Quá trình sinh dầu khí của đá mẹ khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng trung tâm bể Nam Côn Sơn

THĂM DÒ - KHAI THÁC DU KHÍ  
QUÁ TRÌNH SINH DU KHÍ CA ĐÁ MKHU VC PHỤ ĐỚI TRŨNG  
ĐÔNG BC VÀ PHỤ ĐỚI TRŨNG TRUNG TÂM BNAM CÔN SƠN  
TS. Nguyễn Thị Dậu1, ThS. Phan Văn Thắng2  
KS. Phan Mỹ Linh2, ThS. Hoàng Nhật Hưng2  
1Hội địa chất Dầu khí Việt Nam  
2Viện Dầu khí Việt Nam  
Email: daunt.epc@gmail.com  
Tóm tắt  
Công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí được tiến hành ở bể Nam Côn Sơn từ rất sớm, đến nay nhiều phát hiện dầu/khí  
đã được phát triển và đưa vào khai thác như: Đại Hùng, Rồng Đôi, Hải Thạch, Mộc Tinh, Lan Tây… Bể Nam Côn Sơn đặc  
biệt là khu vực Đông và Đông Bắc bể có lịch sử phát triển địa chất khá phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình  
sinh và di cư hydrocarbon của đá mẹ. Trong bài báo này, nhóm tác giả giới thiệu mô hình địa hóa đá mẹ cho 1 tuyến  
cắt qua khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm của bể Nam Côn Sơn nhằm đánh giá quá trình  
sinh và di thoát hydrocarbon (HC) của đá mẹ.  
Kết quả mô hình địa hóa đá mẹ khu vực nghiên cứu cho thấy: Trầm tích sét Miocene giữa, Miocene dưới và  
Oligocene đạt tiêu chuẩn đá mẹ về độ giàu vật chất hữu cơ. Đá mẹ Oligocene chứa vật chất hữu cơ loại I/III và loại  
III. Đá mẹ Miocene dưới và giữa chứa chủ yếu vật chất hữu cơ loại III và ít loại II. Ở thời điểm hiện tại, độ sâu đạt  
cửa sổ tạo dầu từ 2.500 - 4.700m, khí ẩm và condensate ở 4.700 - 6.200m, đới tạo khí khô nằm dưới độ sâu 6.000 -  
7.200m. Thành phần hydrocarbon trong các tầng chứa ở thời điểm hiện tại cho thấy chúng được cung cấp từ cả đá  
mẹ Oligocene, Miocene dưới lẫn Miocene giữa, trong đó hydrocarbon từ đá mẹ Miocene dưới chiếm ưu thế, thứ hai là  
từ đá mẹ Oligocene còn hydrocarbon từ đá mẹ Miocene giữa không đáng kể. Các tích tụ hydrocarbon trong khu vực  
nghiên cứu không bị ảnh hưởng bởi quá trình phá hủy bào mòn tạo bất chỉnh hợp cuối Miocene giữa. Những bẫy hình  
thành trong đầu Miocene muộn và sớm hơn sẽ có nhiều cơ hội được nạp sản phẩm hơn.  
Từ khóa: Thành phần dầu khí, nghịch đảo Miocene giữa, phụ đới trũng Trung tâm, bể Nam Côn Sơn.  
1. Giới thiệu  
Bể Nam Côn Sơn có diện tích trên 100.000km2, nằm  
trong khoảng từ 6o00’ đến 10o30’ vĩ độ Bắc và 106o00’  
đến 110o30’ kinh độ Đông. Ranh giới phía Bắc của bể là  
đới nâng Côn Sơn, phía Tây và Nam là đới nâng Khorat  
- Natuna, phía Đông là bể Tư Chính - Vũng Mây và phía  
Đông Bắc là bể Phú Khánh. Độ sâu nước biển trong phạm  
vi của bể thay đổi rất lớn, từ vài chục mét ở phía Tây đến  
hơn 2.000m ở phía Đông.  
Trong bài viết này, nhóm tác giả sẽ xây dựng mô hình  
địa hóa đá mẹ cho một tuyến chạy qua khu vực phụ đới  
trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm của bể Nam  
Côn Sơn; phân tích và dự báo cổ địa hình bề mặt trầm tích  
tại từng thời kỳ địa chất, đặc biệt là vào thời kỳ diễn ra  
quá trình di cư và hình thành các tích tụ dầu/khí góp phần  
phục vụ công tác đánh giá rủi ro các cấu tạo triển vọng ở  
khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung  
tâm bể Nam Côn Sơn.  
Trong nghiên cứu trước, nhóm tác giả đã đánh giá quá  
Hình 1. Cột địa tầng tổng hợp phía Ðông bể Nam Côn Sơn  
trình vận động của thành tạo Miocene giữa khu vực phụ  
DU KHÍ - S2/2015  
14  
PETROVIETNAM  
có phương Đông Bắc - Tây Nam.  
Chiều dày trầm tích ở đây có thể trên  
12.000m. Có lẽ do sự hiện diện của dải  
nâng Đại Hùng - Mãng Cầu, chất lượng  
đá mẹ khu vực phụ đới trũng Trung  
tâm (A2) có phần tốt hơn ở khu vực  
Phụ đới trũng Đông Bắc (A1).  
- Phụ đới nâng Mãng Cầu (A6):  
Nằm giữa phụ đới trũng Đông Bắc và  
trũng trung tâm có phương kéo dài  
Đông Bắc - Tây Nam. Đới nâng này bị  
các đứt gãy phân cắt tạo thành các  
khối rất phức tạp. Dải nâng Đại Hùng  
- Mãng Cầu phát triển chủ yếu ở các  
Lô 04-1, 04-3 một phần các Lô 05-1a,  
10 và 11-1. Dải nâng này đóng vai trò  
như một dải nâng giữa trũng, ngăn  
cách giữa hai trũng lớn nhất ở bể Nam Côn Sơn là phụ đới  
trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm.  
Hình 2. Sơ đồ phân vùng cấu trúc bể Nam Côn Sơn và vị trí tuyến aa, bb, cc’  
trũng Đông Bắc bể Nam Côn Sơn phục vụ lập dữ liệu đầu  
vào cho mô hình địa hóa mẹ [3]. Đá móng trước Cenozoic  
gặp ở các giếng khoan của bể Nam Côn Sơn có thành phần  
không đồng nhất gồm các đá magma và biến chất như:  
granite, diorite thạch anh, granodiorite và các đá biến chất  
tuổi Mesozoic. Lát cắt trầm tích Cenozoic bể Nam Côn Sơn  
nói chung có mặt đầy đủ các phân vị địa tầng từ Paleogene  
đến Đệ Tứ [3] (Hình 1). Lịch sử phát triển địa chất bể ảnh  
hưởng trực tiếp tới môi trường lắng đọng trầm tích, quá  
trình sinh dầu khí của đá mẹ, tiềm năng dầu khí của các  
đối tượng triển vọng cũng như khả năng bảo tồn hay  
phá hủy các tích tụ dầu khí. Theo đặc điểm từng loại môi  
trường, kết hợp với các yếu tố chỉ thị môi trường theo kết  
quả khoan, có thể phân ra các đới môi trường tích tụ trầm  
tích vào từng thời từ đồng bằng châu thổ, đầm hồ tới biển  
nông và biển sâu, ứng với mỗi loại môi trường sẽ là những  
loại đá mẹ với khả năng sinh dầu khí khác nhau.  
Lịch sử phát triển bể Nam Côn Sơn gắn liền với quá  
trình tách giãn Biển Đông, có hoạt động địa chất khá phức  
tạp, chia thành nhiều giai đoạn và mỗi giai đoạn lại có các  
hoạt động đặc trưng cho từng vùng/đơn vị cấu trúc khác  
nhau. Có thể ghi nhận được 3 giai đoạn phát triển chính  
ở bể Nam Côn Sơn: Giai đoạn trước tách giãn (pre-rift) từ  
Paleocene đến Eocene; giai đoạn đồng tách giãn (syn-rift)  
từ Oligocene đến Miocene sớm và giai đoạn sau tách giãn  
(post-rift) từ Miocene giữa đến nay. Kết quả minh giải tài  
liệu địa chấn mới (có kiểm tra bằng một số kết quả phân  
tích mẫu địa hóa, thạch học, cổ sinh) ở khu vực phụ trũng  
Đông Bắc bể Nam Côn Sơn [3, 6 - 9, 15] cho thấy:  
- Nhìn chung ở bể Nam Côn Sơn, các thành tạo đồng  
tách giãn (syn-rift) lấp đầy các địa hào và bán địa hào được  
thành tạo trong môi trường lục địa, đầm hồ, phần trên là  
đồng bằng ven biển. Hệ tầng Cau có tiềm năng sinh dầu  
khí từ trung bình tới tốt.  
Bể Nam Côn Sơn có cấu trúc phức tạp do hoạt động  
đứt gãy đã tạo nên các khối nâng, sụt phân bố không theo  
quy luật đặc trưng. Dựa vào đặc điểm cấu trúc của móng  
có thể phân chia ra các đơn vị cấu trúc khác nhau [6] (Hình  
2). Vùng nghiên cứu tập trung chủ yếu ở phụ đới trũng  
Đông Bắc (A1), một phần phụ đới trũng Trung tâm (A2) và  
phụ đới nâng Mãng Cầu (A6).  
- Vào gần cuối Miocene giữa khi hoạt động nghịch  
đảo diễn ra, địa hình bề mặt trầm tích thời kỳ gần cuối  
Miocene giữa thay đổi rất mạnh, nhiều nơi khác hẳn với  
bản đồ cấu trúc nóc Miocene giữa hiện tại. Chỉ trên diện  
hẹp (Lô 04-1) đã thấy vào cuối Miocene giữa trong giai  
đoạn nâng lên bào mòn trầm tích, vận động địa chất ở  
khu vực cấu tạo Sông Tiền (giếng ST-1X) và cấu tạo Sông  
Đồng Nai (giếng SDN-1RX) đã có sự khác biệt [3].  
- Phụ đới trũng Đông Bắc (A1): Nằm ở phía Bắc đới  
nâng Mãng Cầu phát triển dọc theo rìa phía Đông đới  
nâng Côn Sơn. Chiều dày trầm tích Cenozoic ở trung tâm  
trũng có thể đạt tới 10.000m.  
- Tính kế thừa địa hình của các thành tạo Miocene  
dưới và giữa thay đổi mạnh theo chiều ngang. Khu vực  
Đại Hùng, Thiên Ưng, Đại Bàng quan sát được các địa  
- Phụ đới trũng Trung tâm (A2): Đây là phần lún  
chìm sâu nhất của bể ở phía Nam đới nâng Mãng Cầu,  
DU KHÍ - S2/2015  
15  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DU KHÍ  
hydrocarbon. Quá trình di cư hydrocarbon ra khỏi các tập  
trầm tích này xảy ra khi“áp suất sinh hydrocarbon”lớn hơn  
áp suất bão hòa. Trong điều kiện thuận lợi, hydrocarbon  
di cư được tích tụ vào bẫy tạo thành các mỏ dầu khí. Để  
một tầng trầm tích có thể trở thành đá mẹ cần hội đủ các  
yếu tố sau:  
- Độ giàu vật chất hữu cơ (điều kiện cần để sinh  
hydrocarbon): Tầng trầm tích đủ giàu vật chất hữu cơ;  
- Môi trường lắng đọng và phân hủy vật chất hữu cơ:  
Môi trường có độ khử cần thiết, thuận lợi để bảo tồn vật  
chất hữu cơ sinh dầu khí;  
Hình 3. Mặt cắt địa chấn tuyến bb’ bể Nam Côn Sơn  
hào được lấp đầy bởi các thành tạo Miocene dưới và giữa  
trong khi khu vực cấu tạo Sông Tiền và Sông Đồng Nai lại  
không quan sát được hình ảnh kế thừa đó.  
- Mức độ biến đổi của vật chất hữu cơ (điều kiện đủ  
để sinh hydrocarbon): Vật chất hữu cơ trong đá đã trưởng  
thành và sinh hydrocarbon cấp cho các bẫy trong vùng  
nghiên cứu.  
Kết quả nghiên cứu về thành tạo Miocene giữa [3] sẽ  
là cơ sở cho việc lập dữ liệu địa chất và đá mẹ phục vụ  
việc xây dựng mô hình địa hóa đá mẹ khu vực phụ đới  
trũng Đông Bắc bể Nam Côn Sơn; đồng thời đánh giá sự  
ảnh hưởng của chúng tới quá trình sinh, di cư và bảo tồn  
các tích tụ hydrocarbon tại các cấu tạo khu vực này. Vấn  
đề này sẽ được thể hiện trong kết quả mô hình địa hóa đá  
mẹ tuyến cc.  
Xác định độ giàu của vật chất hữu cơ trong đá trầm  
tích dùng phép đo tổng hàm lượng carbon hữu cơ có  
trong đá (TOC). Đánh giá mức độ trưởng thành của vật  
chất hữu cơ chủ yếu sử dụng các chỉ tiêu độ phản xạ ánh  
sáng của vitrinite (Ro,%) và nhiệt độ cực đại ứng với đỉnh  
pic S2 trong phép phân tích Rock Eval (Tmax, oC) [13].  
2. Quá trình sinh dầu khí của đá mẹ  
Kết quả nghiên cứu đá mẹ của Viện Dầu khí Việt Nam  
trên cơ sở các chỉ tiêu về dấu hiệu sinh vật cũng được  
tham khảo kết hợp để đánh giá đá mẹ [1, 7, 9, 14].  
Tuyến cc’ cắt qua khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và  
phụ đới trũng Trung tâm được xây dựng mô hình địa hóa  
nhằm đánh giá quá trình sinh dầu khí của đá mẹ trong  
vùng nghiên cứu. Mức độ kế thừa địa hình của thành  
tạo Miocene giữa cũng như sự phức tạp của hoạt động  
nghịch đảo thời kỳ cuối Miocene giữa thay đổi khá rõ từ  
Tây Nam sang Đông Bắc (Hình 3). Tại phía Tây Nam, thành  
tạo Miocene dưới và giữa lấp đầy các địa hào khu vực Đại  
Hùng, Thiên Ưng và Đại Bàng. Có lẽ vào cuối Miocene  
giữa, các địa hào này tiếp tục sụt đồng thời chịu tác động  
ép từ phía phải mặt cắt tạo nên hình ảnh “uốn nhẹ” của  
các thành tạo trong trũng hẹp, địa hình này vẫn còn tới  
hiện tại. Tuy nhiên khối nâng Đại Bàng dường như xuất  
hiện từ cuối Miocene sớm (?) và duy trì tới hiện tại. Hầu  
hết đứt gãy dừng ở ranh giới bất chỉnh hợp Miocene giữa,  
riêng khu vực Đại Hùng, đứt gãy cắt lên tận phần dưới  
Pliocene [3].  
Mẫu đá tại các giếng khoan được phân tích địa hóa  
phân bố trong các tầng Miocene và Oligocene. Tuy nhiên,  
số lượng mẫu tập trung chủ yếu trong trầm tích Miocene  
dưới và Miocene giữa. Trầm tích Miocene trên ít được  
phân tích địa hóa vì theo kết quả nghiên cứu mô hình,  
trầm tích Miocene trên ở bể Nam Côn Sơn hầu như chưa  
trưởng thành hoặc diện tích rất hẹp mới bắt đầu trưởng  
thành, chưa đủ điều kiện để trở thành tầng đá mẹ sinh dầu  
khí. Lượng mẫu tuổi Oligocene phân tích địa hóa cũng  
hạn chế do rất ít giếng khoan tới trầm tích Oligocene. Vì  
thế, trong nghiên cứu này sẽ tập trung đánh giá trầm tích  
Miocene giữa, Miocene dưới và Oligocene ở khu vực các  
Lô 03, 04, 05-1a, 05-1b và 11-1 [3].  
Biểu đồ quan hệ tổng tiềm năng sinh (S1 + S2) và hàm  
lượng vật chất hữu cơ (TOC) trong đá mẹ tuổi Miocene  
và Oligocene (Hình 4 - 6) cho thấy phần lớn mẫu có hàm  
lượng vật chất hữu cơ đạt tiêu chuẩn tiềm năng hữu cơ  
mức trung bình đến rất tốt, song có khả năng sinh dầu  
hay khí khác nhau. Sau đây là những đánh giá khả năng  
sinh hydrocarbon của vật chất hữu cơ trong từng tầng  
trầm tích.  
2.1. Kết quả nghiên cứu địa hóa đá mẹ trong vùng  
nghiên cứu  
Có 3 loại đá trầm tích sét kết/bột kết, sét than và than  
có khả năng bảo tồn vật chất hữu cơ tốt trong quá trình  
thành đá. Dưới tác dụng của yếu tố nhiệt độ và thời gian  
trong điều kiện yếm khí, vật chất hữu cơ chuyển hóa thành  
DU KHÍ - S2/2015  
16  
PETROVIETNAM  
2.1.1. Trầm tích Miocene giữa  
Nghèo  
Cực tốt  
900  
750  
600  
450  
300  
150  
1000  
100  
10  
Gần nửa số mẫu có hàm lượng vật  
chất hữu cơ đạt mức trung bình trở lên  
(TOC > 0,5%), giá trị HI phổ biến ở mức  
150 - 300mgHC/gTOC. Một số mẫu ở Lô  
04.2 có giá trị HI khá cao (300 - 450mgHC/  
gTOC). Trên biểu đồ quan hệ HI-Tmax, mẫu  
phân bố chủ yếu trong trường vật chất  
hữu cơ loại III và hỗn hợp loại III-II. Trên  
biểu đồ tiềm năng, mẫu than ở Lô 11-1,  
04-3 và 03 phân bố trong vùng có khả  
năng sinh khí. Các mẫu sét và sét than  
từ Lô 04-2, 04-3 và 05-1a phần lớn phân  
bố trong trường sinh dầu. Theo kết quả  
nghiên cứu độ trưởng thành của vật chất  
hữu cơ, các mẫu tuổi Miocene giữa tại  
các giếng khoan trong vùng nghiên cứu  
hầu như chưa trưởng thành, một số ít đạt  
ngưỡng trưởng thành (Hình 4).  
Loại I  
Loại II  
Loại III  
1
0
0.1  
0.1  
1
10  
100  
Lô 04.3  
400  
420  
440  
460  
480  
o
500  
520  
540  
TOC - (Wt% )  
Tmax ( C)  
Lô 03  
Lô 05.1a  
Lô 04.1  
Lô 05.1b  
Lô 04.2  
Lô 11.1  
Lô 03  
Lô 05.1a  
Lô 04.1  
Lô 05.1b  
Lô 04.2  
Lô 11.1  
Lô 04.3  
Hình 4. Biểu đồ phân loại và tiềm năng sinh hydrocarbon của vật chất hữu cơ trong trầm tích Miocene giữa  
Nghèo  
Cực tốt  
900  
750  
600  
450  
300  
150  
1000  
100  
10  
Loại I  
Theo kết quả nghiên cứu của Viện  
Dầu khí Việt Nam, trầm tích tại đáy tầng  
Miocene giữa ở khu vực trũng sâu của  
phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng  
Trung tâm hiện tại đang ở cửa sổ tạo dầu.  
Như vậy, phần lớn trầm tích Miocene  
giữa ở khu vực nghiên cứu chưa thể cung  
cấp hydrocarbon cho các tầng chứa.  
Loại II  
Loại III  
1
0
0.1  
0.1  
1
10  
100  
400  
420  
440  
460  
480  
o
500  
520  
540  
TOC - (Wt%)  
2.1.2. Trầm tích Miocene dưới  
Tmax ( C)  
Lô 04.2  
Lô 11.1  
Lô 03 Lô 04.1 Lô 04.2 Lô 04.3 Lô 05.1a Lô 05.1b Lô 11.1  
Lô 03  
Lô 05.1a  
Lô 04.1  
Lô 04.3  
Lô 05.1b  
Khá nhiều mẫu địa hóa thuộc tầng  
trầm tích Miocene dưới được phân tích.  
Đây là một trong những tầng được đánh  
giá đá mẹ có khả năng sinh dầu khí tốt  
trong khu vực nghiên cứu.  
Hình 5. Biểu đồ phân loại và tiềm năng sinh hydrocarbon của vật chất hữu cơ trong trầm tích Miocene dưới  
Nghèo  
Cực tốt  
900  
750  
600  
450  
300  
150  
1000  
100  
10  
Loại I  
Biểu đồ phân loại và tiềm năng sinh  
hydrocarbon của vật chất hữu cơ trong  
tầng trầm tích Miocene dưới cho thấy  
phần lớn mẫu phân bố trong trường vật  
chất hữu cơ loại III, một số mẫu phân bố  
trong trường vật chất hữu cơ hỗn hợp  
loại II và III. Nhiều mẫu đã trưởng thành,  
thậm chí một số ít mẫu đã ở cuối pha tạo  
dầu (Hình 5). Phần lớn mẫu từ Lô 11-1 và  
Lô 04-2 phân bố trong vùng có khả năng  
sinh dầu và hỗn hợp dầu khí. Các mẫu  
sét than và than có tiềm năng sinh khí là  
chính, một số mẫu sét than Lô 04-2 có giá  
Loại II  
TL-2X  
TL -2X  
1
Loại III  
0.1  
0
0.1  
1
10  
100  
400  
420  
440  
460  
480  
o
500  
520  
540  
TOC - (Wt%)  
Lô 05.1b  
Tmax ( C)  
Lô 05.1b  
Lô 04.3  
Lô 11.1  
Lô 04.3  
Lô 11.1  
Hình 6. Biểu đồ phân loại và tiềm năng sinh hydrocarbon của vật chất hữu cơ trong trầm tích Oligocene  
DU KHÍ - S2/2015  
17  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DU KHÍ  
trị HI > 300mgHC/gTOC phân bố trong vùng  
có khả năng sinh hỗn hợp khí và dầu.  
Miocene dưới khu vực phía Đông bể đôi khi gặp vật chất hữu cơ nguồn  
đầm hồ.  
- Than trong vùng nghiên cứu có tiềm năng sinh khí là chính, sét  
và sét than có khả năng sinh cả khí và dầu.  
2.1.3. Trầm tích Oligocene  
Tại các giếng khoan ở bể Nam Côn Sơn,  
trầm tích Đệ Tam cổ nhất đã gặp có tuổi  
Oligocene. Theo tài liệu địa chấn, trầm tích  
tuổi Oligocene có chiều dày thay đổi mạnh từ  
Tây sang Đông, đặc biệt ở các trũngTrung tâm  
và phía Đông có nơi trầm tích tuổi Oligocene  
dày tới 7.000 - 8.000m. Đến nay, mới có một  
số ít giếng khoan tới trầm tích tuổi Oligocene  
và đa số mới chỉ khoan tới phần trên của tầng  
này. Vì vậy, mẫu phân tích địa hóa chưa thể  
đại diện cho cả tầng trầm tích tuổi Oligocene  
trong vùng nghiên cứu và tiềm năng sinh  
hydrocarbon thực sự của tầng Oligocene đến  
nay vẫn còn là một ẩn số. Đánh giá trong bài  
báo này chỉ dựa trên cơ sở một số ít mẫu thu  
thập từ tầng Oligocene tại các giếng khoan  
khu vực Lô 04-3, 05-1b và Lô 11-1.  
- Đá mẹ ở khu vực Lô 04-3, 11-1 và một số mẫu ở Lô 05-1b có khả  
năng sinh dầu trội hơn các khu vực còn lại.  
Tuy nhiên, mức độ trưởng thành của đá mẹ tại giếng khoan và  
khu vực đá mẹ chìm sâu là một tiêu chí quan trọng để đánh giá khả  
năng sinh hydrocarbon của chúng. Theo kết quả phân tích mẫu tại các  
giếng khoan, mẫu tuổi Miocene giữa phần lớn chưa trưởng thành, số ít  
mẫu đang ở đới trưởng thành. Mẫu Miocene dưới chủ yếu chưa trưởng  
thành, lượng mẫu ít hơn đã đạt cửa sổ tạo dầu và một số ít mẫu rơi vào  
cuối pha tạo dầu (Hình 5). Phần lớn mẫu tuổi Oligocene đang trong  
cửa sổ tạo dầu, một số mẫu đã rơi vào cuối pha tạo dầu.  
2.2. Kết quả mô hình địa hóa đá mẹ khu vực tuyến cc’  
Phần mềm PetroMod được sử dụng để xây dựng mô hình địa hóa  
đá mẹ tuyến cc’ nhằm đánh giá quá trình sinh hydrocarbon của đá mẹ  
khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng Trung tâm. Kết quả  
nghiên cứu đá mẹ và môi trường trầm tích, số liệu về địa nhiệt tại các  
giếng khoan lân cận và mặt cắt địa chấn, các sự kiện địa chất chính của  
bể (Bảng 1), là cơ sở để lập dữ liệu đầu vào cho mô hình 2D.  
Hình 6 cho thấy phần lớn mẫu phân bố  
ở vùng biểu thị vật chất hữu cơ loại III và đã  
đạt cửa sổ tạo dầu. Riêng Lô 05-1b, mẫu có  
giá trị HI khoảng 300 - 440mgHC/gTOC phân  
bố trong vùng biểu thị khả năng sinh dầu  
là chính, các mẫu còn lại biểu thị khả năng  
sinh cả dầu và khí. Kết quả nghiên cứu dấu  
hiệu sinh vật một số mẫu sét tuổi Oligocene  
tại giếng 05-1b-TL-2X của Viện Dầu khí Việt  
Nam cho thấy vật chất hữu cơ có nguồn gốc  
đầm hồ.  
Tuyến cc’ (Hình 2) cắt qua giếng khoan và vùng đá mẹ chìm sâu,  
chạy từ Lô 04-2 qua Lô 04-1 (trùng với tuyến inline 3132) và cắt tới  
trũng sâu của phụ đới trũng Trung tâm nhằm mô phỏng quá trình  
sinh dầu khí của đá mẹ khu vực nghiên cứu. Ngoài các ranh giới phản  
xạ chính tương đương với nóc Miocene trên, nóc Miocene giữa, nóc  
Miocene dưới, nóc Oligocene và nóc móng, ranh giới Bright spot được  
coi là nóc tập sét trong Pliocene [7, 8, 15].  
Các tham số đầu vào về địa chất gồm các biến cố địa chất chính  
của vùng nghiên cứu (Bảng 1), tuổi địa chất của các tập, chiều dày hiện  
tại của các tập trầm tích; loại đá (liên quan đến độ dẫn nhiệt và quá  
trình nén ép trầm tích - sediment compaction); vai trò của các tập trầm  
tích trong hệ thống dầu khí...  
Tóm lại nghiên cứu, đánh giá tiềm năng  
hữu cơ các tập trầm tích cũng như dấu hiệu  
sinh vật của vật chất hữu cơ trong các mẫu  
có thể thấy:  
Tham số nhiệt (dòng nhiệt - heat flow) trên trái đất dao động  
trong khoảng 50 - 63mW/m2 (1,2 - 1,5HFU); ở vùng thềm là 38mW/m2  
(0,9HFU); ở vùng núi lửa Cenozoic lên tới 84mW/m2 (2HFU); vùng sống  
- Trầm tích Miocene giữa, Miocene sớm  
và Oligocene đạt tiêu chuẩn đá mẹ về độ giàu  
vật chất hữu cơ ở mức trung bình đến tốt và  
rất tốt. Đá mẹ bao gồm sét bột kết, sét than  
và than được lắng đọng trong môi trường  
đồng bằng châu thổ (fluvial - deltaic), đầm  
hồ (lacustrine) và biển nông. Những khu vực  
trũng sâu của bể Nam Côn Sơn (Lô 05, 06,  
11-2 và phía Đông của Lô 12) có sự đóng góp  
của vật liệu hữu cơ nguồn đầm hồ trong đá  
mẹ Oligocene. Phía dưới của tầng trầm tích  
Bảng 1. Các sự kiện địa chất chính ở bể Nam Côn Sơn  
Thời gian lắng đọng  
trầm tích  
(triệu năm trước)  
Thời gian bào mòn/  
dừng trầm tích  
(triệu năm trước)  
0
Tập  
Pliocene - Đệ Tứ  
Miocene trên  
Miocene giữa  
Miocene dưới  
Oligocene  
5,0 - 0  
10,0 - 5,5  
16,0 - 12,5  
24,0 - 16,0  
5,5 - 5,0  
12,5 - 10,0  
35,5 - 25,0  
25,0 - 24,0  
Móng Đệ Tam  
Trước 35,5  
DU KHÍ - S2/2015  
18  
PETROVIETNAM  
núi giữa đại dương giá trị này là 8HFU (335mW/  
m2) [11]. Trong quá trình khảo sát mô hình, dòng  
nhiệt cổ trong thời kỳ synrift sẽ được lấy xu thế  
theo mô hình Mackenzie và điều chỉnh cùng với  
những tham số điều kiện biên khác để đạt kết quả  
tối ưu [13].  
Nhiệt độ bề mặt trầm tích hiện tại được  
lấy theo nhiệt độ đáy biển tại các giếng khoan.  
Thông thường nhiệt độ bề mặt cổ được dự  
đoán theo lịch sử phát triển địa chất của bể.  
Độ sâu mực nước vào thời kỳ hình thành các  
tập trầm tích cũng là dữ liệu tham khảo rất tốt  
cho việc xác định nhiệt độ bề mặt cổ. Khu vực  
độ sâu nước < 200m nhiệt độ bề mặt trầm tích  
khoảng 20oC, độ sâu nước 800m ứng với 17oC  
(khu vực giếng khoan SDN-1X), độ sâu nước  
khoảng 1.500m có thể ứng với 10oC [3].  
Hình 7. Mặt cắt địa chấn tuyến bb’ thể hiện các nêm lấn hình thành  
vào thời Pliocene - Đệ Tứ [3]  
Bảng 2. Dữ liệu đầu vào cho mô hình 2D  
Tại bể Nam Côn Sơn, thời kỳ đầu Oligocene,  
khu vực các Lô 05-2, 05-3, 04-1 và Lô 04-2 trầm  
tích được hình thành trong môi trường cửa sông  
tam giác châu, đầm hồ vũng vịnh chiếm ưu thế,  
biểu hiện bằng sự phổ biến các lớp sét chứa than  
và than. Thời kỳ cuối Oligocene, môi trường trầm  
tích chịu ảnh hưởng của yếu tố biển ven bờ đến  
biển nông, càng về phía Đông Bắc yếu tố biển  
càng tăng. Thời kỳ Miocene sớm, trầm tích tập này  
phủ trên toàn bộ khu vực nghiên cứu. Trầm tích  
Miocene dưới được lắng đọng trong môi trường  
thay đổi từ đồng bằng ven biển đến biển nông.  
Càng về phía Đông, tính chất biển càng tăng lên rõ  
rệt, tỷ lệ cát kết giảm dần, đá sét tăng lên, phong  
phú hóa đá biển và glauconite. Thời kỳ Miocene  
giữa, môi trường trầm tích yếu là biển nông, thềm  
giữa đến thềm ngoài, phần trên tập Miocene giữa  
khu vực giếng khoan SDN-1X thành tạo trong môi  
trường biển sâu [7, 9].  
Phụ đới trũng Đông Bắc  
Phụ đới trũng Trung tâm  
Hình 8. Tuyến cc, kết quả mô hình trưởng thành thời điểm hiện tại  
Bảng 3. Độ sâu đạt các ngưỡng trưởng thành tại tuyến cc’  
Ngưỡng  
0,55%Ro  
0,72%Ro  
1,3%Ro  
2,0%Ro  
Độ sâu (m) 2.500 - 3.700 3.300 - 4.800 4.700 - 6.200 6.000 - 7.200  
Dữ liệu về điều kiện biên (boundary condition)  
của mô hình 2D được kiểm soát bằng tài liệu môi  
trường, tài liệu địa chất khu vực nghiên cứu, tài  
liệu địa chấn, tài liệu cổ sinh, thạch học tại các  
giếng khoan và số liệu mô hình 1D tại các giếng  
04-2-NB-1X, 04-1-ST-2X và 04-3-UT-1X. Cụ thể,  
tài liệu địa chấn giúp nhận diện tướng trầm tích  
(facies), xác định vị trí các slop cổ, dự báo độ sâu  
mực nước cổ (Hình 7).  
Tham số về đá mẹ gồm độ giàu vật chất hữu  
cơ được xác định thông qua phép phân tích tổng  
Hình 9. Tuyến cc, độ bão hòa hydrocarbon thời điểm hiện tại  
DU KHÍ - S2/2015  
19  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DU KHÍ  
hàm lượng carbon hữu cơ và nhiệt phân tiêu  
chuẩn Rock Eval. Chất lượng vật chất hữu cơ (loại  
vật chất hữu cơ) được xác định chủ yếu dựa vào  
kết quả nhiệt phân trên biểu đồ Van-Krevelen, có  
tham khảo các phân tích chi tiết khác như thành  
phần marceral, tướng môi trường, thành phần  
hóa học cũng như dấu hiệu sinh vật trong chất  
chiết từ đá mẹ (phân tích GC, GCMS). Kết hợp  
với kết quả nghiên cứu môi trường trầm tích và  
tướng địa chấn để có cơ sở input đá mẹ đầm hồ  
hay cửa sông tam giác châu… cho từng vùng cụ  
thể trên mặt cắt.  
Hình 10. Tuyến cc, kết quả mô hình di cư thời điểm hiện tại  
Khu vực nghiên cứu có mặt 3 tầng đá mẹ.Trầm  
tích hạt mịn tuổi Oligocene (đá mẹ Oligocene)  
chứa chủ yếu hỗn hợp kerogen loại I, hỗn hợp I/III  
(được hiểu là tương đương loại IIB trong cơ sở dữ  
liệu mô hình) và loại III. Độ giàu vật chất hữu cơ  
từ trung bình đến rất tốt, có tiềm năng sinh dầu  
và khí. Trầm tích hạt mịn tuổi Miocene sớm (đá  
mẹ Miocene dưới) chứa chủ yếu kerogen loại III  
và hỗn hợp loại I/III, độ giàu vật chất hữu cơ trung  
bình, có tiềm năng sinh dầu và khí. Than và sét  
than trong vùng nghiên cứu có tiềm năng sinh  
khí. Theo kết quả nghiên cứu địa chất và phân  
tích tướng địa chấn, vào thời kỳ Miocene sớm  
phía Đông bể Nam Côn Sơn trầm tích được lắng  
đọng trong điều kiện thềm giữa đến thềm ngoài;  
sang thời kỳ Miocene muộn xuất hiện môi trường  
biển sâu. Vì vậy, trong đá mẹ tuổi Miocene giữa dự  
đoán sẽ có mặt vật chất hữu cơ biển, loại II. Trầm  
tích hạt mịn tuổi Miocene giữa (đá mẹ Miocene  
giữa) chứa chủ yếu kerogen loại III và một ít loại  
II (vật chất hữu cơ biển), độ giàu vật chất hữu cơ  
trung bình, có tiềm năng sinh dầu và khí (Bảng 2).  
Kết quả mô hình cho thấy độ sâu đạt các  
ngưỡng trưởng thành thay đổi khá mạnh do sự  
thay đổi về chế độ địa nhiệt và độ sâu nước tại  
từng vị trí trên mặt cắt (Hình 8, Bảng 3).  
Hình 8 cho thấy trầm tích Oligocene tại tuyến  
cc’ chủ yếu nằm trong đới tạo khí khô, phần lớn  
tầng trầm tích Miocene dưới đang nằm trong đới  
tạo khí ẩm và pha tạo dầu muộn. Chỉ có phần  
dưới của trầm tích Miocene giữa đạt cửa sổ tạo  
dầu vì vậy có thể đá mẹ này rất ít khả năng cung  
cấp hydrocarbon cho các bẫy trong vùng nghiên  
cứu. Như vậy, đá mẹ Miocene dưới và phần trên  
đá mẹ Oligocene vẫn tiếp tục cấp sản phẩm cho  
các bẫy ở khu vực này.  
Hình 11. Tuyến cc, thành phần hydrocarbon trong tầng chứa thể hiện vai trò  
của các tầng đá mẹ thay đổi theo thời gian  
DU KHÍ - S2/2015  
20  
PETROVIETNAM  
Mặt cắt thể hiện độ bão hòa hydrocarbon thời điểm  
hiện tai trên tuyến cc’ (Hình 9) cho thấy tại khu vực  
cấu tạo Sông Tiền (nơi trầm tích Miocene bị nâng cao)  
hydrocarbon tập trung cao hơn các nơi khác.  
đá mẹ về độ giàu vật chất hữu cơ. Đá mẹ Oligocene chứa  
vật chất hữu cơ loại I/III và loại III. Đá mẹ Miocene dưới và  
giữa chứa chủ yếu vật chất hữu cơ loại III và ít loại II.  
Ở thời điểm hiện tại, độ sâu đạt cửa sổ tạo dầu từ  
2.500 - 4.700m, khí ẩm và condensate ở 4.700 - 6.200m,  
đới tạo khí khô nằm dưới độ sâu 6.000 - 7.200m. Tại trũng  
sâu của phụ đới trũng Trung tâm, hydrocarbon bắt đầu di  
thoát sớm nhất từ khoảng 24 triệu năm trước. Từ khoảng 8  
triệu năm trước, hydrocarbon đã di cư và tích tụ trong các  
tầng chứa Miocene. Hiện tại, đá mẹ Miocene dưới và phần  
trên đá mẹ Oligocene vẫn tiếp tục cấp sản phẩm cho các  
bẫy ở khu vực tuyến cc.  
Theo kết quả mô hình di cư (Hình 10 và 11), tại trũng  
sâu của phụ đới trũng Trung tâm thời điểm hydrocarbon  
bắt đầu di thoát sớm nhất từ khoảng đầu thời kỳ Miocene  
sớm nhưng thời điểm bắt đầu có tích tụ hydrocarbon trong  
tầng chứa mới chỉ từ khoảng 8 triệu năm trước (Hình 11).  
Thành phần hydrocarbon trong tầng chứa thay  
đổi khá rõ theo thời gian (Hình 11). Khoảng 10 triệu  
năm trước, chưa thấy xuất hiện tích tụ hydrocarbon.  
Khoảng 8 triệu năm trước, hydrocarbon trong tầng  
chứa gồm cả dầu và khí, được sinh ra chủ yếu từ đá mẹ  
Oligocene, hydrocarbon do đá mẹ Miocene dưới cung  
cấp rất ít (chỉ vài %). Đến khoảng 4 triệu năm trước, có  
tới ~90% hydrocarbon trong tầng chứa được sinh từ đá  
mẹ Oligocene và sản phẩm ở cả dạng dầu lẫn dạng khí.  
Khoảng 2 triệu năm trước, tỷ lệ hydrocarbon sinh từ đá  
mẹ Oligocene bắt đầu giảm rõ rệt nhưng vẫn có cả dầu  
lẫn khí. Hiện tại, sản phẩm trong tầng chứa hầu như là  
khí và được sinh chủ yếu từ đá mẹ Miocene dưới, đặc biệt  
bắt đầu xuất hiện (dù rất ít) sản phẩm của đá mẹ Miocene  
giữa. Như vậy, tại khu vực tuyến cc, hydrocarbon còn lại  
trong tầng chứa chủ yếu được sinh từ đá mẹ Miocene  
dưới và sản phẩm chủ yếu là khí.  
Thành phần hydrocarbon trong đá chứa từ 8  
đến 2 triệu năm trước cho thấy trầm tích hạt mịn tuổi  
Oligocene là đá mẹ chính ở khu vực phụ đới trũng Đông  
Bắc và phụ đới trũng Trung tâm. Tuy nhiên, thành phần  
hydrocarbon trong các tầng chứa ở thời điểm hiện tại  
cho thấy chúgn được cung cấp từ cả đá mẹ Oligocene,  
Miocene dưới lẫn Miocene giữa. Trong đó, hydrocarbon  
từ đá mẹ Miocene dưới chiếm ưu thế, thứ hai là từ đá  
mẹ Oligocene, còn hydrocarbon từ đá mẹ Miocene giữa  
không đáng kể.  
Các tích tụ hydrocarbon trong khu vực nghiên cứu  
không bị ảnh hưởng bởi quá trình phá hủy bào mòn tạo  
bất chỉnh hợp cuối Miocene giữa. Các bẫy hình thành từ  
đầu thời kỳ Miocene muộn và sớm hơn sẽ có nhiều cơ hội  
được nạp sản phẩm hơn.  
Hình 10 thể hiện kết quả mô hình di cư hydrocarbon  
khu vực tuyến cc’ thời điểm hiện tại có xuất hiện những  
mũi tên màu xanh (biểu thị sự di cư của dầu) xuyên  
thẳng lên phía trên, có thể đây là biểu hiện thất thoát  
dầu. Điều này có thể lý giải một phần cho sự thay đổi  
tỷ lệ hydrocarbon trong tầng chứa được sinh từ đá mẹ  
Oligocene và Miocene dưới theo thời gian; sự vắng mặt  
dầu trong đá chứa ở thời điểm hiện tại (trong khi 2 triệu  
năm trước trong đá chứa đã tồn tại dầu) (Hình 11).  
Tài liệu tham khảo  
1. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Mô hình địa hóa bể trầm  
tích Nam Côn Sơn. Viện Dầu khí Việt Nam. 2000.  
2. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Kết quả liên kết dầu - đá  
mẹ bể Nam Côn Sơn. Tuyển tập Báo cáo Hội nghị khoa học  
và Công nghệ Quốc tế “Dầu khí Việt Nam 2010 - Tăng tốc  
phát triển. 9 /2010; 1; trang 341 - 358.  
Phân tích kết quả mô hình tuyến cc’ cho thấy sản  
phẩm (nếu có) ở khu vực cấu tạo Sông Tiền và kề cận chủ  
yếu là khí và có nguồn gốc chủ yếu từ đá mẹ Miocene  
dưới, các tích tụ hydrocarbon trong khu vực nghiên cứu  
nhìn chung không bị ảnh hưởng bởi quá trình phá hủy  
bào mòn tạo bất chỉnh hợp cuối Miocene giữa. Các bẫy  
hình thành trong đầu thời kỳ Miocene muộn và sớm hơn  
sẽ có nhiều cơ hội được nạp sản phẩm hơn.  
3. Nguyễn Thị Dậu và nnk. Đánh giá quá trình vận  
động của thành tạo Miocene giữa khu vực phụ trũng Đông  
Bắc bể Nam Côn Sơn phục vụ lập dữ liệu đầu vào cho mô  
hình địa hóa mẹ. Tạp chí Dầu khí. 2014; 1: trang 33 - 43.  
4. Nguyễn Du Hưng và nnk. Báo cáo tính trữ lượng mỏ  
Đại Hùng. Viện Dầu khí Việt Nam. 2005.  
5. Nguyễn Trọng Tín và nnk. Chính xác hoá cấu trúc  
địa chất và trữ lượng dầu khí phần phía Đông bể Cửu Long  
và Nam Côn Sơn. Viện Dầu khí Việt Nam. 1995.  
3. Kết luận  
Kết quả mô hình địa hóa đá mẹ cho thấy trầm tích sét  
Miocene giữa, Miocene dưới và Oligocene đạt tiêu chuẩn  
6. Nguyễn Trọng Tín và nnk. Đánh giá tiềm năng và  
DU KHÍ - S2/2015  
21  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DU KHÍ  
trữ lượng dầu khí bể trầm tích Nam Côn Sơn trên cơ sở tài  
liệu đến 12/2003. Viện Dầu khí Việt Nam. 2005.  
Norwegian Petroleum Society (NPF) Special Publication.  
1993; 3: p. 1 - 34.  
7. VPI-Labs. Nghiên cứu cổ địa lý tướng đá Lô 04-1.  
12. M.L.Bordenave. Applied petroleum geochemistry.  
Viện Dầu khí Việt Nam. 2012.  
Editions Technip. 1993.  
8. VPI-Labs. Nghiên cứu tầng sinh Lô 04-1. Viện Dầu  
khí Việt Nam. 2013.  
13. John M.Hunt. Petroleum geochemistry and  
geology (2nd edition). W.H Freeman. 1995.  
9. VPI-Labs. Phân tích cổ sinh địa tầng giếng khoan  
04-1-ST-2X. Viện Dầu khí Việt Nam. 2012.  
14. Kenneth E.Peters, J.Michael Moldowan. The  
biomarkers guide: Interpreting molecular fossils in petroleum  
and ancient sediments. Prentice Hall. 1993.  
10. Barry Katz. Petroleum source rocks. Springer. 1995.  
15. Britist Gas Vietnam. Well 04.1-ST-1X final well  
report. 1994.  
11. Christian Hermanrud. Basin modelling techniques-  
an overview. Basin modelling advances and applications:  
The maturation of source rock in the northeastern  
sub-trough and the central sub-trough, Nam Con Son basin  
Nguyen Thi Dau1, Phan Van Thang2  
Phan My Linh2, Hoang Nhat Hung2  
1Vietnam Association of Petroleum Geology  
2Vietnam Petroleum Institute  
Summary  
Exploration activities have been carried out for a long time in the Nam Con Son basin. So far, many oil and gas dis-  
coveries have been made in this area and several fields developed and put into production such as Dai Hung, Rong  
Doi, Hai Thach, Moc Tinh, Lan Tay… The Nam Con Son basin, especially the eastern and northeastern parts, has a  
complicated geological development history which strongly influences the hydrocarbon generation and migration in  
the area. In this paper, the authors present a geochemical model of a section through the northeastern and central  
sub-troughs to evaluate the hydrocarbon generation and migration processes of the source rocks.  
The results of geochemical model in the studied area showed that the Middle Miocene, Lower Miocene and Oligo-  
cene fine rained sediments are considered as source rocks in terms of organic matter richness. Oligocene source rock  
contains kerogen type I/III and type III. Middle Miocene and Lower Miocene source rock contain mainly kerogen type  
III and a little of type II. At present, the maturity thresholds are as follows: Oil window is from 2,500 - 4,700m, wet  
gas and condensate window is 4,700 - 6,200m and dry gas is below 6,000 - 7,200m. The hydrocarbon component in  
reservoirs indicate that they were supplied from Oligocene, Lower Miocene together with Middle Miocene, in which  
dominant is hydrocarbon from Lower Miocene, then from Oligocene source rock, while the volume of hydrocarbon  
from Middle Miocene is very small. In general, hydrocarbon traps in the studied areas were not affected by uplift  
creating an eroded unconformity at Middle Miocene. The traps, formed in early Late Miocene and earlier, will have  
higher chances to trap hydrocarbon expulsion from defined matured source rocks.  
Key word: Petroleum component, Middle Miocene uplift, central sub-trough, Nam Con Son basin.  
DU KHÍ - S2/2015  
22  
pdf 9 trang yennguyen 16/04/2022 4460
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình sinh dầu khí của đá mẹ khu vực phụ đới trũng Đông Bắc và phụ đới trũng trung tâm bể Nam Côn Sơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfqua_trinh_sinh_dau_khi_cua_da_me_khu_vuc_phu_doi_trung_dong.pdf