Nghiên cứu nồng độ Osteopontin huyết tương ở bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não không do nguyên nhân từ tim trong 7 ngày đầu
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
NGHIÊN CỨU NỒNG ĐỘ OSTEOPONTIN HUYẾT TƯƠNG
Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NHỒI MÁU NÃO
KHÔNG DO NGUYÊN NHÂN TỪ TIM TRONG 7 NGÀY ĐẦU
Nguyễn Văn Quốc1, Dương Văn Duy1
Nguyễn Trung Kiên1, Trương Xuân Dương1
Nguyễn Quang Huy1, Nguyễn Thái Sơn1, Đặng Phúc Đức2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ sOPN (serum osteopontin) ở bệnh nhân (BN) đột quỵ nhồi máu
não (ĐQNMN) không do nguyên nhân từ tim trong 7 ngày đầu. Đối tượng và phương pháp:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 159 BN ĐQNMN không do nguyên nhân từ tim được điều trị
tại Khoa Đột quỵ, Bệnh viện Quân y 103 từ 6/2020 - 01/2021, thời gian nhập viện < 7 ngày tính
từ khi khởi phát và 49 người khỏe mạnh là nhóm chứng. Kết quả: Nồng độ sOPN trung bình
của nhóm BN ĐQNMN là 63,34 32,07 ng/ml cao hơn so v ới nhóm chứng là 44,45 22,75
ng/ml (p < 0,001). Phân tích hồi quy logistic cho thấy có mối tương quan giữa nồng độ sOPN
với xác suất dự báo BN ĐQNMN (p < 0,001), tỷ lệ dự báo đúng là 79,3%. BN ĐQNMN có nồng
độ sOPN 39,24 ng/ml cao gấp 4,5 (2,3 - 8,9) lần so v ới nhóm chứng. Ở BN ĐQNMN, giá trị
trung bình nồng độ sOPN ở nhóm có mức độ lâm sàng nhẹ (NIHSS < 5) lúc nhập viện, mức độ
hồi phục tốt khi ra viện (mRS ≤ 2) và ổ tổn thương trên CT, MRI nhỏ (ASPECT > 7) thấp hơn ở
nhóm mức độ lâm sàng trung bình và nặng (NIHSS ≥ 5), mức độ hồi phục xấu khi ra viện (mRS
> 2) và ổ tổn thương lớn (ASPECT ≤ 7) có ý nghĩa thống kê với giá trị p = 0,033, 0,001 và <
0,001. Tuy nhiên, khi phân tích logistic thì nồng độ sOPN chỉ có giá trị dự báo đối với mức độ
hồi phục khi ra viện theo thang điểm mRS và mức độ tổn thương trên CT, MRI theo thang điểm
ASPECT với giá trị p lần lượt là 0,008 và < 0,001, tỷ lệ dự báo đúng là 70,4% và 73,0%, tỷ suất
chênh lần lượt là 1,014 (1,004 - 1,025) và 1,025 (1,013 - 1,037). Kết luận: Nồng độ sOPN của
BN ĐQNMN cao hơn nhóm chứng. Ở BN ĐQNMN nồng độ sOPN ở BN có đ iểm NIHSS ≥ 5,
mRS > 2 và ASPECT ≤ 7 cao hơn.
* Từ khóa: Đột quỵ nhồi máu não; Osteopontin.
A Study of Serum Osteopontin concentration in Patients with a
Non-Cardiac Ischemic Stroke in the First 7 Days
Summary
Objectives: To investigate sOPN concentration in patients with non-cardiogenic ischemic
stroke during the first 7 days. Subjects and methods: A cross-sectional descriptive study
on 159 non-cardiac ischemic stroke patients were treated at the Stroke Department,
Military Hospital 103 from June 2020 to January 2021, hospitalization time was less than
1Học viện Quân y
2Bệnh viện Quân y 103, Học viện Quân y
Người phản hồi: Nguyễn Văn Quốc (bs.vanquoc@gmail.com)
Ngày nhận bài: 22/3/2021
Ngày bài báo được đăng: 24/5/2021
89
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
7 days since onset, and 49 control groups were healthy individuals. Results: The average
sOPN concentration of the ischemic stroke patient group was 63.34 32.07 ng/mL, which was
higher than that of the control group at 44.45 22.75 ng/mL (p < 0.001); logistic regression
analysis showed that there was a logistic correlation between the sOPN concentration and the
probability of predicting the patient ischemic stroke with p < 0.001, the correct prediction rate
was 79.3%. The sOPN concentration of ischemic stroke patients was 39.24 ng/mL, which was
4.5 (2.3 - 8.9) times higher than those in the control group. In ischemic stroke patients, the
average sOPN concentration of patients with mild clinical picture (NIHSS < 5) at admission,
good outcomes at discharge (mRS ≤ 2), and small lesions on CT scan, MRI (ASPECT > 7) was
lower than those with moderate and severe clinical degree (NIHSS ≥ 5), poor outcome
discharge (mRS > 2), and large lesions (ASPECT ≤ 7), which had significance with p = 0.033,
0.001 and < 0.001. However, when using logistic analysis, the sOPN concentration only had
predictive value for the degree of the outcome at discharge according to the mRS scale and the
level of injury on CT scan, MRI according to the ASPECT scale with p-value respectively 0.008
and < 0.001, the correct prediction rate was 70.4% and 73.0%, the odds ratio was 1.014 (1.004 -
1.025) and 1.025 (1.013 - 1.037). Conclusion: The sOPN concentration of ischemic stroke
patients was higher than that of the control group who was healthy. Ischemic stroke patients
with NIHSS ≥ 5, mRS > 2, and ASPECT ≤ 7 had higher sOPN concentration.
* Keywords: Ischemic stroke; Osteopontin.
ĐẶT VẤN ĐỀ
trong quá trình sửa chữa hoại tử của tế
bào hình sao và sự phục hồi những tế
bào thần kinh [3].
Đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu dẫn
đến tàn tật và t ử vong trên toàn thế giới.
Cho đến nay, ĐQNMN là phổ biến nhất,
OPN là một protein chất nền ngoại bào,
chiếm 85% trong tất cả các cơn đột quỵ, hoạt động như một chất ức chế mạnh mẽ
trong đó do chảy máu não chiếm 15% [1]. quá trình khoáng hóa mô mềm và do đó,
Khi xảy ra ĐQNMN, ổ tổn thương sẽ tạo nó có thể ngăn chặn vôi hóa lạc chỗ của
nên 3 vùng: vùng lõi hay trung tâm là ổ hệ m ạch ở in vivo. OPN c ũng là một
nhồi máu (infarction), vùng nửa tối nửa cytokine hòa tan liên quan đến viêm và tái
sáng (penumbra) và vùng xung quanh tạo mô. Trong các phản ứng viêm c ấp
(surrounding). Tại vùng lõi, các tế bào tính và mạn tính, OPN xuất hiện cao ở cả
chết theo 3 cách: Theo chương trình đại thực bào và tế bào lympho CD4+ và
(apoptosis), hoại tử (necrosis) và thực đóng vai trò chức năng trong phản ứng
bào (autophagy). Sau đó các tế bào thần Th1 sớm. Do t ất cả các đặc tính này,
kinh đệm bắt đầu một phản ứng chữa OPN được cho là làm trầm trọng thêm
lành vết thương. Quá trình này liên quan tình trạng viêm trong một số bệnh mạn tính,
đến sự biến đổi của tế bào hình sao bao gồm cả xơ vữa động mạch. Thực tế,
(astrocytes) và tiểu thần kinh đệm OPN đã được quan sát thấy trong các t ế
(microglia) không hoạt động sang trạng bào cơ trơn trong các tổn thương xơ vữa
thái kích hoạt của chúng trong vùng động mạch của con người, cũng như
penumbra và surrounding [2]. Các nghiên trong các tế bào nội mô mạch máu và đại
cứu gần đây chứng minh OPN có vai trò
thực bào. Gần đây, mức độ OPN m ảng
90
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
bám động mạch cảnh đã được tìm thấy là
một yếu tố d ự báo cho các bệnh lý tim
mạch ở người nói chung và ĐQNMN nói
riêng [3, 4]. Do đó chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này nhằm: Khảo sát nồng độ
sOPN ở BN ĐQNMN không do nguyên
nhân từ tim trong 7 ngày đầu.
2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Mô t ả c ắt
ngang, so sánh giữa 2 nhóm nghiên cứu.
* Cỡ mẫu nghiên cứu: 159 BN ĐQNMN
và nhóm chứng 49 người khỏe mạnh có
tuổi và giới tương đương với nhóm bệnh.
- Khám lâm sàng tại thời điểm BN vào
viện đánh giá các yếu tố nguy cơ, đánh
giá ý th ức bằng thang điểm GCS, đánh
giá mức độ lâm sàng bằng thang điểm
NIHSS. Thời điểm BN ra vi ện đánh giá
mức độ hồi phục bằng thang điểm mRS.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
159 BN ĐQNMN không do nguyên
nhân từ tim được điều trị t ại Khoa Đột
quỵ, Bệnh viện Quân y 103 từ 6/2020 -
01/2021.
- Hình ảnh học: Đánh giá đặc điểm tổn
thương nhu mô não sớm bằng thang
điểm ASPECTS trên phim CT và/hoặc
MRI sọ não.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
Tiêu chuẩn chẩn đoán đột qụy dựa
vào định nghĩa của WHO (1970), có đầy
đủ 4 tiêu chuẩn: Bệnh xảy ra đột ngột, có
tổn thương chức năng của não, triệu
chứng tồn tại > 24 giờ hoặc tử vong,
không do nguyên nhân nào khác ngoài
nguyên nhân mạch máu. Tiêu chuẩn chẩn
đoán cận lâm sàng ĐQNMN, tất cả các
BN được chụp CT và/hoặc MRI để loại
trừ chảy máu não và chẩn đoán xác định
ĐQNMN. Tiêu chuẩn về thời gian: BN
được lấy mẫu bệnh phẩm sOPN < 7 ngày
tính từ khi khởi phát.
- Xét nghiệm OPN bằng máy ELISA
Model Multiskan FC (hãng Thermo
Scientific/Thermo Fisher Sicetific, Seri No
357-910681T) tại Khoa Y h
ọc Quân
binh chủng, Học viện Quân y với kít xét
nghiệm là R&D systems, Minneapolis, MN.
3. Xử lý số liệu
Đối với các biến định tính, tính tần số
và tỷ lệ phần trăm. Đối với các biến định
lượng, tính giá trị trung bình (mean), độ
lệch chuẩn (SD). Kiểm định so sánh giữa
các tỷ lệ bằng test Chi bình phương (χ2),
so sánh 2 giá trị trung bình giữa các
biến độc lập bằng test phi tham số
Mann-Whitney. Xây dựng đường cong
ROC để tính AUC, điểm cut-off, Se và Sp.
Phân tích hồi quy logistic để xác định xác
suất dự báo và tỷ lệ dự báo đúng. Giá trị
Tiêu chuẩn chọn nhóm chứng: Những
người được thăm khám xác định là khỏe
mạnh có cùng độ tuổi và gi ới tính v ới
nhóm bệnh.
* Tiêu chuẩn loại trừ: BN b ệnh lý tim
mạch, các bệnh lý rối loạn đông chảy
máu, mắc các bệnh ác tính, tiền sử bị đột
quỵ não hoặc các bệnh thần kinh trung
ương khác và những BN không đồng ý p < 0,05 được coi có ý ngh ĩa thống kê.
tham gia nghiên cứu.
Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 22.0.
91
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Kết quả nghiên cứu về tuổi, giới của 159 BN ĐQNMN so với 49 người nhóm chứng.
Tuổi trung bình của nhóm bệnh là 66,04 12,849, nhóm chứng là 64,94 12,522;
không có sự khác biệt về tuổi giữa hai nhóm nghiên cứu (p = 0,530). Nhóm bệnh nam
giới chiếm 64,8%, nữ chiếm 35,2%, nhóm chứng nam chiếm 61,2%, tỷ lệ giới tính giữa
2 nhóm nghiên cứu là như nhau với p = 0,734.
1. Đặc điểm của bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não
Bảng 1: Đặc điểm đột quỵ nhồi máu não.
Đặc điểm
Tuổi ≥ 70
Số lượng (n)
Tỷ lệ (%)
39,6
64,8
51,6
11,9
26,4
15,7
29,6
34,0
74,2
25,8
39,6
60,4
72,3
27,7
71,7
28,3
63
103
82
Nam giới
Tăng huyết áp
Đái tháo đường
Rối loạn lipid
Béo phì
19
Các yếu tố nguy cơ
42
25
Hút thuốc lá
Uống rượu bia
47
54
15
118
41
GCS
< 15
< 5
63
NIHSS
mRS
≥ 15
≤ 2
96
Các thang điểm
115
44
> 2
> 7
114
45
ASPECT
≤ 7
Tuổi BN ĐQNMN: < 45 tuổi (7,5%), < 70 tuổi (60,4%); tỷ lệ nam/nữ là 1,84/1.
Trong các yếu tố nguy cơ, tăng huyết áp thường gặp nhất (51,6%).
Lúc nhập viện giá trị trung bình của các thang điểm: GCS là 14,41 1,308 điểm,
NIHSS là 7,47 5,797 điểm và ASPECT là 8,05 1,395 điểm. Lúc ra viện, giá trị trung
bình của thang điểm mRS là 2,19 1,338 điểm.
2. Nồng độ sOPN giữa 2 nhóm nghiên cứu
Nồng độ sOPN trung bình của nhóm BN ĐQNMN là 63,34 32,07 ng/ml, của nhóm
chứng là 44,45 22,75 ng/ml (p < 0,001).
92
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
Biểu đồ 1: Phân bố nồng độ sOPN giữa 2 nhóm nghiên cứu.
Phân tích hồi quy logistic cho thấy có mối tương quan giữa nồng độ sOPN với xác
suất dự báo BN ĐQNMN có ý nghĩa thống kê (p < 0,001), tỷ lệ dự báo đúng là 79,3%.
Tỷ suất chênh giữa BN ĐQNMN so với nhóm chứng khi nồng độ sOPN t ăng lên 1
ng/ml là OR = 1,031; 95%CI: 1,014 - 1,049.
Biểu đồ 2: Đường cong ROC của sOPN giữa 2 nhóm nghiên cứu.
Dựa vào biểu đồ ROC của nồng độ sOPN gi ữa 2 nhóm nghiên cứu xác định
AUC = 66,7% (p < 0,001). V
ới điểm MaxJ = 0,329, xác định được điểm cut-off
của nồng độ sOPN là 39,24 ng/ml, tại đây Se = 79,9%, Sp = 53,1%. Từ điểm cut-off,
93
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
tính được tỷ suất chênh của nồng độ sOPN giữa 2 nhóm nghiên cứu là OR (95%CI)
= 4,5 (2,3 - 8,9) (p < 0,001); nhưvậy ở nhóm BN ĐQNMN có nồng độ sOPN 39,24 ng/ml
cao gấp 4,5 lần so với nhóm chứng.
3. Mối liên quan giữa nồng độ sOPN với thời gian lấy mẫu
Biểu đồ 3: Phân bố nồng độ sOPN theo thời gian lấy mẫu.
Phân tích Anova nhận thấy không có mối liên quan giữa nồng độ sOPN v ới thời
gian lấy mẫu (p > 0,05). Tiến hành chia 2 nhóm: Nhóm lấy mẫu từ ngày thứ 1 - 5 và
nhóm lấy mẫu từ ngày thứ 6 - 7. Kết quả giá trị trung bình nồng độ sOPN ở nhóm 1 - 5 ngày
là 61,74 32,05 ng/ml,ở nhóm 6 - 7 ngày là 70,51 32,54 ng/ml, giá tịrp = 0,094 không có
ý nghĩa thống kê.
4. Mối liên quan giữa nồng độ sOPN với đặc điểm đột quỵ nhồi máu não
Bảng 2: Mối liên quan giữa sOPN với đặc điểm ĐQNMN.
Nồng độ sOPN
Đặc điểm
p
n
SD
≥ 70
< 70
Nam
Nữ
63
96
68,19 34,64
60,16 30,32
60,37 28,14
68,80 38,33
65,01 35,48
61,56 28,50
Tuổi
0,062
0,320
0,793
103
56
Giới
Có
82
Tăng huyết áp
Không
77
94
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
Nồng độ sOPN
Đặc điểm
p
n
SD
Có
Không
Có
19
140
42
66,50 34,67
0,970
62,91 32,00
Đái tháo đường
Rối loạn lipid
Béo phì
59,46 26,92
0,551
64,73 33,94
Không
Có
117
25
55,10 35,09
0,020
64,88 31,58
Không
Có
134
47
60,84 27,63
0,709
64,39 34,04
Hút thuốc lá
Uống bia rượu
GCS
Không
Có
112
54
66,83 33,93
0,336
61,83 31,35
Không
15
104
118
41
62,58 32,68
0,493
65,52 31,22
< 15
< 5
63
59,42 33,83
0,033
65,91 31,05
NIHSS
≥ 5
96
≤ 2
115
44
58,98 32,26
0,001
74,73 29,59
mRS
> 2
> 7
114
45
56,06 23,94
< 0,001
81,78 42,12
ASPECT
≤ 7
Như vậy, giá trị trung bình nồng độ sOPN ở nhóm có mức độ lâm sàng nhẹ (NIHSS < 5)
lúc nhập viện, mức độ hồi phục tốt khi ra viện (mRS ≤ 2) và ổ tổn thương trên CT, MRI
nhỏ (ASPECT > 7) thấp hơn ở nhóm mức độ lâm sàng trung bình và nặng
(NIHSS ≥ 5), m ức độ h ồi phục xấu khi ra viện (mRS > 2) và ổ t ổn thương lớn
(ASPECT ≤ 7) (p < 0,05). Ở người béo phì, nồng độ sOPN c ũng thấp hơn người có
cân nặng bình thường.
Tuy nhiên, khi phân tích logistic thì nồng độ sOPN chỉ có giá trị dự báo đối với mức
độ hồi phục khi ra viện theo thang điểm mRS và mức độ tổn thương trên CT, MRI theo
thang điểm ASPECT với giá trị p l ần lượt là 0,008 và < 0,001, tỷ lệ dự báo đúng là
70,4% và 73,0%, tỷ suất chênh lần lượt là 1,014 (1,004 - 1,025) và 1,025 (1,013 - 1,037).
Biểu đồ 4: Đường cong ROC giữa sOPN với các thang điểm đột quỵ.
95
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
Dựa vào đường cong ROC của nồng mô bằng cách thu nạp các tế bào viêm có
độ sOPN v ới thang điểm NIHSS ở BN hại vào vị trí tổn thương và làm tăng khả
ĐQNMN thấy, AUC = 60,0% (p = 0,033). năng sống sót của chúng. Những phát
Với chỉ số MaxJ = 0,259, xác định được hiện gần đây cho thấy OPN không ch ỉ
điểm cut-off của nồng độ sOPN là 49,64 tham gia vào việc thúc đẩy tổn thương
ng/ml, tại đây Se = 65,6%, Sp = 60,3% và mô mà còn trong các cơ chế sửa chữa/tái
nồng độ sOPN ≥ 49,54 ng/ml ở nhóm BN tạo, chủ y ếu được kích hoạt bởi phản
ĐQNMN có mức độ lâm sàng vừa và ứng viêm. Hai vai trò rõ ràng trái ngược
nặng (NIHSS ≥ 5) cao gấp 2,9 (1,5 - 5,6) nhau này một phần liên quan đến sự biểu
lần ở nhóm mức độ lâm sàng nhẹ (NIHSS hiện của các vùng chức năng khác nhau
< 5) (p = 0,002).
trong phân tử OPN [5] .
Biểu đồ 4B biểu diễn đường cong
Ở BN t ổn thương não do ĐQNMN
ROC của nồng độ sOPN theo thang điểm cũng liên quan đến tăng biểu hiện OPN,
mRS cho kết quả AUC = 70,4%, p < được quan sát chủ yếu ở thực bào trung
0,001; với MaxJ = 0,415, xác định được tính và đại thực bào được tìm thấy trong
điểm cut-off của nồng độ sOPN là 50,10 vùng nhồi máu và quanh tổn thương. Sự
ng/ml, Se = 84,1%, Sp = 57,4% và ở biểu hiện của OPN song song với quá
những BN ra vi ện hồi phục tốt (mRS ≤ 2) trình thời gian thâm nhập của đại thực
thì nồng độ sOPN ≥ 50,10 ng/ml cao gấp bào vào vùng nhồi máu và sự biểu hiện
7,1 (2,9 - 17,3) lần so với BN ra viện hồi của CD44 (một thụ thể OPN). Ngoài ra,
phục xấu (mRS > 2) với p < 0,001.
các mẫu biểu hiện tế bào hình sao của
một thụ thể khác đối với OPN, Integrarin
aVb3, song song với quá trình điều hòa
OPN theo thời gian trong ĐQNMN. Ellison
và CS khẳng định OPN là một chất hóa trị
có tác dụng thu nhận các t ế bào vi mô,
đại thực bào và tế bào hình sao để hỗ trợ
hình thành sẹo thần kinh đệm sau tổn
thương do ĐQNMN [6] .
So với thang điểm ASPECT, đường
cong ROC của nồng độ sOPN (biểu đồ
4C) cho kết quả AUC = 71,1 (p < 0,001);
với MaxJ = 0,375 xác định được điểm
cut-off của nồng độ sOPN là 49,64 ng/ml,
Se = 82,2%, Sp = 55,3% và ở những BN
có tổn thương trên phim CT, MRI s ọ não
mức độ nhỏ (ASPECT > 7) thì nồng độ
sOPN ≥ 49,64 ng/ml cao gấp 5,7 (2,4 -
So sánh giá trị trung bình nồng độ
13,4) lần so v ới BN mức độ tổn thương sOPN giữa 2 nhóm nghiên cứu cho thấy
lớn (ASPECT ≤ 7) (p < 0,001).
nhóm BN ĐQNMN có nồng độ trung bình
cao hơn nhóm chứng. Phân tích hồi quy
logistic cũng cho kết quả t ương tự có ý
nghĩa thống kê. Nghiên cứu của Jing và
CS (2013) ở 377 BN ĐQNMN cấp trong
vòng 24 giờ đầu và 551 người thuộc
nhóm chứng, tiến hành đo nồng độ huyết
thanh của OPN toàn chuỗi (full length
OPN) và OPN phân cắt thrombin
BÀN LUẬN
OPN là một loại protein thể dịch, biểu
hiện nhiều chức năng và ngày càng thu
hút sự chú ý vì vai trò của nó trong sinh lý
bệnh của một số bệnh viêm, thoái hóa, tự
miễn dịch và ung thư. Một số nghiên cứu
đã chỉ ra OPN góp phần làm tổn thương
96
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
(thrombin-cleaved OPN) ở 2 nhóm ELISA chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê giữa giá trị trung bình
nồng độ sOPN gi ữa các ngày lấy bệnh
phẩm, mặc dù ghi nhận ở ngày thứ 6
nồng độ sOPN cao h ơn so v ới các ngày
trước đó. Có sự khác biệt này là do
nghiên cứu của Carbone là nghiên cứu
theo dõi dọc, các mẫu bệnh phẩm được
thu thập ở các thời điểm khác nhau trên
cùng 1 BN, còn nghiên cứu của chúng tôi
là nghiên cứu cắt ngang, mỗi BN chỉ lấy
mẫu bệnh phẩm 1 l ần, hơn nữa cỡ mẫu
cũng là một hạn chế khi chia ra so sánh
trong 7 ngày.
với kít Calbiochem cho kết quả không có
sự khác biệt về giá trị trung bình nồng độ
OPN toàn chuỗi giữa 2 nhóm (78,9 12,5
ng/ml với 75,7 12,7 ng/ml, p = 0,745),
tuy nhiên trung bình nồng độ thrombin-
cleaved OPN ở nhóm ĐQTMT cao hơn
so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê
(176,7
54,1 ng/ml với 135,2
67,8
ng/ml, p = 0.003) [7] Augello và CS
(2018) tiến hành đo nồng độ sOPN b ằng
kỹ thuật Luminex MagPix ở 24 BN
ĐQNMN (thời gian lấy máu ngoại vi là
22,9 4,5 giờ tính từ lúc khởi phát) và
nhóm chứng là 26 người khỏe mạnh, kết
quả cho thấy nồng độ sOPN ở BN
ĐQNMN cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa
thống kê v ới p = 0,02 (69,31 (27,68 -
108,27) pg/ml so với 43,16 (20,37 -
58,67) pg/ml). Phân tích đường cong
ROC tại điểm cut-off nồng độ sOPN là
75,99 pg/ml cho AUC = 69,07%, Se =
50%, Sp = 96,15% [8]. Như v ậy, giá trị
trung bình nồng độ sOPN ở nghiên cứu
của chúng tôi so với các tác giả trên là
khác nhau, có sự khác biệt này là do kỹ
thuật đo và b ộ kít xét nghi ệm cũng như
đối tượng nghiên cứu khác nhau. Tuy
nhiên, nghiên cứu của chúng tôi cho kết
quả tương tự nghiên cứu của các tác giả
trên ở nhóm BN ĐQNMN có nồng độ
sOPN cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng là những người khỏe mạnh.
Nghiên cứu của Mendioroz và CS
(2011) tiến hành đo nồng độ sOPN ở 178
BN bị tắc động mạch não giữa nhập viện
trong vòng 3 giờ đầu sau khởi phát, thời
điểm lấy máu trước khi điều trị rtPA và so
sánh nhóm chứng là 40 người khỏe
mạnh. Kết quả, mức OPN ở BN đột quỵ
không khác với mức OPN của nhóm
chứng (16,65 ng/ml so với 17,83 ng/ml,
p = 0,404). Tuy nhiên, mức OPN đã tăng
lên ở những BN có tiên l ượng xấu hơn
sau 3 tháng (19,96 ng/ml so với 15,48
ng/ml, p = 0,040). Trong mô hình hồi quy
logistic, mức OPN > 27,22 ng/ml được
tìm thấy là một yếu tố độc lập cho kết quả
xấu (OR = 5,01; 95%CI: 1,60 - 15,72,
p = 0,006) sau khi điều chỉnh các yếu tố
gây nhiễu tiềm năng. BN có mức OPN
cao hơn trước khi dùng rtPA cho thấy tiên
lượng xấu hơn so với BN có mức OPN
thấp hơn [4]. Nghiên cứu của Carbone và
CS (2015) cho thấy có m ối tương quan
thuận giữa nồng độ sOPN ở ngày thứ 7
với thể tích ổ tổn thương trên CT tại thời
điểm ngày thứ 7 và ngày thứ 90 với p lần
lượt là 0,008 và 0,020 [9].
Nghiên cứu của Carbone và CS (2015)
theo dõi 90 BN ĐQNMN lần đầu, lấy máu
xét nghiệm tại thời điểm nhập viện và
ngày thứ 1, 7 và 90 kể từ khi kh ởi phát.
Kết quả cho thấy nồng độ OPN tăng
cao ở ngày th ứ 7 có ý ngh ĩa thống kê
(p < 0,001) [9]. Tuy nhiên, nghiên cứu của
97
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 5-2021
2. Grotta JC, et al. Stroke: Pathophysiology,
diagnosis, and management. Elsevier. Philadelphia.
PA 2016.
KẾT LUẬN
Giá trị trung bình nồng độ sOPN ở BN
ĐQNMN cao hơn ở người khỏe mạnh
(63,34 32,07 ng/ml so với 44,45 22,75
ng/ml) với p < 0,001. Phân tích hồi quy
logistic cho kết quả nồng độ sOPN có giá
trị dự báo ở BN ĐQNMN với p < 0,001, tỷ
lệ dự báo đúng 79,3%.
3. Lok Zoe Shin Yee and Lyle Alicia N.
Osteopontin in vascular disease. Arteriosclerosis,
Thrombosis, and Vascular Biology 2019;
39(4):613-622.
4. Mendioroz M, Fernández-Cadenas I,
Rosell A, et al. Osteopontin predicts long-term
Giá trị trung bình nồng độ sOPN ở functional outcome among ischemic stroke
patients. J Neurol 2011; 258(3):486-493.
nhóm lúc nhập viện cao có mức độ lâm
sàng nặng NIHSS ≥ 5 cao hơn lâm sàng
nhẹ NIHSS < 5 (65,91 31,05 ng/ml so
với 59,42 33,83 ng/ml) với p = 0,033;
khi ra viện mức độ hồi phục xấu mRS > 2
cao hơn hồi phục tốt mRS ≤ 2 (74,73
29,59 ng/ml so với 58,98 32,26 ng/ml)
với p = 0,001 và ổ t ổn thương trên CT,
MRI lớn ASPEC ≤ 7 cao hơn tổn thương
nhỏ ASPECT > 7 (81,78 42,12 ng/ml so
với 56,06 23,94 ng/ml) với p < 0,001.
Tuy nhiên, khi phân tích logistic thấy nồng
độ sOPN chỉ có giá trị d ự báo đối với
thang điểm mRS và ASPECT với lần lượt
p = 0,008 và < 0,001, tỷ lệ dự báo đúng
70,4% và 73,0%.
5. Cappellano G, Vecchio D, Magistrelli L,
et al. The Yin-Yang of osteopontin in nervous
system diseases: Damage versus repair. Neural
Regen Res 2021; 16(6):1131-1137.
6. Ellison JA, Barone FC, and Feuerstein
GZ. Matrix remodeling after stroke. De novo
expression of matrix proteins and integrin
receptors. Ann N Y Acad Sci 1999; 890:204-222.
7. Jing M, Li B, Hou X, et al. OPN gene
polymorphism and the serum OPN levels
confer the susceptibility and prognosis of
ischemic stroke in Chinese patients. Cell
Physiol Biochem 2013; 32(6):1798-1807.
8. Augello CJ, Noll JM, Distel TJ, et al.
Identification of novel blood biomarker panels
to detect ischemic stroke in patients and their
responsiveness to therapeutic intervention.
Brain Res 2018; 1698:161-169.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lindsay MP, Norrving B, Sacco RL, et
al. World Stroke Organization (WSO): Global
stroke fact sheet 2019. Int J Stroke 2019;
14(8):806-817.
9. Carbone F, Vuilleumier N, Burger F, et al.
Serum osteopontin levels are upregulated and
predict disability after an ischaemic stroke.
Eur J Clin Invest 2015; 45(6):579-586.
98
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu nồng độ Osteopontin huyết tương ở bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não không do nguyên nhân từ tim trong 7 ngày đầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_nong_do_osteopontin_huyet_tuong_o_benh_nhan_dot_q.pdf