Nghiên cứu tổng hợp và đánh giá vật liệu siêu xốp ứng dụng xử lý dầu tràn dựa trên Cellulose tự nhiên trích ly từ giấy in thải

HÓA - CHẾ BIẾN DẦU KHÍ  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 3 - 2019, trang 52 - 61  
ISSN-0866-854X  
NGHIÊN CỨU TỔNG HỢP VÀ ĐÁNH GIÁ VẬT LIỆU SIÊU XỐP  
ỨNG DỤNG XỬ LÝ DẦU TRÀN DỰA TRÊN CELLULOSE TỰ NHIÊN  
TRÍCH LY TỪ GIẤY IN THẢI  
Võ Nguyễn Xuân Phương, Lương Ngọc Thủy, Lê Phúc Nguyên, Nguyễn Hữu Lương  
Viện Dầu khí Việt Nam  
Email: phuongvnx.pvpro@vpi.pvn.vn  
Tóm tắt  
Vật liệu aero-cellulose ưa dầu kỵ nước (độ xốp > 90%, độ nổi tuyệt đối) được tổng hợp thành công từ sợi cellulose trích ly (độ tinh  
khiết 95%) từ nguồn giấy in thải. Phương pháp hoàn lưu dung môi được áp dụng giúp giảm thời gian và tăng hiệu quả biến tính cả về  
mặt kỹ thuật và kinh tế. Vật liệu sau biến tính có góc thấm ướt trung bình cao hơn 120o và độ ưa nước gần bằng 0 trong xử lý hút dầu từ  
hỗn hợp dầu - nước. Mỗi gam vật liệu sau 3 giờ hoàn lưu dung môi ETMS có thể thu hồi từ 30 - 45g dầu không lẫn nước và có thể tái sử  
dụng nhiều lần.  
Từ khóa: Aerogel, cellulose tự nhiên, xử lý dầu tràn, hoàn lưu dung môi.  
1. Mở đầu  
Sự cố tràn dầu không chỉ gây ra tổn thất rất lớn về  
tổng hợp thấp, dễ tổng hợp, thân thiện với môi trường và  
tạo ra sản phẩm có khả năng phân hủy sinh học từ nguồn  
nguyên liệu thô bền vững (cellulose).  
kinh tế, mà còn ô nhiễm môi trường sinh thái, đe dọa sức  
khỏe con người... do đó cần phải ứng cứu nhanh, sạch và  
an toàn. Ứng dụng chất hấp thụ dầu trong xử lý sự cố dầu  
tràn có thể xử lý thuận lợi và dễ dàng vật liệu sau khi hấp  
thụ dầu với độ thu hồi dầu tràn cao [1], được xem là một  
giải pháp mang lại hiệu quả, tính kinh tế và thân thiện với  
môi trường.  
Trong nghiên cứu này, vật liệu aero-cellulose được  
tổng hợp từ cellulose có trong giấy in thải. Nguyên liệu  
này có các ưu điểm như: giàu cellulose nhất; chiếm tỷ lệ  
lớn nhất trong rác thải rắn và thuận lợi cho việc thu gom  
nguyên liệu; không cần tiền xử lý loại nhựa (wax) bằng  
phương pháp thủy nhiệt trên nguyên liệu giấy thải trong  
quá trình trích ly cellulose; không cần xử lý lignin bằng  
kiềm và hóa chất tẩy trắng ở điều kiện khắc nghiệt do giấy  
thải chứa rất ít lignin. Do không sử dụng nhiều chất hóa  
học ở điều kiện khắc nghiệt, sợi cellulose trích ly thu được  
từ nguyên liệu giấy thải chất lượng cao, thân thiện với môi  
trường, thuận lợi cho việc tổng hợp cellulose aerogel. Sản  
phẩm aero-cellulose được nghiên cứu biến tính tăng tính  
ưa dầu, kỵ nước nhằm hướng đến ứng dụng xử lý dầu tràn  
và nước nhiễm dầu. Đặc trưng hóa lý và hiệu năng xử lý  
của vật liệu nghiên cứu khi mô phỏng tràn một số loại dầu  
thông dụng trên thị trường ra môi trường nước với tỷ lệ  
dầu:nước khác nhau cũng được trình bày.  
Yêu cầu phát triển vật liệu sở hữu các đặc tính quan  
trọng quyết định đến hiệu quả thu hồi dầu đang thúc  
đẩy xu hướng nghiên cứu biến đổi cấu trúc bề mặt và  
cấu trúc nội tại của sợi cellulose rỗng trong các sản phẩm  
thiên nhiên [2 - 6] và tổng hợp vật liệu siêu xốp cellulose  
aerogel (aero-cellulose) từ phế phẩm nông nghiệp [7 -  
9]. Aero-cellulose là vật liệu siêu xốp, siêu nhẹ với 99%  
thể tích là không khí, sở hữu diện tích bề mặt nội tại rất  
lớn và cấu trúc lỗ xốp lý tưởng cho ứng dụng thấm hút.  
Trong tự nhiên, cellulose là polymer hữu cơ đan kết trong  
phần đệm lignocellulose, gồm lignin và hemicellulose của  
khoảng 150 triệu tấn sinh khối sản xuất hàng năm. So với  
vật liệu aerogel dựa trên silic nano [10], vật liệu dạng aero-  
gel dựa trên cellulose có các ưu điểm: chi phí cho quá trình  
2. Thực nghiệm  
2.1. Thu thập, tiền xử lý và bảo quản nguyên liệu  
Nguyên liệu giấy in thải sau khi được phân loại, làm  
sạch không lẫn rác, được ngâm trong nước qua đêm, sau  
Ngày nhận bài: 15/10/2018. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 18/10/2018 - 12/1/2019.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 6/3/2019.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
52  
PETROVIETNAM  
đó nấu sôi trong 12 giờ, để nguội và cho vào máy xay  
nhỏ, tốc độ trung bình. Bột giấy sau đó được lọc, sấy  
ở 60oC trong 24 giờ và bảo quản trong bình hút ẩm.  
Bột giấy  
2.2. Phương pháp và quy trình tổng hợp - biến tính  
Tiền xử lý  
Hình 1 trình bày quy trình trích ly cellulose tự  
nhiên từ phế phẩm giấy in thải sau giai đoạn tiền xử  
lý, trong đó bước xử lý kiềm và tẩy loại lignin được  
thực hiện đồng thời. Bột giấy thải được khuấy trộn  
trong hỗn hợp dung dịch có chứa 1.000ml NaOH 2M  
(Trung Quốc) và 375ml NaClO 12% (Trung Quốc),  
trong thời gian 3 giờ ở nhiệt độ 100oC. Lượng nước  
mất trong quá trình đun sôi được bù bằng nước cất.  
Sau đó, bột rắn được lọc và rửa với nước cất cho đến  
khi dung dịch lọc có pH trung tính. Chất rắn thu được  
sau lọc được sấy khô ở nhiệt độ 40oC trong 24 giờ và  
bảo quản trong bình hút ẩm.  
Xử lý kiềm  
và tẩy trắng  
Lọc rửa  
Cellulose  
trích ly  
Hình 2 trình bày phương pháp tổng hợp vật liệu  
aero-cellulose từ sản phẩm cellulose trích ly. Quá  
trình siêu âm đầu dò dung dịch chứa bột cellulose  
trích ly phân tán trong nước cất được thực hiện ở  
nhiệt độ phòng trong khoảng 5 - 30 phút. Sau đó,  
huyền phù phân tán cellulose trong nước chứa trong  
cốc nhựa được đông rắn trong tủ cấp đông qua đêm.  
Lấy cốc nhựa chứa huyền phù nanocellulose đã  
đông ra khỏi tủ cấp đông, bổ sung EtOH (tỷ lệ thể  
tích rắn:lỏng = 1:2) và ngâm 2 ngày, thay mới EtOH  
mỗi ngày. Loại bỏ EtOH, thay bằng nước cất, tiếp  
tục ngâm trong 2 ngày, thay mới nước cất 3 lần mỗi  
ngày. Sản phẩm thu được đã được đông lạnh trong  
12 giờ, trước khi được đưa vào máy sấy thăng hoa.  
Vật liệu aero-cellulose thu được sau 2 ngày.  
Hình 1. Quy trình trích ly cellulose tự nhiên từ giấy in thải  
Cellulose trích ly  
phút  
Siêu âm  
Đông rắn  
Ngâm rửa  
Đông rắn  
Vật liệu aero-cellulose (Hình 2) cấu thành từ  
mạng lưới 3 chiều đan xen giữa các sợi cellulose trích  
ly. Trên bề mặt sợi cellulose tồn tại nhiều nhóm chức  
hydroxyl nên aero-cellulose thu được có tính ưa nước  
rất cao. Để tăng tính ưa dầu kỵ nước của vật liệu, các  
nhóm hydroxyl được chuyển hóa thành alkoxysilane  
và phương pháp thông dụng là ngâm nhúng trực  
tiếp vật liệu trong dung dịch alkoxysilane. Khối vật  
liệu aero-cellulose được đặt trong đĩa petri ở nhiệt  
độ phòng có chứa dung môi ethyl trimethoxysilane  
(99% ETMS, Trung Quốc). Sau 1 phút, khối vật liệu  
được lấy ra khỏi đĩa petri và chuyển vào cốc sứ đặt  
trong tủ sấy ở nhiệt độ 90oC. Quá trình ngâm nhúng  
và sấy được lặp lại nhiều lần.  
Sấy thăng hoa  
Aero-  
cellulose  
Hình 3 trình bày quy trình silan hóa bề mặt vật  
liệu aero-cellulose nhằm tăng tính ưa dầu kỵ nước  
Hình 2. Quy trình tổng hợp vật liệu aero-cellulose từ cellulose trích ly  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
53  
HÓA - CHẾ BIẾN DẦU KHÍ  
và cellulose được đem đi đốt để tính thành phần tro theo  
tiêu chuẩn NREL/TP-510-42622 [13], từ đó tính được lignin  
tổng (lignin tan và không tan trong acid). Lignin không  
tan trong acid được xác định dựa theo tiêu chuẩn TAPPI  
T222 om-02 [14], sử dụng H2SO4 đậm đặc (72%).  
Aero-cellulose ưa nước  
Hóa hơi - ngưng tụ  
Độ tinh khiết sản phẩm trích ly được xác định theo %  
khối lượng cellulose có trong mẫu. Hiệu suất trích ly cel-  
lulose (%) được xác định bằng tỷ lệ hàm lượng cellulose  
trong sản phẩm trích ly so với hàm lượng cellulose trong  
nguyên liệu phế phẩm ban đầu.  
Hóa hơi - thu hồi  
Thử - ưa nước  
Tỷ trọng vật liệu xốp được xác định bằng phương  
pháp cân thủy tĩnh (định luật Archimedes). Tỷ trọng vật  
liệu xốp được tính theo công thức sau:  
=
=
×
)
(g/cm3)  
(
Trong đó:  
Aero-cellulose  
ưa dầu kỵ nước  
m: Trọng lượng vật thể trong không khí (g);  
m’: Trọng lượng vật thể trong nước (g);  
V: Thể tích vật thể (cm3);  
Hình 3. Quy trình biến tính vật liệu aero-cellulose nhằm tăng tính ưa dầu kỵ nước  
bằng phương pháp hoàn lưu dung môi  
ρ’: Tỷ trọng của nước ở nhiệt độ phòng (ρ= 1g/cm3).  
của sản phẩm bằng phương pháp hoàn lưu dung môi cải  
tiến. Khối vật liệu aero-cellulose có khối lượng 0,3g được  
cho vào ống soxhlet. Cho 200ml ethyl trimethoxysilane  
(99% ETMS) vào bình cầu 2 cổ, tiến hành đun sôi. ETMS  
được hóa hơi và ngưng tụ vào soxhlet có chứa vật liệu  
aero-cellulose và được hoàn lưu liên tục trong thời gian  
2 giờ. Sau đó, hơi ETMS được dẫn qua một hệ thống ống  
sinh hàn ruột thẳng để ngưng tụ, thu hồi dung môi trong  
thời gian 1 giờ. Vật liệu aero-cellulose sau biến tính với  
ETMS trong giai đoạn hóa hơi - ngưng tụ được sấy khô  
một phần trong thời gian hóa hơi - thu hồi dung môi, sau  
đó tiếp tục sấy khô trong tủ sấy và bảo quản ở nhiệt độ  
phòng.  
Độ xốp của vật liệu được xác định bằng tỷ lệ thể tích  
không khí bên trong khối vật liệu và thể tích khối vật liệu  
đặc theo công thức sau:  
(
)
% =  
× 100  
đặ  
Trong đó:  
Vkk: Thể tích không khí bên trong khối vật liệu, được  
xác định từ thể tích nước tăng lên khi nhúng ngập vật liệu  
xốp vào trong nước;  
Vđặc: Thể tích cả khối vật liệu đặc, được xác định theo  
thể tích hình học của khối;  
Vđặc = D × R × C.  
2.3. Phương pháp phân tích thành phần và đặc trưng  
hóa lý  
Cấu trúc tinh thể của sản phẩm trích ly được xác định  
bằng phép phân tích nhiễu xạ tia X (XRD). Phổ XRD được  
ghi nhận ở nhiệt độ phòng từ giá trị 2θ = 5 - 55o, bước  
nhảy 0,02o/giây trên thiết bị D8 Advance (Bruker) theo  
phương pháp ASTM D-3906 [15].  
Hàm lượng xơ sợi (hemicellulose, cellulose và lignin)  
của nguyên liệu giấy in thải được xác định dựa theo tiêu  
chuẩn AOAC 973.18 [11] và AOAC 2002.04 [12] dựa trên  
quá trình phân giải mẫu trong dung dịch tẩy trung tính  
NDS. Sau khi tách phần chất hòa tan trong dung môi NDS  
và phần còn lại NDF, phần rắn NDF tiếp tục được xử lý với  
dung dịch tẩy rửa acid (ADS). Acid trong dung dịch ADS sẽ  
thủy phân hemicellulose, CTAB và acid sẽ hòa tan các chất  
trích ly, phần còn lại là cellulose, lignin, tro. Phần bã rắn  
gồm lignin và tro thu được sau khi hòa tan hemicellulose  
Hình thái học của mẫu được xác định qua hình ảnh  
kính hiển vi điện tử quét (SEM) chụp trên thiết bị EVO  
MA10 (Carl Zeiss).  
Phổ quang phổ hồng ngoại chuyển đổi đo trên máy  
quang phổ FR-IR Mattson ATI Genesis, dùng để xác định  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
54  
PETROVIETNAM  
nhóm chức silane trong mẫu sau biến tính. Tổng cộng có 64 lần  
quét qua mẫu với độ phân giải 4cm-1 trong vùng 4.000 - 500cm-1.  
3. Kết quả và thảo luận  
Kết quả phân tích thành phần xơ sợi của giấy  
in thải và thành phần xơ sợi của sản phẩm cel-  
lulose trích ly từ phế phẩm này được trình bày  
trong Bảng 1. Kết quả cho thấy hàm lượng cel-  
lulose trong giấy in thải tương đối cao trong khi  
hàm lượng lignin rất thấp, đặc biệt hàm lượng tro  
cao. So sánh với kết quả phân tích thành phần xơ  
sợi trên đối tượng sản phẩm trích ly thu được từ  
quy trình Hình 1, có thể thấy phương pháp trích  
ly sử dụng đồng thời NaOH và NaClO làm trương  
nở bó sợi, hòa tan hợp phần hữu cơ (hemicellu-  
lose và lignin) có trong giấy thải đạt hiệu quả cao:  
sản phẩm trích ly từ giấy in thải chứa 95% cellu-  
lose, tăng lên đáng kể so với hàm lượng cellulose  
trong phế phẩm ban đầu. Dựa vào kết quả phân  
tích hemicellulose và lignin của nguyên liệu giấy  
in thải trước và sau khi trích ly, có thể thấy cách  
kết hợp sử dụng tác chất NaOH và NaClO hòa tan  
mạnh hợp phần vô cơ (silic), hòa tan vừa phải hợp  
phần hữu cơ (hemicellulose và lignin) và tác động  
ít đến cellulose có trong mẫu giấy thải.  
Độ ưa dầu kỵ nước, thể hiện qua góc thấm ướt trên 100o, được  
xác định trên máy đo mã hiệu OCA20 (Dataphysics).  
2.4. Phương pháp đánh giá hiệu năng xử lý dầu tràn ra môi  
trường nước và nước biển  
Khả năng ứng dụng của vật liệu trong lĩnh vực xử lý dầu tràn  
và nước nhiễm dầu được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: độ  
nổi, độ hút dầu, độ hút nước và số lần tái sinh. Các chỉ tiêu này  
được xác định bằng phương pháp kiểm tra hiệu năng thấm hút  
dầu không tạo nhũ hay chất lỏng không tan nổi trên bề mặt nước  
theo tiêu chuẩn ASTM F 726 - 06 [16]. Môi trường nước biển mô  
phỏng theo tiêu chuẩn ASTM D1141-98 (2013) [17] được sử dụng  
trong các phép thử đánh giá, so sánh.  
Hàm lượng nước trong dầu sau khi thu hồi được xác định  
bằng phương pháp chuẩn độ Karl Fischer theo tiêu chuẩn ASTM  
D6304-04 [18] trên thiết bị Karl Fischer Coilometric C30 (Mettler  
Tonedo, Thụy Sĩ).  
Bảng 1. Kết quả phân tích thành phần xơ sợi của giấy in thải và sản phẩm thu được  
sau quá trình trích ly (Hình 1)  
Thành phần xơ sợi (% khối lượng)  
Cấu trúc tinh thể của sợi cellulose trích ly từ  
giấy in thải được xác định qua phổ chiếu xạ tia X  
(Hình 4). Có thể thấy rằng các peak xuất hiện ở 2θ  
= 14,8o; 16,4o; 22,6o và 34,2o trong phổ nhiễu xạ  
của mẫu trích ly từ giấy in là các peak đặc trưng  
của cellulose I kết tinh tương ứng với các mặt  
Đối tượng  
Chất  
béo  
2,2  
Cellulose Hemicellulose Lignin Tro  
Khác  
1,0  
Giấy in thải  
Sản phẩm  
trích ly  
71,4  
95,3  
8,6  
0,4  
1,3  
0,2  
15,5  
0,2  
1,6  
2,3  
110  
mạng nhiễu xạ lần lượt là ( ), (110), (200) và  
(040), phù hợp với kết quả phân tích cấu trúc tinh  
thể của cellulose của nhóm tác giả Klemm [19] và  
Takahashi [20]. Cellulose I là cấu trúc cellulose có  
nguồn gốc thiên nhiên, bao gồm pha dị hình Iα (có  
chủ yếu trong tảo) và pha Iβ (có ở một số thực vật  
bậc cao như gỗ và bông) [21]. Kết quả phổ nhiễu  
xạ XRD trên các mẫu trích ly từ nguồn giấy in và  
nguồn vỏ trấu cho thấy có sự tồn tại của một peak  
nhỏ ở 2θ = 18o, tương ứng với peak đặc trưng của  
hemicellulose theo như công bố của nhóm tác giả  
Yang [22], nhưng với hàm lượng không đáng kể  
do cường độ peak xuất hiện rất thấp.  
160  
110  
100  
90  
80  
60  
40  
Hình 5 thể hiện hình chụp SEM của bề mặt sản  
phẩm trung gian thu được theo trình tự các bước  
trong quá trình tổng hợp aero-cellulose. Hình 5a  
thể hiện hình ảnh SEM của nguyên liệu giấy in thải  
cho thấy bó sợi có bề mặt mượt, đường kính trong  
khoảng 20 - 50μm, không có dấu vết phá hủy. Sau  
20  
0
0
10  
20  
30  
40  
50  
2θ (o)  
Hình 4. Kết quả phân tích cấu trúc tinh thể của sản phẩm trích ly từ giấy in thải  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
55  
HÓA - CHẾ BIẾN DẦU KHÍ  
(a)  
(b)  
(c)  
Hình 5. Hình chụp kính hiển vi điện tử quét (SEM) bề mặt sản phẩm thu được theo trình tự tổng hợp aero-cellulose: (a) nguyên liệu giấy in thải ban đầu;  
(b) sản phẩm trung gian sau bước xử lý NaOH và NaClO đồng thời; (c) sản phẩm sau bước xử lý siêu âm  
Hình 6. Hình chụp kính hiển vi điện tử quét vật liệu aero-cellulose dựa trên sợi cellulose trích ly của nguồn giấy in thải  
bước xử lý với NaOH và NaClO, Hình 5b cho thấy quá trình  
thủy phân hòa tan các hợp phần hữu cơ trong nguyên liệu  
(chủ yếu là hemicellulose), dẫn đến tạo thành bó sợi cel-  
lulose với đường kính nhỏ hơn, trong khoảng 8 - 12μm.  
Bề mặt bó sợi cellulose trong mẫu giấy in thải sau khi xử  
lý NaOH và NaClO cho thấy rõ mức độ kết nối giữa các sợi  
với nhau giảm mạnh. Điều này có lợi cho bước xử lý siêu  
âm tiếp theo, khi áp lực cao do các bong bóng khí liên  
tục hình thành và vỡ ra trong thời gian rất ngắn dưới tác  
động của sóng siêu âm (cavitation) có thể tách sợi hiệu  
quả (Hình 5c).  
tạo thành do các sợi cellulose đan xen ngẫu nhiên thành  
một mạng lưới không gian 3 chiều, có độ xốp cao.  
Vật liệu aero-cellulose thu được có độ xốp xác định  
khoảng 92%, tỷ trọng khoảng 0,024g/cm3, thấp hơn tỷ  
trọng của nước nên có độ nổi tuyệt đối.  
Vật liệu aero-cellulose từ giấy in sau khi biến tính  
ETMS được đặt cố định trên tấm phim. Hình ảnh giọt nước  
được nhỏ giọt lên nhiều vị trí khác nhau của vật liệu với  
tốc độ nhỏ giọt được kiểm soát bằng máy vi tính (Hình 7).  
Qua đó cho thấy bằng chứng của quá trình silane hóa xảy  
ra trên vật liệu aero-cellulose. Hình ảnh giọt nước tròn đầy  
được ghi nhận trên nhiều vị trí bề mặt vật liệu sau biến  
tính cho thấy góc thấm ướt lớn, là dấu hiệu cho biết tính  
ưa dầu - kỵ nước của vật liệu aero-cellulose sau khi biến  
tính được cải thiện.  
Hình 6 trình bày hình chụp kính hiển vi điện tử quét  
vật liệu aero-cellulose làm từ sợi cellulose trích ly của  
nguồn giấy in thải. Kết quả chụp hình thái học của vật  
liệu aero-cellulose thu được từ sợi cellulose trích ly của  
nguồn giấy in thải cho thấy các sợi cellulose ở kích thước  
micrometre, đan xen ngẫu nhiên trong mạng lưới, nguyên  
nhân bởi lực liên kết hydro và liên kết Van der Waals. Kích  
thước sợi cellulose trong vật liệu aero-cellulose từ nguồn  
phế liệu giấy in dao động trong khoảng hẹp, từ 5 - 15μm.  
Theo kết quả hình thái học, vật liệu aero-cellulose được  
Kết quả phân tích quang phổ hồng ngoại chuyển đổi  
trên mẫu aero-cellulose trước biến tính (Hình 8a) và trên  
mẫu aero-cellulose sau biến tính ETMS (Hình 8b) cũng cho  
thấy sự xuất hiện các peak đặc trưng cho dao động của liên  
kết silicon. Các peak hấp thụ trong khoảng 3.700 - 3.000cm-1  
(Hình 8a) đặc trưng cho dao động giãn trong các nhóm O-H  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
56  
PETROVIETNAM  
của cellulose [23], dãy peak giữa 3.000 và  
2.800cm-1 tương ứng với dao động giãn  
đối xứng và bất đối xứng của liên kết C-H  
[24] và peak ở khoảng 1.640cm-1 ứng  
với dao động uốn của nhóm O-H trong  
các phân tử nước hấp phụ [25]. Mặc dù  
mẫu đo FTIR được sấy khô, nước hấp phụ  
trong các phân tử cellulose rất khó loại bỏ  
hoàn toàn, do tương tác cellulose - nước.  
Trong khi đó, các peak xuất hiện ở khoảng  
1.430cm-1 và 1.320cm-1 trong cả 2 phổ  
(a) và (b) lần lượt là dao động uốn của  
nhóm CH2 và dao động uốn của nhóm  
C-H và C-O trong polysaccharide [26].  
Ngoài ra, peak hấp thụ trong khoảng  
1.160 - 1.030cm-1 tương ứng với dao  
động giãn C-O và dao động dịch ngang  
(rocking) của C-H trong khung vòng py-  
ranose [27]. Theo Mincheva [28], các dãy  
peak trong khoảng 1.240 - 1.000cm-1  
tương ứng với các vòng carbonhydrate  
của khung cellulose. Peak dao động ở  
900 - 895cm-1 trong phổ tương ứng với  
các liên kết glycoside (ứng với dao động  
biến dạng của C1-H trong polysaccha-  
ride, đại diện cho liên kết glucosidic giữa  
các đơn vị glucose trong cellulose [29].  
Hình 7. Hình ảnh giọt nước trên nhiều vị trí bề mặt vật liệu aero-cellulose sau khi biến tính sử dụng ETMS  
Sau khi biến tính hóa học với ETMS,  
một số vùng peak có cường độ hấp thụ  
cao xuất hiện lần lượt ở khoảng 2.970  
- 2.930cm-1, 1.270 - 1.240cm-1 và 800 -  
775cm-1, tương ứng với dao động giãn  
của C-H, dao động giãn của Si-H, dao  
động giãn đối xứng và bất đối xứng của  
Si-O [30] cho thấy nhóm chức alkoxysi-  
lane được đưa thành công lên trên bề  
mặt của cellulose. Các nhóm peak đặc  
trưng cho dao động giãn bất đối xứng  
của cầu nối Si-O-cellulose ở khoảng  
1.103 - 800cm-1 và peak xuất hiện ở  
1.189cm-1 tương ứng với dao động của  
liên kết C-H trong nhóm methoxy gắn  
kết với nguyên tử Si [28] bị chồng lấp  
với vùng dao động rộng C-O-C của cel-  
lulose nên không thể chỉ rõ trên phổ. Tuy  
nhiên, nhờ sự đóng góp của các nhóm  
peak này mà vùng phổ chồng lấp (Hình  
8b) có cường độ cao hơn rõ rệt.  
(a)  
(b)  
Hình 8. Phổ FTIR thực hiện trên mẫu aero-cellulose không biến tính ETMS (a) và aero-cellulose  
sau khi biến tính ETMS (b)  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
57  
HÓA - CHẾ BIẾN DẦU KHÍ  
Bảng 2. Giá trị góc thấm ướt trung bình trên vật liệu aero-cellulose của nguồn giấy in thải sau khi biến tính bằng phương pháp ngâm nhúng trực tiếp  
Thời gian biến tính bằng phương pháp ngâm nhúng trực tiếp (phút)  
60  
150  
180  
240  
300  
360  
Giá trị góc thấm ướt trung bình (o)  
0
0
0
0
100  
120  
Bảng 3. Giá trị góc thấm ướt trung bình trên vật liệu aero-cellulose của nguồn giấy in thải sau khi biến tính bằng phương pháp hoàn lưu dung môi  
Thời gian biến tính bằng phương pháp hoàn lưu dung môi (phút)  
30  
0
60  
0
90  
100  
120  
124  
150  
131  
180  
142  
Giá trị góc thấm ướt trung bình (o)  
Bảng 4. Hàm lượng nước trong dầu hút vào vật liệu aero-cellulose của nguồn giấy in sau biến tính  
Hàm lượng nước trong dầu (ppm)  
Dầu:nước = 8:2 (v/v)  
Dầu:nước = 5:5 (v/v)  
Dầu:nước = 2:8 (v/v)  
Vật liệu aero-cellulose  
24  
25  
28  
Bảng 5. Độ hút dầu tối đa của vật liệu aero-cellulose trong xử lý dầu thô Bạch Hổ tràn ra môi trường sông nước và môi trường biển ở điều kiện nhiệt độ khác nhau  
Độ hút dầu thô Bạch Hổ tối đa (gam dầu/gam vật liệu)  
Nhiệt độ  
Nước nhiễm dầu  
Nước biển nhiễm dầu  
25oC  
40oC  
40,6  
44,1  
40,4  
44,3  
Bảng 6. Giá trị độ hút dầu tối đa (gam dầu/gam vật liệu) ở nhiệt độ 25oC theo số lần tái sử dụng vật liệu aero-cellulose biến tính ETMS bằng phương pháp hoàn lưu dung môi trong 3 giờ  
Độ hút dầu tối đa (g dầu/g vật liệu) ở nhiệt độ 25oC  
Loại dầu  
Lần 1  
40,4  
38,0  
29,6  
Lần 2  
38,7  
36,4  
29,2  
Lần 3  
37,3  
34,6  
28,7  
Lần 4  
35,0  
32,0  
27,5  
Lần 5  
32,4  
29,7  
26,4  
Lần 6  
28,7  
27,0  
25,9  
Lần 7  
26,6  
25,9  
25,2  
Lần 8  
25,0  
25,0  
24,8  
Lần 9  
24,5  
24,4  
24,2  
Lần 10  
24,1  
24,0  
DO-0,3S  
Bạch Hổ  
FO  
24,0  
Kết quả giá trị góc thấm ướt trung bình trên vật liệu  
aero-cellulose sau khi biến tính bằng phương pháp truyền  
thống (ngâm nhúng trực tiếp) và phương pháp hoàn  
lưu dung môi lần lượt được trình bày trong Bảng 2 và 3.  
Phương pháp hoàn lưu dung môi có ưu điểm là chỉ cần  
biến tính với hóa chất ETMS trong thời gian 120 phút, bề  
mặt vật liệu aero-cellulose đã có tính ưa dầu, do góc thấm  
ướt đạt đến giá trị > 100o trong khi cần phải biến tính với  
ETMS trong thời gian 360 phút bằng phương pháp ngâm  
nhúng trực tiếp để đạt được góc thấm ướt tương đương  
trên bề mặt vật liệu aero-cellulose. Ngoài ra, phương pháp  
truyền thống hầu như không thể thu hồi dung môi ETMS  
đắt tiền trong khi phương pháp hoàn lưu dung môi cho  
phép thu hồi > 98% dung môi sử dụng. Điều này cho thấy  
hiệu quả kinh tế và kỹ thuật của phương pháp hoàn lưu  
dung môi trong quá trình biến tính vật liệu.  
khối lượng, trên thực tế được xem là 0% nước. Hàm lượng  
nước trong mẫu dầu thu hồi không thay đổi khi thay đổi  
tỷ lệ thể tích dầu:nước, chứng tỏ quá trình biến tính đạt  
hiệu quả tối đa.  
Độ hút dầu tối đa của vật liệu aero-cellulose trong xử  
lý dầu thô Bạch Hổ (thu được từ bể chứa dầu thô của nhà  
máy lọc dầu) tràn ra môi trường nước và môi trường nước  
biển mô phỏng, với tỷ lệ dầu:nước = 2:8 được khảo sát ở  
điều kiện nhiệt độ 25oC và nhiệt độ 40oC, kết quả thu được  
trình bày trong Bảng 5. Kết quả cho thấy: (i) nhiệt độ có  
ảnh hưởng đến độ hút dầu tối đa và (ii) môi trường xảy  
ra sự cố nhiễm dầu trên sông và trên biển không có ảnh  
hưởng đến độ hút dầu tối đa của vật liệu aero-cellulose.  
Khi nhiệt độ môi trường tăng từ 25 - 40oC, vật liệu có độ  
hút dầu thô Bạch Hổ tăng tối đa theo nhiệt độ, với biên độ  
gia tăng khoảng 8%.  
Độ ưa nước của vật liệu aero-cellulose từ nguồn giấy  
in thải sau 180 phút biến tính được xác định thông qua  
hàm lượng nước có trong dầu ép ra từ vật liệu aero-cel-  
lulose sau biến tính, kết quả được trình bày trong Bảng  
4. Hàm lượng nước trong mẫu dầu thu hồi đều < 0,025%  
Vật liệu aero-cellulose tổng hợp có đặc tính ưu việt  
hơn những vật liệu nghiên cứu tương đương khác trong  
ứng dụng thu hồi dầu tràn. Nhóm tác giả Duong M.H.  
[9] nghiên cứu tổng hợp vật liệu cellulose aerogel từ sản  
phẩm sợi cellulose thương mại có nguồn gốc giấy thải  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
58  
PETROVIETNAM  
bằng quy trình tổng hợp tương tự. Kết quả xuất bản của  
nhóm tác giả cho thấy sản phẩm cellulose aerogel thu  
được có tỷ trọng 0,04g/cm3, sau thí nghiệm biến tính  
tăng độ ưa dầu kỵ nước bằng phương pháp ngâm nhúng  
trực tiếp thì mỗi gam vật liệu ở điều kiện nhiệt độ 25oC và  
40oC có thể hút được lần lượt 20,5g và 24,4g dầu thô Rạng  
Đông. Trong khi đó, sản phẩm aero-cellulose của nghiên  
cứu này có tỷ trọng 0,02g/cm3, sau khi biến tính tăng độ  
ưa dầu kỵ nước thì mỗi gam vật liệu ở điều kiện nhiệt độ  
25oC và 40oC có thể hút được lần lượt 40,6g và 44,1g dầu  
thô Bạch Hổ - loại dầu có độ nhớt cao hơn.  
liệu aero-cellulose sau khi biến tính 3 giờ bằng ETMS theo  
phương pháp hoàn lưu dung môi thể hiện tính ưa dầu  
rất cao: mỗi gam vật liệu có thể thu hồi từ 40 - 45g dầu  
DO không lẫn nước và có thể tái sử dụng nhiều lần. Hiệu  
năng xử lý dầu tràn của vật liệu aero-cellulose sau biến  
tính càng cao khi xử lý dầu có độ nhớt càng thấp. Sở hữu  
những đặc tính quan trọng của chất hấp thụ lý tưởng, bao  
gồm tính dễ phân hủy sinh học, tính ưa dầu kỵ nước, độ  
nổi tuyệt đối trên nước và cấu trúc rỗng xốp với bộ khung  
có khả năng tự phục hồi, vật liệu aero-cellulose trong ng-  
hiên cứu này chứng tỏ có thể ứng dụng trong xử lý dầu  
tràn và nước nhiễm dầu với hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả  
môi trường cao, đặc biệt phù hợp sử dụng ở Việt Nam do  
giải quyết nguồn phế phẩm khổng lồ vừa bảo tồn nguồn  
tài nguyên rừng, đồng thời giải quyết triệt để các vấn đề  
liên quan đến các ca xử lý nước nhiễm dầu đang có xu  
hướng ngày càng tăng.  
Bảng 6 trình bày giá trị độ hút dầu tối đa đối với 3 loại  
dầu đặc trưng (DO, FO và Bạch Hổ) ở nhiệt độ 25oC của  
vật liệu aero-cellulose khi biến tính bằng phương pháp  
hoàn lưu dung môi trong thời gian 3 giờ theo số lần tái sử  
dụng. Kết quả cho thấy độ hút dầu tối đa giảm dần theo  
số lần tái sử dụng, mức độ giảm lượng dầu thấm hút cao  
hơn đối với loại dầu DO-0,3S có độ nhớt thấp và mức độ  
giảm lượng dầu thấm hút thấp hơn đối với loại dầu FO có  
độ nhớt cao. Có thể thấy, dầu có độ nhớt thấp khi thấm  
hút vào trong vật liệu siêu xốp có mức độ lưu giữ kém,  
dễ chảy tràn ra ngoài khi vận chuyển vật liệu, trong khi  
dầu có độ nhớt cao có mức độ lưu giữ cao hơn, khó chảy  
tràn ra ngoài. Kết quả cũng cho thấy xu hướng hút dầu  
của vật liệu đối với dầu thô Bạch Hổ tuân theo nguyên  
tắc giảm dầu theo số lần tái sinh, đồng thời những lần tái  
sinh tương ứng thì độ hút dầu Bạch Hổ tối đa của vật liệu  
nhỏ hơn độ hút dầu DO-0,3S và lớn hơn độ hút dầu FO.  
Qua đó thấy được hiệu năng xử lý dầu tràn của vật liệu  
aero-cellulose sau biến tính chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi  
độ nhớt của loại dầu cần xử lý. Dầu cần xử lý có độ nhớt  
càng thấp càng dễ được thu hồi.  
Sản phẩm aero-cellulose thu được từ nghiên cứu này  
có thể được định hướng cải thiện hiệu năng xử lý dầu tràn  
(độ hút dầu tối đa và số lần tái sử dụng) bằng cách gia  
tăng độ xốp sản phẩm (giảm đường kính sợi cellulose)  
nhưng vẫn duy trì độ bền vững của cấu trúc ba chiều (duy  
trì chiều dài sợi) thông qua tối ưu điều kiện thực hiện quy  
trình trích ly và siêu âm đầu dò. Cụ thể, đường kính và  
chiều dài sợi cellulose trích ly từ phế phẩm nông nghiệp  
có thể được cải thiện bằng cách gia tăng hiệu quả quá  
trình trương nở cấu trúc sợi tự nhiên bằng tác chất kiềm  
có độ hoạt hóa cao hơn và quá trình hòa tan lignin bằng  
tác chất oxy hóa mạnh hơn. Quá trình siêu âm phân tán  
sợi cellulose trong dung môi nước và sấy loại bỏ dung môi  
trong cấu trúc aerogel đóng vai trò quyết định trong việc  
cải thiện hiệu năng sản phẩm.  
Nhóm tác giả đề xuất sử dụng năng lượng sóng siêu  
âm lớn hơn, nhiệt độ bể siêu âm thấp hơn và trao đổi  
dung môi nước bằng dung môi cồn. Ngoài ra, bước biến  
tính silan hóa bề mặt vật liệu có thể thực hiện đồng thời  
trong quá trình trao đổi dung môi nhằm nâng cao hiệu  
quả kỹ thuật và kinh tế cho sản phẩm.  
4. Kết luận  
Vật liệu aero-cellulose với đặc tính hấp thụ dầu được  
tổng hợp thành công từ sợi cellulose trích ly từ nguồn giấy  
in thải. Quy trình tổng hợp vật liệu aero-cellulose bao gồm  
các bước: (i) tiền xử lý nguyên liệu và trích ly cellulose; (ii)  
chuyển hóa huyền phù sợi cellulose thành aero-cellulose  
và (iii) biến tính silan hóa vật liệu aero-cellulose thành ưa  
dầu, kỵ nước để ứng dụng làm vật liệu hấp thụ trong xử lý  
dầu tràn hoặc nước nhiễm dầu.  
Tài liệu tham khảo  
1. Syed Sabir. Approach of cost-effective adsorbents  
for oil removal from oily water. Critical Reviews in  
Environmental Science and Technology. 2015; 45(17):  
p. 1916 - 1945.  
Từ nguyên liệu giấy in thải, sợi cellulose thu được sau  
trích ly có cấu trúc cellulose I kết tinh, đạt độ tinh khiết  
95% với hiệu suất trích ly 92%. Vật liệu aero-cellulose thu  
được nhờ các sợi cellulose có kích thước cỡ micrometre  
đan xen với nhau trong một mạng lưới 3 chiều, nhờ vậy  
có độ xốp cao hơn 90% và tỷ trọng thấp (0,024g/cm3). Vật  
2. Suhas, VK.Gupta, PJM.Carrott, Randhir Singh,  
Monika Chaudhary, Sarita Kushwaha. Cellulose: A review  
as natural, modified and activated carbon adsorbent.  
Bioresource Technology. 2016; 216: p. 1066 - 1076.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
59  
HÓA - CHẾ BIẾN DẦU KHÍ  
3. Ola Abdelwahab, Samir M.Nasr, Walaa M.Thabet.  
15. ASTM D-3906-03(2013). Standard test method  
for determination of relative X-ray diffraction intensities of  
faujasite-type zeolite-containing materials.  
Palm fibers and modified palm fibers adsorbents for different  
oils. Alexandria Engineering Journal. 2017; 56(4): p. 749 -  
755.  
16. ASTM F 726-06. Standard test method for sorbent  
performance of adsorbents.  
4. Dan Li, Fu Zhen Zhu, Jing Yi Li, Ping Na, Na Wang.  
Preparation and characterization of cellulose fibers from  
corn straw as natural oil sorbents. Industrial & Engineering  
Chemistry Research. 2103; 52(1): p. 516 - 524.  
17. ASTM D1141 - 98(2013). Standard practice for the  
preparation of substitute ocean water.  
18. ASTM D 6304-04. Standard test method for  
determination of water in petroleum products, lubricating  
oils, and additives by coulometric karl fischer titration.  
5. Đào Trọng Hiền, Ngô Quốc Bưu, Huỳnh Thị Hà,  
Nguyễn Hoài Châu. Nghiên cứu điều chế vật liệu dialdehyt  
xenlulo bằng phương pháp oxy hóa periodat và các tính chất  
cơ lí của nó. Tạp chí Khoa học và Công nghệ. 2011; 49(1):  
p. 63 - 72.  
19. Dieter Klemm, Brigitte Heublein, Hans-Peter  
Fink, Andreas Bohn. Cellulose: fascinating biopolymer  
and sustainable raw material. Angewandle Chemie  
International Edition. 2005; 44(22): p. 3358 - 3393.  
6. Nguyễn Châu Giang. Nghiên cứu chế tạo vi sợi  
xenlulo từ cây luồng và ứng dụng trong vật liệu composit.  
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật hóa học. Trường Đại học Bách  
khoa Hà Nội. 2012.  
20. Yasuhiro Takahashi, Hideki Matsunaga. Crystal  
structure of native cellulose. Macromolecules. 1991; 24(13):  
p. 3968 - 3969.  
7. Zhanying Li, Lin Shao, Wenbin Hu, Tingting Zheng,  
Lingbin Lu, Yang Cao, Yongjun Chen. Excellent reusable  
chitosan/cellulose aerogel as an oil and organic solvent  
absorbent. Carbohydrate Polymers. 2018; 191: p. 183 - 190.  
21. Noriko Hayashi, Junji Sugiyama, Takeshi Okano,  
Mitsuro Ishihara. Selective degradation of the cellulose Iα  
component in Cladophora cellulose with Trichoderma viride  
cellulase. Carbohydrate Research. 1998; 305(1): p. 109 -  
116.  
8. Runjun Lin, Ang Li, Tingting Zheng, Lingbin Lu,  
Yang Cao. Hydrophobic and flexible cellulose aerogel as  
an efficient, green and reusable oil sorbent. RSC Advances.  
2015; 5: p. 82027 - 82033.  
22. Haiping Yang, Rong Yan, Hanping Chen, Dong  
Ho Lee, Chuguang Zheng. Characteristics of hemicellulose,  
cellulose and lignin pyrolysis. Fuel. 2007; 86(12-13): p. 1781  
- 1788.  
9. Son T.Nguyen, Jingduo Feng, Nhat T.Le, Ai T.T.Le,  
Nguyen Hoang, Vincent B.C.Tan, Hai M.Duong. Cellulose  
aerogel from paper waste for crude oil spill cleaning.  
Industrial & Engineering Chemistry Research. 2013; 52(51):  
p. 18386 - 18391.  
23. Eduardo Robles, Iñaki Urruzola, Jalel Labidi, Luis  
Serrano. Surface-modified nano-cellulose as reinforcement  
in poly (lactic acid) to conform new composites. Industrial  
Crops and Products. 2015; 71: p. 44 - 53.  
10. Hoàng Thị Phương. Nghiên cứu tổng hợp và biến  
tính vật liệu nanosilica ứng dụng cho quá trình thu hồi dầu.  
Luận án Tiến sĩ Kỹ thuật hóa học. Đại học Bách khoa Hà  
Nội. 2018.  
24. Weixia Qing, Yong Wang, Youyou Wang, Dongbao  
Zhao, XiuhuaLiu, JinhuaZhua. Themodifiednanocrystalline  
cellulose for hydrophobic drug delivery. Applied Surface  
Science. 2016; 366: p. 404 - 409.  
11. EN ISO 13906 (AOAC 973.18). Analysis of acid  
detergent fibre (ADF) and lignin (ADL) in feed.  
25. Jingquan Han, Chengjun Zhou, Yiqiang Wu,  
Fangyang Liu, Qinglin Wu. Self-Assembling behavior  
of cellulose nanoparticles during freeze drying: Effect of  
suspension concentration, particle size, crystal structure, and  
surface charge. Biomacromolecules. 2013; 14(5): p. 1529 -  
1540.  
12. EN ISO 16472 (AOAC 2002.04). Analysis of neutral  
detergent fiber (NDF) in feed.  
13. A.Sluiter, B.Hames, R.Ruiz, C.Scarlata, J.Sluiter,  
D.Templeton. Determination of ash in biomass: Laboratory  
analytical procedure (LAP). Technical Report National  
Renewable Energy Laboratory/TP-510-42622. 2008.  
26. Hanieh Kargarzadeh, Rasha M. Sheltami, Ishak  
Ahmad, Ibrahim Abdullah, Alain Dufresne. Cellulose  
nanocrystal: A promising toughening agent for unsaturated  
polyester nanocomposite. Polymer. 2015; 56: p. 346 - 357.  
14. Test Method T222 om-02 (R2011). Acid-insoluble  
lignin in wood and pulp. Technical Association of the Pulp  
and Paper Industry. 2011.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
60  
PETROVIETNAM  
27. Hanieh Kargarzadeh, Ishak Ahmad, Ibrahim  
Abdullah, Alain Dufresne, Siti Yasmine Zainudin, Rasha  
M.Sheltami. Effects of hydrolysis conditions on the  
morphology, crystallinity, and thermal stability of cellulose  
nanocrystals extracted from kenaf bast fibers. Cellulose.  
2012; 19(3): p. 855 - 866.  
nanocrystals with natural antimicrobial rosin mixture using  
a green process. Carbohydrate Polymers. 2016; 137: p. 1 - 8.  
30. Daniel Loof, Matthias Hiller, Hartmut Oschkinat,  
Katharina Koschek. Quantitative and qualitative analysis of  
surface modified cellulose utilizing TGA-MS. Materials. 2016;  
9(6).  
28. Rosica Mincheva, Latifah Jasmani, Thomas Josse,  
Yoann Paint, Jena-Marie Raquez, Pascal Gerbaux, Samuel  
Eyley, Wim Thielemans, Philippe Dubois. Binary mixed  
homopolymer brushes tethered to cellulose nanocrystals:  
31. Juan Rubio, Maria Alejandra Mazo, Araceli Mártin-  
Ilana, Aitana Tamayo. FT-IR study of the hydrolysis and  
condensation of 3-(2-amino-ethylamino)propyl-trimethoxy  
silane. Boletín de la Sociedad Española de Cerámica y  
Vidrio. 2018; (57): p. 160 - 168.  
a
step towards compatibilized polyester blends.  
Biomacromolecules. 2016; 17(9): p. 3048 - 3059.  
29. Daniele Oliveira Castro, Julien Bras, Alessandro  
Gandini, Naceur Belgacem. Surface grafting of cellulose  
SYNTHESIS AND CHARACTERISATION OF ULTRA-POROUS MATERIAL  
FOR OIL SPILL TREATMENT BASED ON NATURAL CELLULOSE  
EXTRACTED FROM OFFICE PAPER WASTES  
Vo Nguyen Xuan Phuong, Luong Ngoc Thuy, Le Phuc Nguyen, Nguyen Huu Luong  
Vietnam Petroleum Institute  
Email: phuongvnx.pvpro@vpi.pvn.vn  
Summary  
Aero-cellulose with porosity over 90% and absolute buoyancy was successfully produced from the highly pure cellulose fibres  
extracted from office paper wastes. Solvent recycling method was applied to reduce the time and increase the technical and economic  
efficiency of hydrophobisation of the as-produced hydrophilic aero-cellulose product.The obtained material exhibits super hydrophobicity  
in various oil-water mixtures. Every gram of the aero-cellulose material obtained from 3 hours of ETMS modification could restore up to  
30 - 45 grams of water-free oil and could be re-used.  
Key words: Aerogel, natural cellulose, oil spill treatment, solvent recycling.  
DẦU KHÍ - SỐ 3/2019  
61  
pdf 10 trang yennguyen 16/04/2022 4560
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tổng hợp và đánh giá vật liệu siêu xốp ứng dụng xử lý dầu tràn dựa trên Cellulose tự nhiên trích ly từ giấy in thải", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_tong_hop_va_danh_gia_vat_lieu_sieu_xop_ung_dung_x.pdf