Tài liệu Chuyên đề Quản trị hậu cần kinh doanh - Lê Công Hoa

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƢ  
CỤC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP  
Chuyên đề  
QUN TRHU CN KINH DOANH  
(Tài liệu dành cho đào tạo, bồi dƣỡng ngun nhân lc  
cho các doanh nghip nhvà va)  
Biên soạn: PGS.TS. Lê Công Hoa  
HÀ NỘI – 2012  
MỤC LỤC  
1
1
CHƢƠNG 1. GIỚI THIỆU VỀ QUẢN TRỊ HẬU CẦN KINH DOANH  
Chương này đề cập những vấn đề cơ bản về hoạt động hậu cần, khẳng định hậu cần  
kinh doanh là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế, cách tiếp cận chủ yếu về nội  
dung và phương thức quản trị hậu cần kinh doanh. Nội dung của chương 1 đề cập đến  
những phần chính sau đây: (ii) Thực chất hoạt động hậu cần kinh doanh; (ii) Nội dung  
hoạt động hậu cần kinh doanh; (iii) Hậu cần kinh doanh trong một doanh nghiệp; (iv) Vai  
trò của hậu cần kinh doanh và (v) Tiếp cận về quản trị hậu cần kinh doanh  
1.1 Thực chất hoạt động hậu cần kinh doanh  
Thuật ngữ logistics trong từ điển là "một ngành khoa học quân sự để thực hiện  
những việc gắn với quá trình thu mua, bảo quản và vận chuyển vật liệu, con người cùng  
trang thiết bị". Ở đây, thuật ngữ hậu cần được đặt trong khuôn khổ của lĩnh vực quân sự,  
là nơi tổ chức các hoạt động hậu cần trên quy mô lớn và hết sức phức tạp và đã trợ giúp  
đắc lực cho các chiến công trên trận địa. Ví dụ, trong chiến tranh thế giới thứ II, quân  
đồng minh đã phối hợp với kế hoạch hậu cần hiệu quả nhất trong lịch sử; trong chiến dịch  
Điện Biên Phủ, chúng ta đã tổ chức dân quân kéo pháo lên tận hầm tướng Đờ Cát; trong  
chiến dịch Hồ Chí Minh, con đường Trường Sơn đã trở thành huyết mạch để chuyển  
người, gạo và vũ khí vào chiến dịch...Trong những chiến thắng vẻ vang ấy, không thể  
không nhắc tới công lao to lớn của lĩnh vực hậu cần và những kinh nghiệm quý báu về  
hoạt động hậu cần trong quân sự đã được ứng dụng rộng rãi trong kinh doanh.  
Tuy nhiên, kinh doanh có những mục tiêu và quá trình hoạt động với nhiều điểm  
khác biệt so với quân sự. Hậu cần kinh doanh có mục tiêu đối tượng riêng, có phạm vi  
khác hậu cần quân sự. Hậu cần kinh doanh đòi hỏi phải tính đến chi phí, mức dịch vụ  
khách hàng, hiệu quả hoạt động…nên định nghĩa hậu cần nêu trong trong quân sự chưa  
thể hiện được hết thực chất của hậu cần trong kinh doanh. Nội dung hậu cần kinh doanh  
bao gồm tổng thể các hoạt động cung ứng và bảo đảm các yếu tố vật chất và kỹ thuật  
(nguyên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm cuối cùng và những thông tin hậu cần) để  
cho quá trình chính yếu của tổ chức, doanh nghiệp được tiến hành đúng mục tiêu đặt ra  
cũng như đáp ứng đúng đòi hỏi của khách hàng.  
1.2 Nội dung hoạt động hậu cần kinh doanh  
Hậu cần là tập hợp một loạt các hoạt động chức năng được lặp lại nhiều lần trong  
suốt dòng lưu thông, trong đó nguyên vật liệu thô được chuyển hoá thành sản phẩm cuối  
cùng. Kênh cung ứng hiện vật dùng để lấp đầy lỗ hổng về thời gian và không gian giữa  
các nguồn cung ứng với địa điểm sản xuất. Tương tự, kênh phân phối hàng hoá dùng để  
lấp đầy những khoảng cách về thời gian và không gian giữa doanh nghiệp sản xuất với các  
khách hàng của nó. Toàn bộ hoạt động của hai vế này liên kết và phối hợp với nhau tạo  
thành hậu cần kinh doanh.  
2
     
Hậu cần kinh doanh  
Cung ứng vật chất  
Phân phối hàng hoá  
Khách hàng  
Doanh  
nghiệp  
Nguồn cung  
ứng  
Vận chuyển  
Dự trữ  
Vận chuyển  
Dự trữ  
Xử lý đơn đặt hàng  
Mua hàng  
Xử lý đơn đặt hàng  
Lịch phân phối  
Bao gói bảo vệ  
Kho bãi  
Bao gói bảo vệ  
Kho bãi  
Xử lý vật liệu  
Thông tin hậu cần  
Xử lý hàng hoá  
Thông tin hậu cần  
Sơ đồ 1.1: Khái quát về hoạt động hậu cần  
Tổng thể các hoạt động hậu cần có thể phân thành hai nhóm chính: hoạt động hậu  
cần cơ bản và hoạt động hậu cần bổ trợ.  
Các hoạt động hậu cần cơ bản, gồm có:  
(1) Dịch vụ khách hàng: Xác định nhu cầu và mong muốn của khách hàng đối với dịch  
vụ hậu cần; xem xét phản ứng của khách hàng đối với chất lượng dịch vụ; đặt ra các mức  
chất lượng dịch vụ phù hợp;  
(2) Xử lý đơn hàng và cung ứng: Quy trình bán hàng - đặt hàng; phương thức  
chuyển giao thông tin đặt hàng; các nguyên tắc và điều kiện đặt hàng;  
(3) Quản trị dự tr: Chính sách dự trữ đối với nguyên vật liệu và thành phẩm; dự báo  
bán hàng ngắn hạn; số lượng, quy mô và địa điểm của các điểm dự trữ; cung ứng đúng  
thời điểm (Just In Time - JIT); chiến lược cung ứng đẩy hoặc chiến lược cung ứng kéo;  
(4) Vận chuyển: Lựa chọn loại hình phương tiện vận chuyển; cước phí vận tải; thiết  
kế tuyến đường; lịch trình vận chuyển; xử lý vận đơn; kiểm soát vận chuyển;  
(5) Duy trì thông tin hậu cần; Thu thập thông tin và lưu trữ; phân tích dữ liệu; các  
quy trình kiểm soát;  
Các hoạt động hậu cần bổ trợ, gồm có:  
(1) Nghiệp vụ kho: Quyết định về khoảng không gian trong kho; thiết kế cửa nhận  
hàng và sắp xếp hàng hoá trong kho; hình dạng kho, loại kho;  
(2) Bốc dỡ và chất xếp hàng hoá: Lựa chọn thiết bị và chính sách thay thế trang thiết  
bị; quy trình nhận đơn đặt hàng; dự trữ hàng h;  
(3) Hoạt động mua: Lựa chọn nguồn cung ứng; thời gian mua; số lượng mua;  
(4) Đóng gói bao gói bảo vệ hàng hóa: Thiết kế bao gói; tổ chức bao gói;  
v.v  
3
1.3 Hậu cần kinh doanh trong một doanh nghiệp  
Không phải những người ủng hộ quan điểm maketing hay quan điểm sản xuất đã bỏ  
qua tầm quan trọng của hậu cần, mà thực tế cả marketing và sản xuất đều coi hậu cần là  
một bộ phận trong chức năng hoạt động của mình. Tuy nhiên, trước đây các doanh nghiệp  
thường không phân định rạch ròi các chức năng marketing, sản xuất và hậu cần. Khi chức  
năng hậu cần không được phân định rạch ròi như vậy đã ảnh hưởng tiêu cực đến chất  
lượng dịch vụ khách hàng và đến tổng chi phí hậu cần. Theo quan điểm quản trị hiện đại,  
hậu cần được coi như một chức năng độc lập, đồng thời có mối quan hệ liên kết với hai  
chức năng cơ bản của doanh nghiệp là marketing và sản xuất.  
Hậu cần đóng góp cho doanh nghiệp bằng việc giao hàng cho khách đúng thời điểm,  
đúng nơi và đúng mặt hàng. Câu hỏi nảy sinh ở đây là: Ai là khách hàng của dịch vụ hậu  
cần? Đối với dịch vụ này thì khách hàng có thể ở bất kỳ điểm giao hàng nào. Đó có thể là  
khách hàng tiêu dùng cuối cùng, có thể là các cửa hàng bán buôn, bán lẻ, có thể là kho  
nhập hàng, hoặc là doanh nghiệp sản xuất. Trong một số trường hợp, khách hàng là những  
cá nhân và doanh nghiệp độc lập, nhận chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hoá và  
dịch vụ được giao. Một số trường hợp khác thì khách hàng là những bộ phận chức năng  
khác của cùng một doanh nghiệp, hoặc là đối tác kinh doanh trong cùng một mạng lưới.  
Cho dù khách hàng nội tại hay bên ngoài, dù động cơ và mục đích giao hàng khác biệt thế  
nào, thì những đòi hỏi của khách hàng đều là trọng điểm và động lực để hoàn thành các  
mức chất lượng dịch vụ hậu cần.  
Hậu cần  
Hoạt động  
tƣơng tác  
- Tiêu chuẩn  
dịch vụ khách  
hàng  
- Định giá  
- Đóng gói  
- Đại điểm bán  
lẻ  
Marketing  
Hoạt động cơ bản  
- Phát triển  
- Nghiên cứu thị  
trường  
- sản phẩm phối hợp  
- Quản trị lực lượng  
bán  
Sản xuất  
tác nghiệp  
Hoạt động  
tƣơng tác  
Hoạt động cơ  
bản  
Hoạt động cơ bản  
-
-
Lập kế  
- Vận chuyển  
- Dự trữ  
Kiểm soát chất  
lượng  
- Lập kế hoạch sản xuất  
hoạch  
sản  
xuất  
-
Đơn vị  
-
Xử lý đơn  
lẻ  
doanh nghiệp  
- Mua  
hàng  
- Bảo dưỡng máy  
móc  
- Xử lý nguyên  
Giao diện hậu cần  
sản xuất  
Giao diện hậu cần  
Marketing  
1.4 Vai trò của hậu cần kinh doanh  
Hậu cần thực sự tạo ra giá trị - giá trị cho khách hàng, các nhà cung ứng của doanh  
nghiệp và cho chính doanh nghiệp. Giá trị trong hậu cần chính là giá trị thời gian địa  
điểm. Sản phẩm và dịch vụ sẽ không có giá trị nếu người tiêu dùng không có được chúng  
đúng nơi và đúng lúc khi họ muốn tiêu dùng. Ví dụ như, vé vào xem một sự kiện thể thao  
sẽ không có giá trị đối với những khán giả khi chúng không sẵn có tại thời điểm cũng như  
địa điểm sự kiện đó diễn ra, hoặc lượng dtrữ được duy trì ở mức thấp so với nhu cầu của  
4
   
các cổ động viên. Việc quản trị hậu cần có hiệu quả xem xét mỗi hoạt động trong chuỗi  
cung ứng đều đóng góp vào quá trình làm tăng thêm giá trị. Nếu giá trị gia tăng được tạo  
ra quá thấp, một câu hỏi đặt ra là có nên duy trì những hoạt động đó hay không? Tuy  
nhiên giá trị gia tăng được tạo ra khi khách hàng sẵn sàng trả một mức giá cao hơn so với  
chi phí để đưa sản phẩm tới tay họ. Đối với nhiều doanh nghiệp trên toàn thế giới, hậu cần  
đã trở thành một quá trình quan trọng trong việc tạo ra giá trị gia tăng ngày càng lớn do  
một số lý do sau:  
Chi phí là quan trọng  
Trong suốt nhiều năm qua, các nghiên cứu đã hướng tới việc xác định chi phí hậu  
cần ở tầm vĩ mô và tầm doanh nghiệp. Đã có nhiều dự đoán khác nhau về mức chi phí  
cho hậu cần. Theo quỹ tiền tệ thế giới (IMF) thì chi phí hậu cần trung bình chiếm  
khoảng 10-12% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn thế giới. Đối với từng doanh  
nghiệp, chi phí hậu cần chiếm từ 04 - 30% doanh thu. Trong đó, tỷ lệ phân phối chi phí  
cho từng hoạt động hậu cần của doanh nghiệp như sau:  
Bảng 1.1: Tỷ lệ chi phí phân phối vật chất trung bình trong doanh thu  
và chi phí đơn vị  
Chủng loại  
Vận chuyển  
Dự trữ  
Dịch vụ khách hàng/xử lý đơn hàng  
Chi phí hành chính  
Chi phí vận chuyển hàng dự trữ  
% Doanh thu  
2,88%  
2,09  
$/đơn vị  
19,13  
21,94  
6,58  
0,55  
0,40  
2,32  
3,32  
32,27  
Tổng chi phí phân phối  
8,01%  
$ 80,27  
Nguồn: Quản trị hậu cần, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2012  
Bảng 1.1 chỉ ra kết quả của một cuộc điều tra gần đây về chi phí hậu cần của doanh  
nghiệp. Mặc dù cuộc điều tra cho thấy chi phí phân phối hàng hóa chiếm khoảng 8%  
doanh thu, nhưng lại chưa bao gồm chi phí cung ứng, có lẽ chiếm thêm 1/3. Điều này  
dẫn đến chi phí hậu cần trung bình của doanh nghiệp là khoảng 10,5%. Tuy nhiên, khi  
xác định chi phí hậu cần, thì chi phí này lại đứng thứ hai chỉ sau giá trị hàng mua. Giá  
trị được tạo ra bằng cách tối thiểu hóa những chi phí này là có lợi cho người tiêu dùng  
và bản thân doanh nghiệp.  
Phạm vi cung ứng và phân phối của doanh nghiệp được mở rộng  
Quá trình toàn cầu hóa, công nghiệp hoá khắp mọi nơi phụ thuộc rất nhiều vào việc  
thực hiện cũng như chi phí cho hoạt động hậu cần, khi các doanh nghiệp có tầm nhìn xa  
muốn đưa hoạt động của mình vươn ra thế giới. Cùng với nó, hậu cần sẽ có vai trò ngày  
càng quan trọng trong doanh nghiệp bởi các chi phí, đặc biệt là các chi phí vận chuyển đang  
chiếm một phần ngày càng lớn trong cơ cấu tổng chi phí. Ví dự như, khi một doanh nghiệp  
tìm kiếm những nguồn cung ứng từ thị trường nước ngoài để phát triển sản phẩm, động cơ  
chính là nhằm tăng lợi nhuận. Chi phí nguyên vật liệu và lao động có thể giảm xuống, trong  
khi chi phí hậu cần có xu hướng tăng lên vì các chi phí vận chuyển và dự trữ ngày càng lớn.  
5
Sự cân đối giữa chúng có thể dẫn đến việc tăng lợi nhuận do giảm chi phí nguyên vật liệu,  
lao động và chi phí hành chính, nhưng lại xuất hiện chi phí hậu cần và thuế. Việc sử dụng  
các nguồn lực bên ngoài làm tăng thêm giá trị, nhưng đòi hỏi quản lý chặt chẽ, cẩn thận hơn  
về chi phí hậu cần và về thời gian lưu chuyển hàng hóa trong kênh cung ứng.  
Hậu cần có vai trò quan trọng trong việc tạo lập chiến lược kinh doanh  
Các doanh nghiệp tiêu tốn một khối lượng lớn thời gian để tìm cách tạo ra sự khác  
biệt trong việc cung ứng sản phẩm của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Khi nhà quản  
trị nhận thấy rằng hậu cần có ảnh hưởng đến một phần đáng kể chi phí của doanh nghiệp  
cũng như kết quả của các quyết định trong quá trình cung ứng tạo ra các mức độ dịch vụ  
khách hàng khác nhau thì hậu cần được xem như một công cụ hiệu quả để cạnh tranh tốt  
hơn trên thị trường.  
Hậu cần làm tăng đáng kể giá trị đối với khách hàng  
Một sản phẩm và dịch vụ sẽ có rất ít giá trị nếu không sẵn có cho khách hàng vào  
thời điểm và địa điểm họ có nhu cầu tiêu dùng. Một khi doanh nghiệp chấp nhận chi  
phí để vận chuyển hàng hóa đến với khách hàng hoặc dự trữ nhằm đảm bảo cung ứng kịp  
thời về mặt thời gian thì sẽ tạo ra giá trị đối với những khách hàng mà trước đó doanh  
nghiệp chưa có được. Như vậy, rõ ràng hậu cần cũng tạo ra giá trị gia tăng như việc sản  
xuất một sản phẩm có chất lượng cao và giá thành thấp.  
Nguồn bên ngoài  
Nguồn bên trong  
Lợi nhuận  
…..  
Lợi nhuận  
…..  
Marketing  
Marketing  
Hậu cần  
Hậu cần  
Tổng phí  
Thuế  
Tổng phí  
Nguyên vật liệu  
Nguyên vật liệu  
Lao động  
Lao động  
Sơ đồ 1.3: Lợi ích kinh tế của việc khai thác từ nguồn hàng ngoài nƣớc giá thấp so  
với nguồn cung ứng tại địa phƣơng giá cao hơn  
Nhìn chung, hoạt động kinh doanh tạo ra bốn loại giá trị trong sản phẩm và dịch  
vụ. Đó là (1) giá trị cấu thành, (2) giá trị thời gian, (3) giá trị địa điểm và (4) giá trị sở  
hữu. Hoạt động hậu cần tạo ra hai trong bốn loại trên. Giá trị cấu thành được tạo ra bởi  
quá trình sản xuất, khi đầu vào chuyển hóa thành đầu ra hay các nguyên liệu thô chuyển  
hóa thành các thành phẩm. Hậu cần kiểm soát giá trị thời gian và địa điểm của sản phẩm  
chủ yếu thông qua hoạt động vận chuyển, luồng thông tin và hoạt động dự trữ. Giá trị sở  
hữu được tạo thành thông qua hoạt động marketing, quảng cáo, thông tin, hỗ trợ kỹ thuật  
6
và phương thức bán, giá cả và tín dụng để giúp đỡ khách hàng sử dụng sản phẩm của  
doanh nghiệp.  
Nhu cầu khách hàng ngày càng phải được đáp ứng nhanh  
Các nhà bán lẻ đồ ăn nhanh, các thiết bị thanh toán tiền tự động, dịch vụ giao hàng  
qua đêm và thư điện tử trên Internet đưa khách hàng tới mong muốn sản phẩm và dịch vụ  
có thể được thỏa mãn ngày càng nhanh chóng. Ngoài ra, hệ thống thông tin được cải thiện  
và quá trình sản xuất linh hoạt đã hướng thị trường tới việc đáp ứng rộng rãi nhu cầu. Để  
khắc phục tình trạng người tiêu dùng phải chấp nhận triết lý "một cỡ phù hợp với mọi  
người" trong khi mua sản phẩm, người sản xuất giờ đây đưa những sản phẩm đáp ứng nhu  
cầu của từng khách hàng riêng lẻ.  
Các doanh nghiệp cũng đang áp dụng triết lý đáp ứng nhanh vào hoạt động sản xuất  
kinh doanh nhằm thoả mãn yêu cầu của chính công tác marketing của họ. Triết lý đáp ứng  
nhanh cũng được các doanh nghiệp vận dụng để tạo ra lợi thế trong công tác marketing.  
Mặc dù doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận cao từ việc tăng lượng bán, chứ không phải do  
giảm chi phí thông qua hiệu quả của công tác quản trị hậu cần. Chi phí cho quá trình vận  
chuyển thậm chí có thể tăng lên, nhưng lợi nhuận cao sẽ bù đắp cho các khoản chi phí này.  
Ví dụ 1.1: Bennetton là một công ty sản xuất quần áo thể thao của Ý. Dệt kim là mặt hàng chủ yếu  
của công ty. Nằm ở Pozzano, Ý, hàng năm, Benetton đã sản xuất và phân phối 50 triệu sản phẩm  
trên toàn thế giới, chủ yếu là len, quần âu và áo choàng.  
Bennetton nhận thấy con đường nhanh nhất để vận hành một hệ thống phân phối là  
thiết lập một chu trình điện tử kết nối các đại lý, nhà máy và kho dự trữ. Khi một người  
bán hàng tại một trong những cửa hàng đang bán rất chạy, giả sử là áo len đỏ, cô ta sẽ  
gọi đến một trong 80 đại lý của hệ thống toàn cầu đó, rồi sau đó thông tin được chuyển  
tới bộ phận trung tâm ở Ý. Do áo len được thiết kế dựa trên một hệ thống thiết kế có sự  
trợ giúp của máy tính, máy tính của trung tâm có tất cả thông số của chiếc áo dưới dạng  
mã hóa để từ đó chuyển tới máy dệt để tiến hành sản xuất. Sau đó áo được đóng gói, ghi  
nhãn địa chỉ của cửa hàng tại Los Angeles và được chuyển vào kho. Chỉ một kho dự trữ  
có thể phục vụ cho 5.000 cửa hàng của Benetton tại 60 nước trên thế giới. Chu trình này  
trị giá 30 triệu USD nhưng chỉ cần 8 người làm việc, trung tâm phân phối có thể vận  
chuyển 300.000 sản phẩm một ngày.  
Khi áo được xếp cẩn thận vào 300.000 điểm trong kho, máy tính sẽ điều khiển  
robot để vận chuyển chúng. Robot sẽ đọc các đoạn mã trên bao bì, chọn đúng những hộp  
cần đưa tới Los Angeles và chuyển chúng lên máy bay. Kể cả thời gian sản xuất,  
Benetton có thể chuyển hàng tới Los Angeles trong vòng 4 tuần. Nếu công ty đã có sẵn  
áo trong kho thì công việc này chỉ mất 1 tuần. Đây quả là một điều kỳ diệu trong ngành  
công nghiệp may mặc vốn nổi tiếng là chậm chạp và thậm chí nhiều người còn phải lo  
lắng cho việc đặt hàng lại. Và nếu như Benetton chợt phát hiện ra rằng không sản xuất  
áo Bludông màu đen và tím, những mặt hàng bán rất chạy trong năm nay, họ có thể sản  
xuất và vận chuyển chớp nhoáng áo Bludông đen và tím trong vòng vài tuần.  
7
1.5 Tiếp cận về quản trị hậu cần kinh doanh  
Theo cách tiếp cận thông thường thì "Quản trị hậu cần bao gồm việc thiết kế và thực  
thi các hệ thống kiểm soát dòng vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm để trợ lực cho  
chiến lược của đơn vị kinh doanh".  
Theo Hội đồng quản trị hậu cần Hoa Kỳ thì "Hậu cần là quá trình hoạch định, thực  
thi, tổ chức và kiểm soát một cách hiệu quả dòng lưu chuyển, dự trữ các nguyên vật liệu,  
bán thành phẩm và sản phẩm cuối cùng cùng những thông tin từ điểm gốc đến điểm tiêu  
dùng với mục tiêu đáp ứng đúng những đòi hỏi của khách hàng".  
Trên cơ sở khái niệm, tầm quan trọng và cách tiếp cận hoạt động hậu cần, cần tiến  
hành nghiên cứu hoạt động hậu cần một cách hệ thống. Có hai chủ đề được sử dụng khi  
nghiên cứu những công việc mà công tác quản trị hậu cần cần làm và các kỹ năng cần có  
để thực hiện chúng.  
Thứ nhất, hoạt động quản trị xem như hoạt động thực hiện các nhiệm vụ, lập kế  
hoạch, tổ chức, kiểm soát nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp. Lập kế hoạch  
liên quan tới việc quyết định các mục tiêu của doanh nghiệp, tổ chức liên quan đến việc  
thu hồi và xác định các nguồn lực của doanh nghiệp để hoàn thành mục tiêu và kiểm soát  
liên quan tới việc đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra các hành động khắc  
phục khi hoạt động không phù hợp với mục tiêu.  
Quyết định vị trí  
thuận lợi  
Quyết định  
dự trữ  
Quyết định  
vận chuyển  
Thứ hai, phải thừa nhận rằng các cấp quản trị viên từ cấp cơ sở đến cấp cao, thường sử  
dụng nhiều thời gian cho hoạt động lập kế hoạch. Lập kế hoạch có hiệu quả cần phải xem xét  
đến các mục tiêu của doanh nghiệp, tuân theo các khái niệm và nguyên tắc hướng dẫn lập kế  
hoạch và phải có các công cụ để sắp xếp, phân loại các hoạt động. Đối với quản trị hậu cần,  
kế hoạch hóa xem xét tới tam giác quyết định cơ bản về vị trí, dự trữ và vận chuyển. Kết quả  
của các quyết định này là các mức độ dịch vụ khách hàng cần đạt được.  
Do đó, nội dung quản trị hậu cần kinh doanh được khái quát hóa như sau:  
8
 
Sơ đồ 1.5: Mô hình tổng quát về quản trị hậu cần kinh doanh  
ChiÕn l îc tån kho  
ChiÕn l îc vËn t¶i  
Dù b¸o  
C¸c nguyªn lý vËn t¶i c¬  
b¶n  
C¸c quyÕt ®Þnh vËn t¶i  
C¸c nguyªn lý dù tr÷ c¬ b¶n  
C¸c quyÕt ®Þnh tån kho  
C¸c quyÕt ®Þnh lËp ch ¬ng  
tr×nh mua vµ cung øng  
C¸c quyÕt ®Þnh dù tr÷  
Môc tiªu phôc vô  
kh¸ch hµng  
S¶n phÈm  
DÞch vô hËu cÇn  
HÖ thèng th«ng tin  
ChiÕn l îc ®Þnh vÞ  
C¸c quyÕt ®Þnh ®Þnh vÞ  
Qóa tr×nh ho¹ch ®Þnh m¹ng  
l íi  
1.6 Hướng dẫn học tập và thảo luận chương 1  
1. Bản chất hậu cần kinh doanh, các hoạt động hậu cần chủ yếu và hoạt động hỗ trợ?  
2. Hậu cần kinh doanh trong một doanh nghiệp và trong nền kinh tế?  
3. Mục tiêu và vai trò quan trọng của quản trị hậu cần kinh doanh?  
9
 
CHƢƠNG 2. SẢN PHẨM HẬU CẦN VÀ DỊCH VỤ  
KHÁCH HÀNG HẬU CẦN  
Mục tiêu bao trùm của Logistics là cung ứng hàng hoá và dich vụ tới khách hàng  
đúng với những nhu cầu và đòi hỏi của họ theo cách thức hiệu quả nhất. Nói cách khác là  
nhằm đạt được các mục tiêu cung ứng đúng sản phẩm, đảm bảo thông tin đầy đủ và chất  
lượng dịch vụ khách hàng với tổng chi phí nhỏ nhất. Các hoạt động hậu cần tồn tại nhằm  
mục tiêu thoả mản những nhu cầu của khách hàng thông qua các chức năng bổ trợ cho  
phía sản xuất và maketing. Đây cũng là thách thức lớn đối với các nhà quản trị hậu cần -  
làm thế nào để cân đối được giữa một bên là chi phí với bên kia là chất lượng dịch vụ sao  
cho đặt được những mục tiêu sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.  
2.1 Sản phẩm hậu cần  
2.1.1 Các đặc tính của sản phẩm hậu cần  
Những đặc điểm quan trọng nhất của sản phẩm ảnh hưởng tới chiến lược hậu cần  
bao gồm những thuộc tính nội tại của sản phẩm như: khối lượng, thể tích, giá trị, tính dể  
ôi thiu, dể cháy và tính dể thay thế. Tổng hợp những thuộc tính này trong mỗi sản phẩm sẽ  
đặt ra những yêu cầu về kho hàng, dự trữ, vận chuyển, bốc dỡ nguyên vật liệu và xử lý  
đơn hàng. Chúng được xem xét trên bốn khía cạnh: tỷ lệ giữa khối lượng và thể tích, tỷ lệ  
giữa giá trị và trọng lượng, khả năng thay thế và các đặc tính rủi ro.  
Tỷ lệ giữa khối lượng và thể tích  
Tỷ lệ giữa khối lượng và thể tích là một chỉ tiêu đo lường rất có ý nghĩa, bởi vì nó  
liên quan trực tiếp đến chi phí vận chuyển và lưu kho. Những sản phẩm có mật độ dày đặc  
có nghĩa là tỷ lệ giữa khối lượng và thể tích lớn (thép cuộn, ấn phẩm, đồ hộp…) sẽ có lợi  
cho các phương tiện vận tải và lưu kho với chi phí thấp. Ngược lại khi vận chuyển những  
sản phẩm có mật độ dày đặc thấp (bóng chuyền bãi biển, khoai tây chiên, thuyền và chụp  
đèn…), đôi khi trọng tải của xe vẫn còn, nhưng sức chứa của xe đã hết. Vì vậy, với cùng  
một khối lượng xác định, thì chi phí bốc dỡ và chi phí khoảng không lưu kho trong giá  
bán sẽ cao hơn. Hình 2.1 chỉ ra ảnh hưởng của sự thay đổi tỷ lệ giữa khối lượng và thể  
tích tới chi phí hậu cần. Khi mật đọ dày đặc của sản phẩm tăng, thì tỷ lệ chi phí vận  
chuyển và lưu kho trong giá bán giảm. Mặc dù giá bán giảm do chi phí vận chuyển và lưu  
kho giảm, nhưng đây chỉ là hai trong nhiều nhân tố cấu thành nên giá. Bởi vậy tổng chi  
phí hậu cần có thể giảm nhanh hơn so với giá.  
10  
   
Hình 2.1: Ảnh hƣởng chung của mật độ sản phẩm tới chi phí hậu cần  
Ví dụ 2.1: Hãng JC Penney cho vận chuyển bằng đường biển những loại bàn ghế sản  
xuất theo Catalog trong trạng thái tháo rời nhằm giảm thể tích kiện hàng và giảm chi  
phí vận chuyển. Sau đó khách hàng tự lắp ráp sản phẩm.  
Một nhà sản xuất bánh xe bằng thép cho vận chuyển bằng đường biển lô hàng  
dưới dạng các thanh răng được tháo rời tới một xưởng lắp ráp tại khu vực thị trường  
mới. Tại đây các thanh răng được ghép lại theo khuôn mẫu và thể tích của sản phẩm sẽ  
được phục hồi taị càng gần địa bàn tiêu thụ càng tốt. Một lần nữa, theo phương thức  
này chi phí vận tải có thể được giảm thông qua việc kiểm soát tỷ lệ giữa khối lượng và  
thể tích của sản phẩm.  
Tỷ lệ giữa giá trị và khối lượng  
Giá trị sản phẩm đang trong quá trình vận chuyển và lưu kho là một nhân tố quan  
trọng trong việc xây dựng vằ phát triển chiến lược hậu cần. Chi phí lưu kho rất nhạy cảm  
với giá trị sản phẩm. Khi tỷ lệ giữa giá trị và khối lượng thay đổi, thì sự đánh đổi giữa chi  
phí vận chuyển và chi phí lưu kho là rất có ý nghĩa trong việc hoạch định hệ thống hậu  
cần. Hình 2.2 chỉ ra sự đánh đổi đó:  
11  
Hình 2.2. Ảnh hƣởng chung của tỷ lệ giữa giá trị và khối lƣợng đến chi phí hậu  
cần  
Những sản phẩm có tỷ lệ giữa giá trị và khối lượng thấp (ví dụ như than, quặng sắt,  
quặng bôxit và cát) có tỷ lệ chi phí lưu kho trong giá bán thấp nhưng tỷ lệ chi phí vận  
chuyển cao. Chi phí vận chuyển hàng dự trữ được tính theo tỷ lệ đối với giá trị sản phẩm.  
Giá trị hàng hoá thấp đồng nghĩa với chi phí lưu kho thấp, bởi vì chi phí vận chuyển là  
một nhân tố chính so với chi phí lưu kho. Mặt khác, chi phí vận chuyển lại gắn liền với  
khối lượng vận chuyển. Khi giá trị hàng hoá thấp, thì chi phí vận chuyển chiếm một tỷ lệ  
cao trong giá bán. Những sản phẩm có tỷ lệ giá trị trên khối lượng cao (các thiết bị điện  
tử, đồ trang sức và các nhạc cụ) thì ngược lại có chi phí lưu kho cao và chi phí vận chuyển  
thấp. Điều này hình thành đường tổng chi phí hậu cần có dạng chữ U. Do đó, các doanh  
nghiệp có sản phẩm mà tỷ lệ giá trị trên khối lượng thấp cần thường xuyên đàm phán để  
dành được những ưu đãi về giá vận chuyển (nói chung giá vận chuyển nguyên liệu thô  
thấp hơn so với thành phẩm trên cùng một khối lượng). Nếu sản phẩm có tỷ lệ giá trị trên  
khối lượng cao thì tốt nhất nên giảm thiểu khối lượng dự trữ. Tất nhiên một số doanh  
nghiệp đã cố gắng điều chỉnh tỷ lệ giá trị trên khối lượng bất hợp lý của mình bằng cách  
thay đổi cách tính để thay đổi giá trị hoặc thay đổi các yêu cầu về bao gói sản phẩm nhằm  
thay đổi khối lượng.  
Khả năng thay thế  
Khi khách hàng nhận thấy rất ít hoặc không có sự khác biệt nào giữa sản phẩm của  
doanh nghiệp và của các nhà cung ứng khác thì sản phẩm được cho là có khả năng thay  
thế cao. Điều đó có nghĩa là: khi sản phẩm thứ nhất không đủ để đáp ứng thì khách hàng  
sẽ sẵn sàng lựa chọn sản phẩm thứ hai. Nhiều sản phẩm như thuốc và thực phẩm là có khả  
năng thay thế cao. Có thể bạn biết rằng, các nhà cung ứng đã chi rất nhiều tiền để cố gắng  
thuyết phục khách hàng rằng thuốc kháng sinh và xà phòng giặt là không hoàn toàn như  
12  
nhau. Các nhà quản lý phân phối cố gắng cung cấp sản phẩm sẵn có ở mức để khách hàng  
sẽ không phải tìm đến một sản phẩm thay thế nào khác.  
Phần lớn, các nhà hậu cần thường không thể kiểm soát khả năng thay thế của sản  
phẩm, nhưng họ có nhiệm vụ lập kế hoạch phân phối những sản phẩm với các cấp độ về  
khả năng thay thế khác nhau. Đối với các nhà cung ứng khả năng thay thế có thể xem như  
là một sự tổn thất về doanh thu. Khi khả năng thay thế cao hơn có nghĩa là khách hàng sẽ  
có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn các sản phẩm cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết quả là  
một phần doanh thu sẽ rơi vào tay đối thủ cạnh tranh. Nói chung nhà hậu cần xữ lý vấn đề  
này thông qua việc lựa chọn các phương thức vận tải, lựa chọn phương thức lưu kho hoặc  
cả hai. Xem hình 2.3  
Hình 2.3. Ảnh hƣởng chung của dịch vụ vận tải và mức dự trữ trung bình tới chi phí  
hậu cần đối với một sản phẩm có mức độ về khả năng thay thế xác định  
Hình 2.3a chỉ ra rằng việc cải thiện trong vận chuyển có thể làm giảm một phần tổn  
thất về doanh thu. Đối với một mức dự trữ trung bình xác định nhà cung cấp có thể gia  
tăng tốc độ, độ tin cậy trong việc phân phối sản phẩm để làm giảm mức độ tổn thất và  
13  
thiệt hại. Lúc đó sản phẩm luôn sẵn có để cung cấp cho khách hàng và đối với khách hàng  
việc lựa chọn những sản phẩm thay thế có thể sẽ ít đi. Tất nhiên chi phí vận chuyển tăng  
thêm sẽ là sự đánh đổi cho phần doanh thu bị mất đi. Hình 2.3b chỉ ra sự đánh đổi về chi  
phí, trừ hàng hoá sẵn có cho khách hàng là được kiểm soát thông qua mức dự trữ, với  
phương thức vận chuyển là không đổi. Trong trường hợp khác, các nhà hậu cần có vị trí  
chủ đạo trong việc kiểm soát sự ảnh hưởng do khả năng thay thế của sản phẩm tác động  
tới lợi nhuận của doanh nghiệp.  
Đặc điểm rủi ro  
Những đặc điểm về rủi ro của sản phẩm tập trung vào những vấn đề như: tính dễ ôi  
thiu, dễ chảy, giá trị, dễ nổ và dễ bị ăn cắp. Khi sản phẩm biểu hiện rủi ro cao ở một hay  
nhiều trong các rủi ro trên, nó sẽ áp đặt các giới hạn đối với hệ thống phân phối.  
Những sản phẩm như bút, đồng hồ, hoặc thuốc lá có độ rủi ro về mất cắp cao.  
Cần phải có một sự quan tâm đặc biệt đối với việc vận chuyển và bốc dỡ các loại hàng  
hoá này. Nên thiết lập các kho hàng bên trong và những khu vực có rào quanh để bốc  
dỡ hàng hoá đó và các sản phẩm tương tự khác. Những sản phẩm dễ hư thối (hoa quả  
tươi và máu) yêu cầu được vận chuyển và bảo quản trong điều kiện đông lạnh, những  
sản phẩm như lốp xe hơi có thể làm ô nhiễm thực phẩm nên chúng không thể được cất  
giữ cùng chỗ trong kho hàng. Những ưu tiên đặc biệt trong vận chuyển lưu kho hoặc  
bao gói sẽ làm tăng chi phí phân phối.  
Hình 2.4: Ảnh hƣởng chung của rủi ro sản phẩm tới chi phí hậu cần  
2.2 Dịch vụ khách hàng hậu cần  
Năng lực dịch vụ khách hàng hậu cần của một doanh nghiệp  
Năng lực dịch vụ khách hàng hậu cần được đo lường và thể hiện bằng những đại  
lượng như:  
14  
 
- Khả năng cung ứng hàng hoá theo đúng số lượng, cơ cấu, chất lượng (tính sẵn  
có, tính tiện lợi): luôn có đủ hàng dự trữ trong kho để đáp ứng đúng nhu cầu của khách.  
Theo quan điểm truyền thống, để hàng hóc luôn lưu kho luôn có sẵn thì cần đầu tư nhiều  
vào dự trữ. Hiện nay, công nghệ hiện đại cho phép đặt được tính mức sẳn sàng cao trong  
khuôn khổ mức đầu tư hợp lý.  
- Tiêu chuẩn vận hành nghiệp vụ hậu cần: đại lượng này bao hàm tốc độ và sự  
nhất quán trong việc giao nhận hàng. Thông thường, khách hàng đều muốn được nhận  
hàng mộtcách nhanh chóng. Nhưng giao hàng nhanh mà lại thất thường thì sẽ không có  
mấy giá trị. Khách hàng sẽ không mấy hài lòng nếu công ty hứa giao hàng ngay hôm sau,  
nhưng thường lại không giữ được lời hứa đó. Để công việc diễn ra trôi chảy, trước tiên  
công ty thường cố gắng đạt được tiêu chuẩn dịch vụ ổn định, rồi sau đó mới cố gắng nâng  
cao tốc độ giao hàng. Bên cạnh đó, công ty cần có được khả năng linh hoạt nhất định  
trong việc đáp ứng những đòi hỏi bất thường của khách hàng. Ngoài ra còn biết cách xử lý  
và điều chỉnh những sai lệch không tránh khỏi. Rất hiếm công ty có thể luôn thực hiện  
công việc một cách hoàn hảo trong mọi tình huống. Xác xuất sai hỏng có thể xảy ra, và  
khi đó việc xử lý sai hỏng một cách nhanh chóng và hiệu quả cũng là một khía cạnh thể  
hiện chất lượng dịch vụ hậu cần.  
- Tính tin cậy của dịch vụ khách hàng hậu cần: thể hiện ở những việc như cung cấp  
đầy đủ thông tin về quá trình dịch vụ tới khách hàng (nếu có chậm trễ hoặc thiếu hàng thì  
do đâu, và các giải pháp chỉnh sửa sẽ được tiến hành khi nào); sự hợp tác giữa hai bên  
cung ứng - khách hàng; thái độ phục vụ tận tình và đáng tin cậy của các nhân viên, v.v...  
Tổng chi phí và mức dịch vkhách hàng hậu cần  
Tổng chi phí hậu cần bao gồm tất cả những chi tiêu cần thiết để thực hiện những  
yêu cầu trong hoạt động hậu cần. Chi phí hậu cần có thể chiếm từ 04 -30% tổng doanh thu  
tuỳ thuộc vào loại hình sản xuất - kinh doanh, vị trí địa lý và giá trị của nguyên vật liệu  
tạo ra sản phẩm. Như vậy, ta thấy hậu cần là một trong những chức năng dùng nhiều  
nguồn lực tài chính nhất giữa các hoạt động của công ty.  
Mặc dù mức chi phí cao như vậy, nhưng mục tiêu của hậu cần không phải là giảm  
thiểu tổng chi phí, mà thách thức ở đây là sử dụng chi phí một cách hiệu quả sao cho chức  
năng hậu cần giúp doanh nghiêp đạt được lơị thế cạnh tranh trên thị trường. Muốn giảm  
thiểu chi phí thì sẽ phải dùng phương tiện vận tải tốc độ chậm, dự trữ hàng ở mức thấp  
nhất, và sẽ không đầu tư vào xây dựng kho bãi riêng cho mình, và tất cả sẽ làm ảnh hưởng  
nhiều đến chất lượng dịch vụ khách hàng. Đôi khi giao hàng chậm và chi phí thấp là thích  
hợp (vật liệu xây dựng). Nhưng cũng có nhiều trường hợp đòi hỏi của khách hàng rất cao  
(phát chuyển nhanh thư từ, quà và tài liệu trong vòng 24 giờ, Federal Express). Bởi vậy,  
cần phải cân nhắc mối tương quan giữa chi phí hậu cần và dịch vụ khách hàng sao cho có  
thể đáp ứng được đúng mặt hàng, đúng nơi, đúng lúc khách hàng cần với chi phí hiệu quả  
15  
nhất, và doanh nghiệp đạt được mục đích kinh doanh của mình. Cân đối giữa năng lực hậu  
cần với những yêu cầu và mong đợi của khách hàng - đây chính là hạt nhân của quá trình  
soạn thảo chiến lược hậu cần.  
Mức độ dịch vụ và tổng chi phí hậu cần là hai đại lượng có mối quan hệ tỉ lệ  
nghịch với nhau. Bởi vậy trong những nỗ lực giảm chi phí hậu cần, các nhà quản trị cần  
có cái nhìn tổng thể, và lựa chọn các phương tiện sao cho có thể thoả mãn được khách  
hàng một cách hiệu quả nhất. Đồ thị dưới đây sẽ mô tả một cách hình tưọng mối tương  
quan đánh đổi này. Hình 2.5 cho thấy vấn đề nảy sinh khi đặt ra các mức dịch vụ khách  
hàng. Khi càng nhiều khách hàng thảo mãn với chất lượng dịch vụ hậu cần, thì số khách  
hàng trung thành sẽ đông hơn, và doanh thu từ khách hàng bỏ đi sẽ giảm. Nghĩa là, khi  
các sai phạm như giao hàng chậm và không tin cậy, xử lý đơn đạt hàng sai, thiếu hàng dự  
trữ, v.v được giảm thiểu, thì chất lượng dịch vụ được cải thiện và doanh thu bị mất cũng  
nhỏ đi. Việc tăng cường chất lượng dịch vụ hậu cần là bao hàm việc tăng chi phí cho vận  
chuyển, cho dự trữ, cho xử lý đơn đạt hàng. Cân đối giữa hai lực lượng này sẽ cho được  
điểm tối ưu, đó là điểm nhỏ hơn 100% chất lượng dịch vụ, chúng ta không thể thoả mãn  
với tất cả khách hàng một cách hoàn hảo được, bởi chi phí càng gần tới 100% sẽ càng  
tăng với mức gia tốc, mà chúng ta chỉ có thể tập trung vào nhóm khách hàng trọng điểm.  
Chi phí  
Chất lượng dịch vụ  
Tổng chi phí  
Chi phí vận chuyển, dự trữ  
kho, xử lý đơn hàng  
Chi phí mất khách hàng  
Chất lượng dịch vụ  
Hình 2.5. Nâng cao chất lƣợng dịch vụ khách hàng  
Tương tự thế, trên một phương diện khác cho thấy mâu thuẫn giữa chi phí vận  
chuyển và chi phí dự trữ. Vận chuyển bằng những phương tiện có tốc độ cao như xe  
tải, máy bay thì chi phí sẽ tăng rất lớn; nhưng bên cạnh đó, sẽ không phải phải dự trữ  
một lượng hàng lớn trong kho, giảm được chi phí bảo quản, xếp dỡ và tránh ứ đọng tài  
chính. Vì vậy lựa chọn tốt nhất là khi tổng chi phí hậu cần đặt mức tối thiểu và đó  
không phải là mức thấp nhất của từng nghiệp vụ hậu cần.  
16  
Có thể khái quát tổng chi phí hậu cần bằng công thức sau:  
TC = Cđ + CV + CD + CH + CT  
Trong đó:  
TC: Tổng chi phí hậu cần; Cđ: Chi phí đặt hàng và nghiệp vụ mua hàng; CV: Chi  
phí vận chuyển; CD: Chi phí dự trữ; CH: Chi phí giảm doanh số do chất lượng hậu cần  
kém; CT: Chi phí giảm doanh số do thiếu hàng bán cho khách.  
2.3 Hướng dẫn học tập và thảo luận chương 2  
1. Bản chất và đặc điểm của sản phẩm hậu cần, đường cong 80-20 với cách phân loại  
ABC và các ứng dụng?  
2. Các yếu tố và tầm quan trọng của dịch vụ khách hàng hậu cần, mối quan hệ giữa dịch  
vụ khách hàng với doanh thu, với chi phí và với thua lỗ?  
17  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 90 trang yennguyen 18/04/2022 1160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Chuyên đề Quản trị hậu cần kinh doanh - Lê Công Hoa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_chuyen_de_quan_tri_hau_can_kinh_doanh_le_cong_hoa.pdf