định, hướng dẫn
tại cơ sở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1] T. N. A. Pham, X. T. Bui, and H. C. Vo, "Current situation of hazardous medical waste management at
the provincial level in Thai Binh," TNU Journal of Science and Technology, vol. 225, no. 15, pp. 103 -
110, 2020.
[2] T. T. Le, N. P. Dao, H. D. Dinh, T. T. Nguyen, T. V. Vu, and T. T. Pham, "Current situation of medical
solid waste management in six provincial general hospitals," Research Journal Medical research, vol.
21(1), pp. 56 - 63, 2003.
[3] K. Ngo and H. N. Le, "Situation of medical solid waste management in some public hospitals in Tien
Giang province in 2014," Journal of Medicine in Ho Chi Minh City, vol. 20, no. 5, pp. 497 - 506, 2016.
[4] T. T. Le, N. P. Dao, T. T. Nguyen, and T. H. Vu, "Current situation of waste management in district
hospitals, Yen Bai province," Journal of medical research, vol. 32(6), pp. 274 - 281, 2004.
[5] T. T. Dam, T. H. Nguyen, and V. T. Tran, "Situation of generation and solid waste management at
central and provincial hospitals in 2015 – 2016," Journal of Medicine - Military School, no. 9, pp. 44 -
50, 2019.
[6] T. H. Nguyen and T. N. T. Nguyen, "Medical solid waste management at Thai Nguyen Central General
Hospital," TNU Journal of Science and Technology, vol. 120, no. 06, pp. 147 - 152, 2014.
210
Email: jst@tnu.edu.vn
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng quản lý chất thải rắn y tế của một số cơ sở y tế tư nhân tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- thuc_trang_quan_ly_chat_thai_ran_y_te_cua_mot_so_co_so_y_te.pdf