Nhu cầu và giải pháp phát triển công đoàn tại cơ sở y tế ngoài công lập
TẠP CHÍ Y h c vi t nam tẬP 502 - th ng 5 - s 1 - 2021
support in obesity hypoventilation: A randomized
thành công khi bắt đầu thở không xâm nhập
bằng phương thức AVAPS.
crossover trial. Chest, 130(3), 815–821.
6. Murphy P., Davidson C., Hind M. và cộng sự.
(2012). Volume targeted versus pressure support
non-invasive ventilation in patients with super
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gold Reports (2019). Global Initiative for
obesity and chronic respiratory failure:
randomised controlled trial. Thorax, 67, 727–34.
A
Chronic Obstructive Lung Disease
<http://goldcopd.org/gold-reports/>,
28/09/2020.
-
GOLD.
accessed:
7. Confalonieri M., Garuti G., Cattaruzza M.S. và
cộng sự. (2005). A chart of failure risk for
noninvasive ventilation in patients with COPD
exacerbation. Eur Respir J, 25(2), 348–355.
2. Schmidt M., Demoule A., Deslandes-Boutmy
E. và cộng sự. (2014). Intensive care unit
admission in chronic obstructive pulmonary
disease: patient information and the physician’s
decision-making process. Crit Care, 18(3), R115.
3. Ai-Ping C., Lee K.-H., và Lim T.-K. (2005). In-
hospital and 5-year mortality of patients treated in
8. Ciftci F. (2017). Evaluation of the feasibility of
average
volume-assured
pressure
support
ventilation in the treatment of acute hypercapnic
respiratory failure associated with chronic
obstructive pulmonary disease:
Journal of Critical Care, 40.
A pilot study.
the ICU for acute exacerbation of COPD:
retrospective study. Chest, 128(2), 518–524.
a
9. Briones Claudett K.H., Briones Claudett M.,
Chung Sang Wong M. và cộng sự. (2013).
Noninvasive mechanical ventilation with average
volume assured pressure support (AVAPS) in
patients with chronic obstructive pulmonary
disease and hypercapnic encephalopathy. BMC
Pulm Med, 13, 12.
4. Breen D., Churches T., Hawker F. và cộng sự.
(2002). Acute respiratory failure secondary to
chronic obstructive pulmonary disease treated in
the intensive care unit: a long term follow up
study. Thorax, 57(1), 29–33.
5. Storre J.H., Seuthe B., Fiechter R. và cộng
sự. (2006). Average volume-assured pressure
NHU CẦU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÔNG ĐOÀN
TẠI CƠ SỞ Y TẾ NGOÀI CÔNG LẬP
Phạm Thanh Bình1, Hoàng Thị Mỹ Hạnh2,
Nguyễn Đức Hữu3, Nguyễn Thanh Tùng4, Trần Thị Thu Hiền1
đầy đủ có tỷ lệ 65,8% cao hơn so với tổ chức y tế
ngoài công lập chưa thành lập công đoàn chỉ đạt
TÓM TẮT57
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và nhu cầu của
46,7%. Các đối tượng được phỏng vấn có 74.9%
mong muốn các tổ chức đại diện người lao động bảo
vệ tốt hơn cho người lao động; 71,9% cho biết họ
không muốn có tổ chức đại diện người lao động
không thuộc hệ thống công đoàn trong các cơ sở y tế
ngoài công lập; còn lại 22,7% chưa biết lập trường,
quan điểm của mình. Về phương pháp tập hợp đoàn
viên thì trên 70% người được hỏi cho rằng phải kết
hợp hai phương pháp từ dưới lên và từ trên xuống.
Kết luận: đổi mới phương thức tập hợp người lao
động ở cơ sở y tế ngoài công lập là yêu cầu cấp bách
đối với các cấp công đoàn.
người lao động tại các cơ sở y tế ngoài công lập và
giải pháp. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang, sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu
định tính và định lượng; nghiên cứu bàn giấy kết hợp
với nghiên cứu thực địa 543 người lao động ở cơ sở y
tế ngoài công lập đã thành lập và chưa thành lập
công đoàn tại Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Kết
quả: năm 2019 các cơ sở Y tế ngoài công lập có xu
hướng gia tăng 14,5% so với năm 2018, nhưng chỉ có
0,65% tổ chức công đoàn được thành lập. Số liệu
thống kê cơ sở y tế ngoài công lập chưa thống nhất
giữa Sở Y tế và Liên đoàn Lao động. Người lao động
tham gia tổ chức công đoàn được hưởng lợi nhiều
hơn lao động ở các tổ chức chưa tham gia công đoàn
về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn
và Phụ cấp độc hại, phụ cấp trách nhiệm. Đặc biệt cơ
sở đã thành lập công đoàn thì trang thiết bị bảo hộ
Từ khóa: Công đoàn cơ sở (CĐCS), Cơ sở y tế
ngoài công lập (CSYTNCL), tập hợp đoàn viên; Đổi
mới phương thức, CPTPP; EVFTA; Công đoàn ghép;
Kết hợp phương thức cũ và mới.
SUMMARY
NEEDS AND SOLUTIONS FOR TRADE
UNION DEVELOPMENT IN NON-PUBLIC
1Công đoàn Y tế Việt Nam
2Nghiên cứu viên Viện Chiến lược và Chính sách Y tế
3Trường Đại học Công đoàn
HEALTHCARE INSTITUTIONS
Objective: The paper describes the current
situation and needs of workers in non-public
healthcare facilities as well as solutions. Method:
This study employs a cross-sectoral descriptive design
with a combination of quantitative and qualitative
research; Desk research combined with field research
of 543 workers in non-public healthcare with and
4Viện Công nhân và Công đoàn
Chịu trách nhiệm chính: Phạm Thanh Bình
Ngày nhận bài: 3.3.2021
Ngày phản biện khoa học: 26.4.2021
Ngày duyệt bài: 7.5.2021
243
vietnam medical journal n01 - MAY - 2021
without trade unions in Hanoi, Ho Chi Minh, and Da
động” mà không cần phải có sự ủy quyền trước
từ bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào. Việc phải
tham gia trong hệ thống CĐVN không còn là
một nghĩa vụ của tổ chức đại diện cho người lao
động/công đoàn cơ sở nữa. Nhận thức của các
đối tượng cán bộ y tế ngoài công lập về tổ chức
công đoàn và tổ chức đại diện chưa cao nên tỷ
lệ cán bộ y tế ngoài công lập tham gia tổ chức
công đoàn thấp. Chưa có nghiên cứu về thực
trạng lao động, quan hệ lao động, phương thức
thu hút đoàn viên tham gia công đoàn cũng như
nhu cầu tham gia công đoàn của người lao động
trong các cơ sở y tế ngoài công lập. Do đó, đề
tài Đổi mới phương thức tập hợp người lao động
tham gia tổ chức Công đoàn giai đoạn thực hiện
CPTPP, EVFTA là hết sức cần thiết.
Nang. Result: In 2019, non-public health facilities
tended to increase by 14.5% compared to 2018, but
only 0.65% of trade unions were established in those
facilities. Statistics of non-public health facilities are
inconsistent with the Department of Health and the
Confederation of Labor. Employees participating in
trade unions benefit more than workers not from
unions in terms of social insurance, health insurance,
accident insurance, hazardous allowance, and liability
allowance. In particular, healthcare establishments
with trade unions provide more protective equipment
at 65.8%, compared to those without trade unions, at
46.7%. Regarding interviewed subjects, 74.9% want
workers' representative organizations to perform
better protection to workers; 71.9% said that they do
not want to have a representative organization of
workers who are not part of the trade union system in
the non-public medical facilities; The remaining
22.7% do not know their stance of view. Regarding
methods of reuniting members, over 70% of
respondents said that it is necessary to combine two
methods the bottom-up and the top-down.
Conclusion: The new method of gathering workers
in non-public health facilities is an urgent requirement
for trade unions at all levels.
II. ĐỐITƯỢNGVÀPHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
1.Đối tượng, địa điểm và thời gian
nghiên cứu: Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài tại 3 TP: Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng với 543 người lao động ở
cơ sở y tế ngoài công lập (đã thành lập công
đoàn và chưa thành lập) từ tháng 6-9/2020. 543
người lao động làm tại 24 cơ sở y tế tư nhân,
gồm 178 người làm việc tại bệnh viện; 290 người
làm việc tại các phòng khám đa khoa và chuyên
khoa; 60 người làm ở các doanh nghiệp và 15
người làm ở các loại hình cơ sở y tế tư nhân khác.
2. Phương pháp nghiên cứu:
2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu dịch
tễ học mô tả cắt ngang; kết hợpđiều tra định
tính (phòng vấn sâu, thảo luận nhóm) và định
lượng (thống kê và xử lý số liệu điều tra).
2.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu:
Cỡ mẫu người lao động mỗi nhóm cần khảo sát
được tính theo công thức tính cỡ mẫu một tỷ lệ
Keyword: local trade unions, non-public
healthcare facilities, method innovation, CPTPP,
EVFTA, trade union merger, old and new methods combinat
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính đến cuối năm 2018, cả nước đã có hơn
240 bệnh viện tư, hơn 35000 phòng khám đa
khoa chuyên khoa tư nhân; lĩnh vực cả nước có
66,910 cơ sở bán lẻ; 4828 cơ sở bán buôn và
380 cơ sở sản xuất, xuất nhập khẩu dược phẩm.
Ước tính khoảng 250 ngàn cán bộ y tế thuộc lĩnh
vực ngoài công lập, bằng khoảng 50% cán bộ y
tế ở lĩnh vực công. Y tế công lập và ngoài công
bình đẳng trước pháp luật; Y tế ngoài công lập
cũng tham gia phòng chống dịch và có vai trò
an sinh xã hội và thực hiện nhiệm vụ chính trị
của ngành y tế khi được huy động. Nhất là giai
đoạn chống dịch COVID-19 vừa qua có thể
khẳng định, sức khỏe và sự an toàn, nhất an
toàn vệ sinh lao động của lực lượng y tế là
nguồn lực quốc gia, nếu nguồn lực này, cả y tế
công lập và ngoài công lập không được chỉ đạo
hoạt động thống nhất sẽ ảnh hưởng đến đến an
sinh xã hội và kinh tế chính trị của đất nước.
Tuy nhiên, xu hướng cán bộ y tế công
chuyển việc sang cung cấp dịch vụ y tế tư nhân
ngày càng gia tăng; cán bộ y tế vừa làm công,
vừa làm tư làm mối quan hệ lao động khu vực
ngoài công lập khó quản lý. Việt Nam đã và
đang hiện thực hóa các cam kết Hiệp định
CPTPP và Hiệp định EVFTA thông qua Bộ luật
Lao động năm 2019, theo đó người lao động
được thành lập “tổ chức đại diện của người lao
n = Z(21− / 2)
.
d2
Trong đó: n: số người lao động được khảo
sát; z: Hệ số tin cậy. Với độ tin cậy 95% thì giá
trị của z = 1,96; p: tỷ lệ người lao động hài lòng
với hoạt động của công đoàn cơ sở có nhu cầu
tham gia công đoàn/tổ chức đại diện cho người
lao động ở cơ sở; q = 1 - p = 0,5;d: sai số chấp
nhận, chọn d = 0,08; DE = 1.5; Tỷ lệ từ
chối/phiếu không hoàn thành: 5%. Áp dụng
công thức trên, cỡ mẫu nhóm đã thành lập công
đoàn là 240 người, mỗi tỉnh 80 người chon có
chủ đích cho từng loại hình cơ sỏ y tế ngoài
công lập; đối tượng chưa thành lập công đoàn
cơ sở làm tròn là 315 người lao động, mỗi tỉnh
chọn 105 ngẫu nhiên ở 15 đơn vị (phương pháp
chọn mẫu nhiều giai đoạn);
244
TẠP CHÍ Y h c vi t nam tẬP 502 - th ng 5 - s 1 - 2021
đoàn thì quyền lợi của người thham gia công
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
đoàn cao hơn đối tượng chưa tham gia về bảo
hiểm xã họi, bảo hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn
(Xem biểu đồ 1). Cao nhất là tỷ lệ tham gia bảo
hiểm y tế 92,9% cao hơn 74,7% ở các đơn vị
chưa tham gia tổ chức công đoàn.
Người tham gia tổ chức công đoàn ở cơ sở y
tế ngoài công lập thì được trang bị bảo hộ lao
động đầy đủ hơn 65,8% so với 46,7% ở các cơ
sở y tế chưa tham gia công đoàn (Xem biểu đồ 2).
Theo thống kê của Sở Y tế các tỉnh/thành
phố, tính đến cuối năm 2019, tại 22 tỉnh thành
phố đã có trên 31,050 cơ sở y tế ngoài công lập,
trong đó có 82 bệnh viện; 12,084 phòng khám
và 18,884 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực y tế. Do với cuối năm 2018, số lượng cơ sở
y tế ngoài công lập tại các tính được thống kê
đã tăng lên 14,5%. Tuy nhiên, theo thống kê
của 39 Liên đoàn Lao động tỉnh thành phố, tỷ lệ
cơ sở y tế ngoài công lập thành lập công đoàn
chiếm chỉ 1,3% (670/51.290) năm 2019.
Biểu đồ 2: So sánh mức độ trang bị bảo hộ lao
động trong các cơ sở y tế ngoài công lập
Người lao động tham gia công đoàn, ngoài
lương thì tiền chuyên cần, tiền phụ cấp, tiền độc
hại cao hơn ở các cơ sở y tế chưa có tổ chức
công đoàn (Xem biểu đồ 3). Cao nhất là tiền độc
hại 41,6% so với 5,49%.
Biểu đồ 1: Tình hình tham gia các loại bảo
hiểm của người lao động, phân theo tình
trạng thành lập CĐCS
Phân tích 543 người lao động được điều tra
tại 3 tỉnh với đối tượng tại cơ sở ngoài công lập
đã thành lập công đoàn và chưa thành lập công
Biểu đồ 3: So sánh các khoản thu nhập ngoài lương của người lao động, phân theo đơn
vị có công đoàn và đơn vị chưa có công đoàn
Kết quả khảo sát ở đơn vị chưa thành lập công đoàn cho thấy, có 64,5% cho biết họ không mong
muốn thành lập tổ chức đại diện người lao động trong đơn vị mình đang lam việc (Xem biểu đồ 4).
245
vietnam medical journal n01 - MAY - 2021
Biểu đồ 4: Mong muốn thành lập tổ chức đại diện người lao động trong các cơ sở y tế ngoài công lập
Tỷ lệ trung bình 72, 5% muốn thành lập tỏ chức công đoàn theo hình thức kết hợp phương pháp
truyền thống và phương pháp mới (xem bảng 1)
Bảng 3: Các hình thức vận động thành lập công đoàn cơ sở theo mô hình hoạt động
của các cơ sở y tế ngoài công lập
Phòng
khám
Bệnh
viện
Doanh
nghiệp
Tỷ lệ
chung
Cách thức vận động
Công đoàn cấp trên tiếp cận NSDLĐ và đề
nghị thành lập công đoàn cơ sở
12.9%
50.0%
31.6%
18.0%
Công đoàn cấp trên tiếp cận và vận động NLĐ
tự nguyện thành lập công đoàn cơ sở
Kết hợp cả 2 hình thức trên
9.8%
10.0%
40.0%
0.0%
9.5%
77.3%
68.4%
72.5%
Kết quả khảo sát cho thấy, mặc dù đơn vị chưa có tổ chức CĐCS, nhưng đã có 87,2% người lao
động tham gia khảo sát đã từng nghe nói đến tổ chức công đoàn, nhưng nhận thức về tổ chức công
đoàn thì chỉ 12,8% (Xem biểu đồ 5)
quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt
động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ
sở, cho phép người lao động tại một doanh
nghiệp được thành lập “tổ chức đại diện của
người lao động” mà không cần phải có sự ủy
quyền trước từ bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào.
Cơ sở y tế ngoài công lập gia tăng 14,5%/
năm, số lượng CĐCS trong các cơ sở y tế ngoài
công lập đã tăng lên 11,3%, tỷ lệ cơ sở y tế
ngoài công lập tham gia công đoàn rất thấp
1,9%. Khảo sát cho thấy 65% họ không muốn
tham gia tổ chức người lao động mới, đây là
một thuận lợi cho tổ chức Công đoàn Việt Nam.
72,5% người lao động mong muốn kết nạp vào
tổ chức công đoàn bằng cả hai phương thức kết
hợp cả phương thức cũ và mới. Thực tế đã
chứng minh lý do họ muốn tham gia tổ chức
công đoàn Việt Nam là có lợi hơn so với không
tham gia tổ chức công đoàn tại các biểu đồ
1,2,3 về các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm tai nạn và đặc biệt là trang thiết bị
bảo hộ và chế độ độc hại.
Biểu đồ 5: So sánh giữa Biết và Nhận thức của
NLĐ về công đoàn trong đơn vị chưa có CĐCS
IV. BÀN LUẬN
Một đặc trưng cơ bản của các Hiệp định tự
do thương mại thế hệ mới đó là đưa những tiêu
chuẩn rất mới gắn với quyền con người với các
vấn đề xã hội và vấn đề quản trị quốc gia đưa
vào hiệp định. Việt Nam đã cam kết thể hiện cụ
thể hóa tại Điều 170, Bộ luật Lao động năm
2019, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021 về
Như vậy, tập hợp lực lượng lao động tại các
cớ sở y tế ngoài công lập là một mục tiêu cấp
bách, không chỉ có ý nghĩa đảm bảo lực lượng
246
TẠP CHÍ Y h c vi t nam tẬP 502 - th ng 5 - s 1 - 2021
đảm bảo chính trị xã hội cho 97 triệu dân, lực
thiết bị bảo hộ và chế độ độc hại cao hơn không
tham gia tổ chức công đoàn.
lương này tham gia công đoàn sẽ là một kênh
giúp các cơ quan nhà nước giám sát được chất
lượng dịch vụ y tế.
4. Khảo sát cho thấy 65% người lao động
không muốn tham gia tổ chức người lao động
mới, đây là một thuận lợi cho tổ chức Công đoàn
Việt Nam. 72,5% người lao động mong muốn kết
nạp vào tổ chức công đoàn bằng cả hai phương
thức kết hợp cả phương thức cũ và mới.
Nghiên cứu chỉ ra việc tập hợp người lao
động ở cơ sở y tế ngoài công lập là yêu cầu cấp
bách và cần phải đổi mới phương thức tập hợp
theo hướng công đoàn ghép các lĩnh vực chuyên
ngành; kết hợp với hội nghề nghiệp, cơ quan
quản lý dưới sự chỉ đạo của cấp ủy để tập hợp
người lao động tham gia tổ chức công đoàn; cần
kết hợp cả hai phương pháp tập hợp truyền
thống và phương pháp mới.
Giải pháp để tập hợp được lực lương này
chính là giải pháp đồng bộ về văn bản,hướng
dẫn của Tổng liên đoàn về việc tập hợp theo
phương pháp kết hợp cũ và mới. Tại 670 công
đoàn cơ sở năm 2019 là 51.290 người (đạt trung
bình 77 đoàn viên công đoàn/01 CĐCS), trên
thực tế người lao động trong các cơ sở ngoài
công lập qua thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu
rất ít 90% là dưới 25 đoàn viên, họ mong muốn
thành lập các công đoàn ghép theo các lĩnh vực
chuyên khoa của ngành. Hiện nay mô hình công
đoàn ghép này cũng chưa có hướng dẫn của
Tổng liên đoàn, cần được thí điểm mô hình để
nhẩn rộng.
Thứ hai về công tác tuyên truyền 87,2%
người lao động tham gia khảo sát đã từng nghe
nói đến tổ chức công đoàn, nhưng nhận thức về
tổ chức công đoàn thì chỉ 12,8%, do đó tuyên
truyền cho đối tượng lao động cần được quan
tâm đầu tiên để hiểu biết đầy đủ về hệ thống
công đoàn, từ đó họ mới có mong muốn tham
gia, thành lập ban vận động. Không chỉ có người
lao động, người sử dụng lao động cũng cần hiểu
biết đầy đủ về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
của chủ sử dụng lao động.
Thứ ba, cần có sự chỉ đạo thống nhất của cấp
ủy đảng các địa phương doanh nghiệp, kết hợp
với cơ quan quản lý nhà nước về y tế tại địa
phương để nắm bắt chính sách các cơ sở được
cấp phép hoạt động để có kế hoạch phối hợp
tuyên truyền vận động tham gia tổ chức công
đoàn Việt Nam. Ngoài ra, lĩnh vực y tế đặc thù có
rất nhiều hội nghề nghiệp tại địa phương, thông
qua hội này là một kênh tuyên truyền để người
lao động ở cơ sở ngoài công lập tham gia tổ chức
công đoàn và phối hợp bảo vệ người lao động.
KHUYẾN NGHỊ
- Tổng LĐLĐ có văn bản hướng dẫn đầy đủ,
đồng bộ về phương thức tập hợp lồng ghép mới
và cũ; hướng dẫn về thành lập công đoàn cơ sở
ghép; Tăng cường tuyên truyền đầy đủ cho cho
người lao động, người sử dụng lao động; Đào
tạo cho đội ngũ cán bộ công đoàn cấp trên
chuyên nghiệp để hướng dẫn ban vận động
- Xây dựng kế hoạch tổng thể và giao chỉ tiêu
thành lập công đoàn cơ sở y té ngoài công lập
cho LĐLĐ, CĐN y tế tỷ lệ hàng năm.
- Chỉ đạo công đoàn các cấp phối hợp với hội
nghề nghiệp, cơ quan quản lý hành nghề địa
phương dưới sự chỉ đạo của cấp ủy để tập hợp
người lao động tham gia tổ chức công đoàn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Jacques Bourgeois, WilmerHale và Trường
cao đẳng Châu Âu (2013): Một phân tích so
sánh về các quy định được lựa chọn trong các
hiệp định thương mại tự do – phần “Quy định FTA
về tiêu chuẩn lao động”.
2. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - FES (Hà
Nội, 26/2/2014): Hội thảo quốc tế “Vấn đề lao
động và vai trò của công đoàn trong hiệp định
thương mại tự do (FTA) EU với các nước”.
3. TS. Phạm Thị Thu Lan (2020), Thực hiện cam
kết về lao động trong NAFTA: Thực tiễn Mexico và
bài học cho Việt Nam, NXB Lao động, HN.
4. ThS. Nguyễn Ngọc Sơn (2014), Tình hình tổ
chức, cán bộ công đoàn chuyên trách công đoàn
cấp trên trực tiếp cơ sở, đề xuất một số giải pháp
nâng cao năng lực hoạt động đáp ứng yêu cầu mới
5. Viện Công nhân và Công đoàn (2015), “Đổi
mới mô hình tổ chức, nội dung và phương thức
hoạt động công đoàn hướng về đoàn viên và NLĐ
thời gian tới”, Đề tài cấp TLĐ.
6. Viện Công nhân và Công đoàn (2015), “Dự
báo tác động tới việc làm, QHLĐ và hoạt động
công đoàn khi Việt Nam gia nhập các hiệp định
thương mại tự do” Đề tài cấp TLĐ.
V. KẾT LUẬN
1. Cơ sở y tế ngoài công lập gia tăng 14,5%/
năm, số lượng CĐCS trong các cơ sở y tế ngoài
công lập đã tăng lên 11,3%, nhưng tỷ lệ cơ sở y
tế ngoài công lập tham gia công đoàn rất thấp
1,9%.
2. Nhận thức về tổ chức công đoàn chưa đầy
đủ, 87,2% người lao động tham gia khảo sát đã
từng nghe nói đến tổ chức công đoàn, nhưng
nhận thức về tổ chức công đoàn thì chỉ 12,8%
3. So sánh giữa người lao động tại cơ sở có
công đoàn thì các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn và đặc biệt là trang
247
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu và giải pháp phát triển công đoàn tại cơ sở y tế ngoài công lập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nhu_cau_va_giai_phap_phat_trien_cong_doan_tai_co_so_y_te_ngo.pdf