Nghiên cứu ứng dụng mô hình tăng trưởng logistic để dự báo khai thác cho tầng Miocene dưới, mỏ Bạch Hổ

THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 9 - 2019, trang 16 - 22  
ISSN-0866-854X  
NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG LOGISTIC  
ĐỂ DỰ BÁO KHAI THÁC CHO TẦNG MIOCENE DƯỚI, MỎ BẠCH HỔ  
Trần Đăng Tú, Đinh Đức Huy, Trần Xuân Quý, Phạm Trường Giang, Lê Vũ Quân, Lê Thế Hùng, Lê Quốc Trung, Trần Nguyên Long  
Viện Dầu khí Việt Nam  
Email: tutd@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Bài báo ứng dụng mô hình tăng trưởng logistic (LGM) để dự báo khai thác cho tầng Miocene dưới, mỏ Bạch Hổ bằng cách xác định  
một tập hợp các thông số đường cong suy giảm qua quá trình tái lặp lịch sử khai thác sử dụng thuật toán tối ưu (optimisation algorithm).  
Sai số tương đối trung bình giữa kết quả dự báo bằng mô hình LGM và dữ liệu khai thác thực tế là 0,6%. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô  
hình LGM đã cải thiện khả năng dự báo với độ tin cậy cao.  
Từ khóa: Mô hình tăng trưởng logistic (LGM), dự báo khai thác, trữ lượng có thể thu hồi cuối cùng (EUR), Miocene dưới, mỏ Bạch Hổ.  
1. Giới thiệu  
Mô hình LGM được phát triển bởi Pierre Verhulst (Bỉ)  
Trong đó:  
N: Dân số  
r: Hằng số,  
vào năm 1830 [1]. Đường cong tăng trưởng logistic là một  
tập hợp các mô hình toán học được sử dụng để dự báo  
dân số. Sau đó, mô hình này được ứng dụng vào các lĩnh  
vực khác như: vật lý, địa lý, hóa học…. Dựa trên ý tưởng  
của Malthus (dân số của một quốc gia hoặc một khu vực  
cụ thể chỉ có thể tăng lên một mốc nhất định) [2], Pierre  
Verhulst đã thêm một hệ số nhân vào phương trình tăng  
trưởng lũy tiến để tạo ra mô hình LGM.  
=
1
α: Số mũ,  
= 1 −  
β: Số mũ, β = 1  
γ: Số mũ,  
1
= 1 +  
K: Khả năng tăng trưởng  
Mô hình được đề xuất sau đây là trường hợp đặc biệt  
của mô hình LGM tổng quát. Mô hình này rất linh hoạt và  
có thể thích ứng với nhiều dạng đường cong khác nhau.  
Với mục đích để dự báo khai thác các giếng dầu và khí, mô  
hình được hiệu chỉnh có dạng:  
Phương trình tăng trưởng logistic có một thuật ngữ  
gọi là khả năng tăng trưởng (carrying capacity). Khả năng  
tăng trưởng là sức chứa lớn nhất mà dân số có thể tăng  
lên, tại thời điểm đó sự tăng trưởng dân số sẽ ổn định.  
Ngoài việc dự báo tăng trưởng dân số, các mô hình LGM  
còn được sử dụng để dự báo sự tăng trưởng của nấm men,  
tái tạo các cơ quan và sự thâm nhập của các sản phẩm mới  
vào thị trường [3]. Mô hình này được sử dụng trước đó  
trong lĩnh vực dầu khí dưới dạng mô hình Hubbert. Mô  
hình Hubbert (1956) được sử dụng để dự báo khai thác  
cho toàn mỏ hoặc vùng khai thác riêng biệt [4]. Mô hình  
LGM được Tsoularis và Wallace kết hợp tạo thành mô hình  
LGM tổng quát có dạng:  
( ) =  
(2)  
+
Trong đó:  
Q: Sản lượng khai thác cộng dồn;  
K: Trữ lượng có thể thu hồi cuối cùng (EUR);  
a: Hằng số;  
n: Hệ số mũ hyperbolic;  
t: Thời gian.  
(1)  
=
1 −  
Hệ số mũ n hyperbolic kiểm soát độ dốc suy giảm của  
lưu lượng khai thác theo thời gian sau khi đã được logarit  
hóa (Hình 1).  
Ngày nhận bài: 21/8/2019. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 21 - 27/8/2019.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 9/9/2019.  
DẦU KHÍ - SỐ 9/2019  
16  
PETROVIETNAM  
Lưu lượng dầu hoặc khí có dạng:  
( ) =  
=
(5)  
(3)  
=
Trong đó, qD là lưu lượng khai thác không thứ nguyên.  
( +  
)
Sử dụng các biến không thứ nguyên, các loại đường cong  
biểu diễn trạng thái của mô hình được thực hiện. Hình 1 cho  
thấy lưu lượng khai thác dầu không thứ nguyên và sản lượng  
khai thác cộng dồn không thứ nguyên ứng với các giá trị “n”  
khác nhau.  
Trong đó, q là lưu lượng khai thác.  
2. Các thông số của mô hình LGM  
Có 2 hoặc 3 thông số chưa biết trong mô hình  
LGM và các thông số này được xác định thông qua  
quá trình tái lặp lịch sử khai thác. Đó là:  
Hình 1 thể hiện trạng thái các đường cong của mô hình với  
n từ 0 đến 1. Các giá trị “K” và “a” được sử dụng trong ví dụ này  
là tùy chọn. Giá trnkiểm soát độ dốc suy giảm lưu lượng khai  
thác. Với n càng nhỏ thì giếng sẽ suy giảm với lưu lượng khai  
thác cao trong một khoảng thời gian ngắn trước khi ổn định và  
giảm chậm hơn. Ngược lại với giá trị “n” càng lớn, giếng sẽ suy  
giảm với lưu lượng khai thác ổn định trong suốt đời mỏ. Khi n  
vượt quá 1, mô hình sẽ có điểm uốn, trong đó lưu lượng tăng  
trong một thời gian ngắn trước khi giảm. Điều này không làm  
cho kết quả dự báo bị sai và trên thực tế có thể được sử dụng  
để khớp lịch sử cho các giếng có lưu lượng khai thác ban đầu  
không lớn nhất.  
K: Trữ lượng có thể thu hồi cuối cùng (EUR);  
n: Số mũ hyperbolic;  
a: Hằng số.  
K là thông số quan trọng được xác định dựa trên  
thuật toán tối ưu sử dụng dữ liệu lịch sử của giếng  
khai thác, do vậy mô hình LGM có tính thực tế cao  
hơn so với mô hình ARPS. Sản lượng dầu hoặc khí  
cộng dồn theo thời gian sẽ tiếp cận trữ lượng có thể  
thu hồi dầu hoặc khí cho đến cuối đời mỏ. Thông  
số này cũng là 1 trong 3 thông số có thể xác định  
trước bằng phương pháp ứng dụng phương trình  
cân bằng vật chất [5] hoặc khi đã tính toán được trữ  
lượng tại chỗ (bằng phương pháp thể tích) và hệ  
số thu hồi. Nếu EUR không biết trước khi khai thác  
giếng thì sử dụng EUR như một ẩn số. Bài toán trở  
thành giải phương trình 3 ẩn số sao cho sản lượng dự  
báo khai thác khớp với lịch sử khai thác.  
Thông số thứ 3, a là lũy thừa bậc n của t mà tại đó một nửa  
trữ lượng có thể thu hồi được khai thác. Lưu ý tránh nhầm lẫn  
với một nửa thời gian cần thiết để sản lượng giếng đạt đến trữ  
lượng có thể thu hồi cuối cùng. Phương trình 6 cho thấy tại thời  
điểm tn tiến dần đến a, mô hình LGM đạt một nửa trữ lượng có  
thể thu hồi cuối cùng (K):  
=
(6)  
+
2
Hai thông số a và n trong mô hình ảnh hưởng  
đến trạng thái của mô hình. Để đánh giá sự tác động  
của các thông số a và n đến hiệu suất của mô hình  
LGM, các thuật ngữ lưu lượng khai thác và sản lượng  
khai thác cộng dồn không thứ nguyên đã được đưa  
ra. Sản lượng khai thác cộng dồn không thứ nguyên  
là tỷ số giữa sản lượng khai thác cộng dồn và trữ  
lượng có thể thu hồi cuối cùng (K):  
Điều này giúp a hoạt động giống như thông số suy giảm  
ban đầu Di trong phương trình của Arps. Giá trị a càng thấp,  
(4)  
=
Trong đó, QD là sản lượng khai thác cộng dồn  
không thứ nguyên.  
Khi sản lượng khai thác cộng dồn đạt đến trữ  
lượng có thể thu hồi cuối cùng (K), sản lượng khai  
thác cộng dồn không thứ nguyên sẽ bằng 1. Lưu  
lượng khai thác không thứ nguyên là tỷ số giữa lưu  
lượng khai thác hiện tại và lưu lượng khai thác cao  
nhất hay còn gọi là lưu lượng khai thác ban đầu.  
Hình 1. Các loại đường cong không thứ nguyên ứng với các giá trị “n” [6]  
DẦU KHÍ - SỐ 9/2019  
17  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
lưu lượng khai thác sẽ càng giảm nhanh  
trước khi ổn định. Ngược lại, giá trị “a”  
càng cao, lưu lượng khai thác càng ổn  
định trong suốt đời giếng. Nói cách  
khác, nếu giá trị “a” thấp, giếng sẽ khai  
thác với lưu lượng lớn và nhanh chóng  
thu hồi một nửa lượng dầu hoặc khí,  
sau đó giảm mạnh và khai thác ổn định  
phần trữ lượng còn lại ở lưu lượng thấp  
trong một khoảng thời gian dài. Hình 2  
và 3 cho thấy lưu lượng khai thác không  
thứ nguyên so với thời gian và sản  
lượng khai thác cộng dồn so với thời  
gian tương ứng sự thay đổi của thông  
số a.  
Các giá trị a trong Hình 4 và 5 thay  
đổi từ 10 đến 100 trong khi giá trị K và n  
được sử dụng tùy ý. Với giá trị a thấp sự  
suy giảm ban đầu rất mạnh trước khi ổn  
định trở lại. Ngược lại, giá trị a càng cao  
thì sự suy giảm sẽ ổn định trong suốt  
đời giếng.  
Hình 2. Lưu lượng khai thác không thứ nguyên theo thời gian ứng với các giá trị “a” [6]  
3. Phương pháp xác định  
Một chương trình được viết trên  
giao diện Matlab sử dụng thuật toán tối  
ưu để tự động hóa quá trình tái lặp lịch  
sử khai thác và thu được các thông số K,  
a, n của mô hình LGM. Nếu K biết trước  
thì có thể tìm được 2 ẩn còn lại thông  
qua quá trình tái lặp lịch sử; nếu K chưa  
biết thì cả 3 thông số này có thể dự báo  
được bằng phương pháp trên để tìm ra  
nghiệm tối ưu cho phương trình LGM.  
Với các giá trị “K, a, n” tìm được từ việc  
tái lặp lịch sử khai thác, kết quả đảm bảo  
độ tin cậy sẽ được sử dụng tiến hành dự  
báo khai thác. Hình 4 là ví dụ kết quả  
khớp lịch sử khai thác giếng 0025.  
Hình 3. Sản lượng khai thác cộng dồn không thứ nguyên theo thời gian ứng với các giá trị “a” [6]  
120  
100  
80  
Các thông số của mô hình  
K = 136.000  
60  
40  
20  
-
a = 27,05  
n = 1,28  
4. Ứng dụng mô hình LGM để dự báo  
khai thác cho tầng Miocene dưới, mỏ  
Bạch Hổ  
4.1. Xử lý dữ liệu khai thác tầng Mio-  
cene dưới  
1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39 41 43 45 47 49  
Tháng  
Tầng Miocene dưới khai thác trong  
khoảng thời gian từ tháng 5/1988 đến  
tháng 9/2016 (361 tháng) gồm 79  
Sản lượng khai thác cộng dồn - Dự báo Sản lượng khai thác cộng dồn - Lịch sử  
Hình 4. Kết quả khớp lịch sử giếng khai thác 0025  
DẦU KHÍ - SỐ 9/2019  
18  
PETROVIETNAM  
giếng. Hình 5 là sản lượng khai thác  
cộng dồn của tầng Miocene dưới theo  
thời gian và được chia thành các giai  
đoạn. Tập dữ liệu I từ tháng 5/1988 đến  
tháng 9/2016 (340 tháng) là tập dữ liệu  
được sử dụng để tái lặp lịch sử thông  
qua mô hình LGM. Sau khi thu được kết  
quả tái lặp lịch sử khai thác tối ưu và  
các thông số của mô hình, tập dữ liệu  
II được sử dụng để dự báo khai thác từ  
tháng 10/2016 đến tháng 9/2018 (24  
tháng).  
120  
8.000  
7.000  
DỰ BÁO  
KHỚP LỊCH SỬ  
100  
80  
60  
40  
20  
-
6.000  
5.000  
4.000  
3.000  
2.000  
1.000  
-
Kết quả tái lặp lịch sử từ mô hình  
LGM cho thấy có 8 giếng lịch sử khai  
thác bất thường do thay đổi điều kiện  
vận hành giếng như mở thêm vỉa sản  
phẩm, đóng giếng, xử lý vùng cận đáy  
giếng… dẫn đến kết quả tái lặp lịch sử  
gặp khó khăn và đưa ra các kết quả có  
độ tin cậy thấp (Hình 6). Vì vậy, các kết  
quả khớp lịch sử 8 giếng này bị loại bỏ.  
Kết quả tái lặp lịch sử cho 71 giếng khai  
thác còn lại sử dụng mô hình LGM được  
trình bày chi tiết trong mục 4.2.  
Tháng  
Sản lượng khai thác cộng dồn  
Lưu lượng khai thác  
Hình 5. Sản lượng khai thác cộng dồn của tầng Miocene dưới từ tháng 5/1988 đến tháng 9/2016  
80  
70  
60  
50  
40  
30  
20  
10  
Từ Hình 6, kết quả khớp lịch sử  
không tốt và sản lượng tại tháng thứ 29  
bắt đầu tăng đột biến do tháng 8/2015  
giếng này có hoạt động sửa chữa giếng  
gây ra kết quả khớp lịch sử cũng như dự  
báo khai thác của giếng này không tốt.  
-
4.2. Kết quả và thảo luận  
1 3 5 7 9 11 13 15 17 19 21 23 25 27 29 31 33 35 37 39 41 43 45 47 49 51 53 55 57 59 61 63 65  
Tháng  
Phương pháp phân tích thống kê  
được sử dụng để tính toán hiệu suất  
khớp lịch sử và dự báo khai thác được  
tóm tắt trong Bảng 1.  
Sản lượng khai thác cộng dồn - Dự báo  
Sản lượng khai thác cộng dồn - Lịch sử  
Hình 6. Kết quả khớp lịch sử và dự báo sản lượng khai thác cộng dồn của giếng khai thác 456  
Bảng 1. Bảng thống kê đánh giá sai số của mô hình LGM  
Bảng 1 cho thấy tổng sản lượng  
khai thác cộng dồn cho 71 giếng được  
tính toán bởi mô hình LGM phù hợp với  
dữ liệu khai thác thực tế. Sai số tuyệt  
đối tổng sản lượng cộng dồn và sai số  
tuyệt đối trung bình giữa mô hình dự  
báo và dữ liệu thực tế lần lượt là 10.261;  
42.434 tấn. Sai số tương đối trung bình  
giữa mô hình dự báo và dữ liệu khai  
thác thực tế là 0,6%. Hơn nữa, số giếng  
khai thác có sai số tuyệt đối trên 5% là  
Giếng  
khai thác  
Thực tế  
LGM  
7.344.711  
10.261  
Tổng sản lượng cộng dồn (tấn)  
7.393.864  
Sai số tuyệt đối tổng sản lượng  
cộng dồn  
Sai số tuyệt đối trung bình  
Sai số tương đối trung bình  
Số giếng có sai số tương đối < 5%  
Số giếng có sai số tương đối > 5%  
Số giếng bị loại bỏ  
42.434  
0,6%  
52  
19  
8
Tổng EUR trong 34 năm (tấn)  
10.988.793  
DẦU KHÍ - SỐ 9/2019  
19  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
19 giếng còn số giếng khai thác có sai số  
tuyệt đối dưới 5% là 52 giếng. Kết quả này  
cho thấy các sai số của từng giếng khai  
thác và của tầng Miocene dưới rất thấp  
(nằm trong giới hạn cho phép). Mô hình có  
thể sử dụng như công cụ quản lý khai thác  
hiệu quả và thực tế.  
120  
100  
80  
60  
40  
20  
-
12  
10  
8
6
4
Kết quả tái lặp lịch sử và dự báo sản  
lượng khai thác (từ tháng thứ 26 đến  
tháng 49) của giếng khai thác 0025 và tầng  
Miocene dưới được biểu diễn trên Hình 7  
và 8.  
2
-
1
2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50  
Tháng  
Sản lượng khai thác cộng dồn - Lịch sử  
Lưu lượng khai thác - Lịch sử  
Sản lượng khai thác cộng dồn - Dự báo  
Lưu lượng khai thác - Dự báo  
Qua quá trình tái lặp lịch sử khai thác  
kết quả cho độ tin cậy cao và nhóm tác giả  
sử dụng mô hình LGM để dự báo sản lượng  
khai thác đến cuối đời mỏ trong 34 năm  
(408 tháng) từ tháng 9/2016 đến 9/2050  
với trữ lượng có thể thu hồi cuối cùng  
(EUR) là khoảng 11 triệu tấn (Hình 9).  
Hình 7. Kết quả tái lặp lịch sử và dự báo sản lượng khai thác cộng dồn của giếng khai thác 0025  
120  
100  
80  
8.000  
7.000  
6.000  
5.000  
4.000  
3.000  
2.000  
60  
4.3. Phân tích thống kê các thông số của  
mô hình LGM  
40  
20  
1.000  
Các thông số K, a, n sẽ được phân tích  
thống kê để xác định giá trị nào quan trọng  
khi sử dụng mô hình LGM để dự báo khai  
thác. Phân tích thống kê các kết quả trong  
Bảng 2.  
-
-
Tháng  
Sản lượng cộng dồn - Lịch sử  
Lưu lượng khai thác - Lịch sử  
Sản lượng cộng dồn - Dự báo  
Lưu lượng khai thác - Dự báo  
Hình 8. Kết quả khớp lịch sử và dự báo sản lượng khai thác cộng dồn của tầng Miocene dưới  
Thông số đầu tiên là trữ lượng có thể  
thu hồi cuối cùng (K). Sự phân bố của  
thông số K được biểu diễn trong Hình 10.  
Các giá trKthu được gần với giá trị trung  
bình, trong khi các giếng có sản lượng cao  
ít có khả năng xảy ra hơn. Bảng 2 cho thấy  
K trung bình khoảng 235 nghìn tấn với độ  
lệch chuẩn là 212 nghìn tấn. Giá trị “K” nhỏ  
nhất 824 trong khi giá trị lớn nhất là 800  
nghìn tấn. Điều này cho thấy khoảng giới  
hạn trữ lượng có thể thu hồi cuối cùng là  
rất lớn.  
120  
100  
80  
60.  
40  
20  
0
12.000  
10.000  
8.000  
6.000  
4.000  
2.000  
-
Tháng  
Sản lượng khai thác cộng dồn - Lịch sử  
Lưu lượng khai thác - Lịch sử  
Sản lượng khai thác cộng dồn - Dự báo  
Lưu lượng khai thác - Dự báo  
Giá trị a đóng vai trò giống hệ số suy  
giảm Di của phương trình Arps. Giá trị a  
trung bình là 105 tháng với độ lệch chuẩn là  
135 tháng. Giá trị a nhỏ nhất trong khoảng  
10 và lớn nhất là khoảng 850 (Hình 11).  
Hình 9. Kết quả dự báo khai thác tầng Miocene dưới trong 34 năm  
Bảng 2. Bảng thống kê đánh giá các thông số của mô hình LGM  
Thông số  
Trung bình  
235.110  
105  
Độ lệch chuẩn  
Nhỏ nhất  
824  
Lớn nhất  
800.000  
850  
Khi tn đạt tới giá trị tới hạn a, tổng sản  
lượng khai thác thu hồi cuối cùng từ mô  
hình LGM đạt một nửa trữ lượng có thể  
K
a
n
212.410  
135  
0,4  
10  
1,16  
0,48  
2,9  
DẦU KHÍ - SỐ 9/2019  
20  
PETROVIETNAM  
thu hồi cuối cùng (K) trong 105 tháng. Nói  
cách khác, nếu tầng Miocene dưới được kỳ  
vọng sẽ khai thác trong 34 năm (khoảng 408  
tháng) thì một nửa trữ lượng dầu sẽ được thu  
hồi trong 9 năm đầu, trong khi số dầu còn lại  
sẽ được thu hồi trong 25 năm tiếp theo.  
16  
14  
12  
10  
8
Thông số cuối cùng là số mũ hyperbolic  
n. Giá trị n xác định mức độ suy giảm đường  
cong của mô hình. Trong trường hợp này,  
có thể thấy trong Hình 12, sự phân bố đồng  
đều không giống như 2 thông số trên. Giá trị  
n trung bình đạt 1,16 với độ lệch chuẩn 0,4.  
Giá trị n nhỏ nhất đạt 0,48 trong khi lớn nhất  
là 2,9. Khoảng giá trị n nhỏ hơn so với 2 giá  
trị thu được từ 2 thông số trên. Điều này cho  
thấy giá trị n sẽ có nhiều khả năng rất gần với  
giá trị trung bình 1,16 ở tầng Miocene dưới  
hay nói cách khác thông số n có độ tin cậy  
cao. Cần lưu ý rằng mặc dù điểm uốn giá trị  
khi giá trị n > 1, mô hình vẫn có thể khớp lịch  
sử khai thác tốt. Hình 12 biểu đồ của phân bố  
giá trị n.  
6
4
2
0
K
Hình 10. Biểu đồ tần suất của giá trị K  
25  
20  
15  
10  
5
5. Kết luận  
Kết quả nghiên cứu của Viện Dầu khí  
Việt Nam đã phát triển thành công một mô  
hình mới sử dụng thuật toán tối ưu ứng dụng  
trong dự báo khai thác cho các giếng dầu  
khí. Kết quả mô hình LGM sử dụng khái niệm  
trữ lượng có thể thu hồi (K) để dự báo tổng  
sản lượng dầu cộng dồn trên toàn bộ dữ liệu  
lịch sử khai thác của giếng và mỏ cho thấy  
mức độ tin cậy cao và mang tính khách quan  
hơn mô hình dự báo truyền thống sử dụng  
phương trình Aprs. Kết quả dự báo 71 giếng  
khai thác đối tượng Miocene dưới mỏ Bạch  
Hổ cho thấy sai số tương đối trung bình giữa  
mô hình LGM và dữ liệu khai thác thực tế là  
0,6%. Bên cạnh đó, mô hình LGM còn dự báo  
được trữ lượng có thể thu hồi cuối cùng của  
từng giếng và tầng Miocene dưới khoảng 11  
triệu tấn. Kết quả nghiên cứu cho thấy mô  
hình LGM đã cải thiện khả năng dự báo với  
độ tin cậy cao.  
0
20 60 100 140 180 220 260 300 340 380 420 460 500 540 580 620 660 700 740 780 820 860  
a
Hình 11. Biểu đồ tần suất của giá trị a  
16  
14  
12  
10  
8
6
4
2
Tài liệu tham khảo  
0
0,40 0,60 0,80 1,00 1,20 1,40 1,60 1,80 2,00 2,20 2,40 2,60 2,80 3,00  
n
1. Verhulst, Pierre-François. Notice sur la  
Hình 12. Biểu đồ tần suất của giá trị n  
loi que la population poursuit dans son  
DẦU KHÍ - SỐ 9/2019  
21  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
accroissement. Correspondance Mathématique et  
4. M.King Hubbert. Nuclear energy and the fossil fuel.  
Physique. 1838; 10: p. 113 - 121.  
Drilling and Production Practice, New York. 1956.  
2. Thomas Robert Malthus. An essay on the principle  
of population: or, A view of its past and present effects  
on human happiness; with an inquiry into our prospects  
respecting the future removal or mitigation of the evils which  
it occasions. 1872.  
5. Michael J.Economides, A.Daniel Hill, Christine Ehlig  
- Economides, Ding Zhu. Petroleum production systems (2nd  
edition). 2012.  
6. Aaron James Clark, Larry Wayne Lake, Tadeusz  
Wiktor Patzek. Production forcasting with Logistic Growth  
Models. SPE Annual Technical Conference and Exhibition,  
Denver, Colorado, USA. 30 October - 2 November 2011.  
3. A.Tsoularis, J.Wallace. Analysis of logistic growth  
models. Mathematical Biosciences. 2002; 179(1): p. 21 - 55.  
RESEARCH ON APPLIED LOGISTIC GROWTH MODEL  
TO FORECAST PRODUCTION FOR LOWER MIOCENE, BACH HO FIELD  
Tran Dang Tu, Dinh Duc Huy, Tran Xuan Quy, Pham Truong Giang, Le Vu Quan  
Le The Hung, Le Quoc Trung, Tran Nguyen Long  
Vietnam Petroleum Institute  
Email: tutd@vpi.pvn.vn  
Summary  
The paper presents the research on application of the logistic growth model to forecast production for the Lower Miocene in Bach  
Ho field by obtaining a set of decline curve parameters through fitting with production data using optimisation algorithms. The average  
relative error of the LGM model is 0.6%. The research results show that the logistic growth model has improved the ability to predict  
production with high reliability.  
Key words: Logistic growth model, oil production forecasting, estimated ultimate recovery, Lower Miocene, Bach Ho field.  
DẦU KHÍ - SỐ 9/2019  
22  
pdf 7 trang yennguyen 16/04/2022 2700
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ứng dụng mô hình tăng trưởng logistic để dự báo khai thác cho tầng Miocene dưới, mỏ Bạch Hổ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ung_dung_mo_hinh_tang_truong_logistic_de_du_bao_k.pdf