Nghệ thuật và kỹ xảo trong đàm phán

Nghệ thuật và kỹ xảo trong đàm phán  
Nghệ thuật và kỹ xảo trong đàm phán  
một người đàm phán có kinh nghiệm, trước hết nên biết làm thế nào để mở đầu  
một cuộc đàm phán. Điều này rất quan trọng đối với đôi bên tham gia. Lời mở đầu  
chính là thông tin đầu tiên của người đàm phán, giống như tiếng trống mở đầu cho  
một cuộc chơi, ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý, thái độ của đối phương. Lời mở  
đầu thành công sxoá đi những nghi nggiữa hai bên đàm phán cũng như làm dịu  
bớt không khí căng thẳng, cuộc thảo luận nhờ đó được tiến hành thuận lợi hơn.  
Phương thức biểu đạt lời mở đầu chyếu bao gồm:  
1, Phương thức vòng quanh: Thông thường khi mở đầu một cuộc đàm phán  
không nên đề cập tới vấn đề chính trước tiên, điều này dgây cho người đàm phán  
rơi vào thế gươm tuốt vỏ, nỏ giương dây ”, gây ảnh hưởng tới không khí hoà  
thuận giữa đôi bên. Khi đàm phán có thvận dụng phương thức quay vòng, ví dụ  
như hàn huyên hỏi chuyện tình hình liên quan đến công ty đối phương. Những chủ  
đề nói chuyện được coi là phbiến nhất là những vấn đề liên quan đến khí hậu,  
thời tiết hay thăm hỏi tình hình gia đình đối phương, ngoài ra còn nhiều đề tài khác  
như bàn luận vmột bức honào đó hay một sviệc trong cuộc sống. Mặt khác có  
thbàn luận vtình hình kinh doanh, kinh tế của đối phương. Thông qua các hình  
thức trò chuyện như trên có thtiến hành bàn bạc một cách thuận lợi những đề tài  
đàm  
phán  
chính  
thức.  
2, Phương thức trực tiếp: Phương thức trực tiếp hay còn gọi là bàn luận đi thẳng  
vào vấn đề, trực tiếp biểu đạt suy nghĩ của mình. Để đối phương lắng nghe ý kiến.  
Phương thức trực tiếp phương thức hai bên đối tác tiến hành đàm phán dưới hình  
thức quan hệ đàm phán thân mật dưới một thời gian gấp rút, nhanh chóng, phương  
thức này được bắt đầu tnhững vấn đề nhnhất, cũng có thể được tiến hành từ  
những vấn đề mang tính nguyên tắc, hay một vấn đề cthnào đó. Ví dụ như: “  
Ông X, bây gitrời đã sang xuân, theo tôi được biết, công ty ông vừa sản xuất một  
kiểu dáng điều hoà mới, việc tiêu thụ điều hoà vào thời điểm này là hoàn toàn hợp  
lý  
”.  
Khi biểu đạt lời mở đầu cần lưu ý khi hỏi han đối phương nên có thái độ chân  
thành, nhiệt tình, hữu nghị. Điều này có thmau chóng thu nhkhoảng cách giữa  
hai bên, và xây dựng được bầu không khí tốt đẹp. Nếu vừa bắt đầu cuộc đàm phán  
kèm theo ánh mắt lạnh lùng, sđiều bất lợi cho cuộc đàm phán, vì mỗi người  
chúng ta khi tiến hành đàm phán đều có tâm lý stchối. Bất luận chúng ta có  
chuẩn btốt một dũng khí ttin những trên thực chất luôn có tâm lý skhó khăn  
hay rắc rối xảy ra. Giống như những người đi leo núi hay đi trên đường cũng vậy,  
hluôn muốn đi trên một con đường thẳng, chkhông muốn đi trên một con  
đường  
đầy  
rẫy  
nguy  
hiểm,  
gập  
gềnh,  
mấp  
mô.  
Đàm phán là quá trình cân đo “ giá trị đàm phán ”, còn là biểu hiện một tinh thần  
hợp tác, dựa trên shai bên cùng có lợi, thông qua nlực đàm phán nhằm mục  
đích đạt được thothuận chung thống nhất. Một người đàm phán giỏi không tháp  
dụng cách thức đàm phán mạnh mẽ, cứng nhắc để đạt được mục đích của mình. Vì  
vậy trong quá trình tiến hành đàm phán, chúng ta phải nắm bắt tốt kĩ xảo đàm  
phán, các kĩ xảo chyếu là: kĩ xảo trình bày, giải thích, kĩ xảo đưa ra câu hỏi hay  
kĩ xảo trlời, phá vbế tắc, hay thuyết phục đối tác v.v…  
Trước tiên thái độ đàm phán cần đối đãi chân tình. Khiêm tốn, thành khẩn, thân  
mật, tôn trọng tuy nhiên đó cũng chưa phải điều kiện bắt buộc trong ngôn ngữ  
đàm phán, trong đàm phán nên có thái độ chân tình, không chnhằm nói chuyện  
một cách chân thành với đối phương điều này rất thích hợp khi bạn muốn đối  
phương hiểu rõ những động và suy nghĩ của mình, làm tốt việc đối đãi chân tình  
còn cần gichừng mực một cách thích hợp, tránh việc bộc ltất csuy nghĩ, dbị  
đẩy vào thế bị động, còn khiến cho lợi ích của bản thân bị ảnh hưởng.  
Tiếp theo đó là nội dung trình bày phải rõ ràng, đơn giản dhiểu. Trong đàm phán  
cần có lời lrõ ràng không được mơ hồ, khó hiểu, để truyền đi thông tin chính xác  
đến đối phương, đàm phán không giống viết văn bản, văn bản sau khi viết xong,  
có thcân nhắc từng câu từng chữ, có thsửa lại. Nhưng ngôn ngtrong đàm phán  
là “ một câu nói ra, không lấy lại được ”. Vì thế khi trình bày giải thích cần nắm  
bắt vấn đề trọng tâm, nêu bật được vấn đề trọng tâm mi là quan trọng. Khi trình  
bày cần rõ ràng, cần có ssắp xếp hợp lý việc nên nói gì trước tiên và nói gì sau  
đó. Khi nói không phân biệt vấn đề chyếu hay thyếu. Vừa nói xong vấn đề này  
thì chuyển ngay sang vấn đề khác, điều này dgây rối rắm trong duy của đối  
phương, không có lợi cho việc tiến hành đàm phán. Do trí nhcon người có hạn,  
với lượng thông tin truyền đạt cho đối phương trong một khoảng thời gian ngắn chỉ  
nhớ được một phần nội dung chyếu. Trong quá trình đàm phán, khi trình bày  
không chcần nội dung rõ ràng, có trật tự, mà cũng cần có nội dung đơn giản dễ  
hiểu.  
Để được nội dung đơn giản, cần chú ý hai vấn đề sau: Thnhất không nên đưa  
ra quá nhiều lời đối thoại. như, một lúc thì “ chúng ta đã nói…..”, khi thì “ tôi  
nói…”, lúc lại “ anh ấy lại nói….” “ lúc đó thì tôi nói…”. T“ nói ” dược nhắc đi  
nhắc lại, ngôn nglộn xộn, khiến người khác cảm thấy chán ngán. Thhai đó là  
không nên đề cập quá nhiều đến những chi tiết nhỏ. Nhất thiết phải đặt mình vào  
toàn hoàn cảnh, không nên chvì những vấn đề nhđể vướng mắc. Nếu không  
sbị vướng thân vì những chuyện nhnhặt mà khó thực hiện được những bước  
quan trọng. Tận dụng hết sức thực hiện một cuộc hội nghị để giải quyết một hay  
nhiều vấn đề. Ngoài ra sau khi tường thuật một nội dung dài khi hết thúc nên rõ  
ràng rành mạch tổng kết nội dung một lần. Việc này sẽ để lại ấn tượng tốt với đối  
tác đàm phán.  
Ví dụ: Khi bạn được giới thiệu sản phẩm, nhưng công ty bạn không cần tới sản  
phẩm đó, bạn có thnói như thế này: “ Cảm ơn quí công ty đã giới thiệu, tuy nhiên  
hiện tại công ty chúng tối chưa cần sản phẩm này ”. Hay ví dụ như, khi hai bên  
đàm phán chưa đạt được thothuận chung, thì có thnói: “ Một syêu cầu của quí  
công ty chúng tôi snghiên cứu kĩ lưỡng, và stiến hành đàm phán nếu như cơ  
hội thích hợp.” “ vấn đề bạn giải quyết thật thông thoáng, dhiểu, khâm phục,  
khâm phục, hi vọng rằng lần sau chúng ta scó một cuộc đàm phán thành công.”  
Về phương diện tngtrần thuật, nên chú ý tới ngữ điệu, tốc độ nói và âm lượng.  
Còn cần chú ý tới phương diện mượn từ, thông thường, cùng một câu ngữ điệu  
biểu đạt hàm ý khác nhau là không giống nhau, điều này cũng biểu đạt tình cảm và  
suy nghĩ của người nói, Vì thế, người đàm phán nên thông qua việc biến đổi ngữ  
điệu khác nhau để biểu đạt sttin, quyết tâm, bất mãn, nghi ngcũng như sự  
ghen ghét. Đồng thời cũng có cùng sthay đổi tình cảm trong ngữ điệu của đối  
phương.  
Trong khi nói, không nên nói quá nhanh, điều này slàm cho đối phương khó  
nghe. Tốc độ nói cũng không nên quá chậm, quá chậm sgây ra cảm giác ngượng  
ngùng,  
không  
nhanh  
nhẹn  
và  
không  
quyết  
đoán.  
Âm lượng không nên quá nhỏ, nhquá slàm cho đối phương khó nghe, gây ra  
cảm giác trầm tĩnh, và không để lại ấn tượng. Tuy nhiên âm lượng cũng không  
được quá to, Quá to sgây cảm giác hùng hổ hăm dohay giận dxúc phạm. Về  
phương diện mượn từ, lựa chọn cách dùng tdhiểu, thông thuộc. Sdụng từ  
quen, tchuyên dụng để đối phương dhiểu. Dùng tchính xác, nhất thiết không  
được sdụng ngôn ngmám khó hiểu, tránh tồn tại khoảng trống giữa đôi bên.  
Trong khi đàm phán vận dụng những thỏi để thu hút schú ý của đối phương,  
đồng thời đưa ra phương hướng cththeo suy nghĩ của đối phương, và trong quá  
trình đối thoại thu thập những thông tin chưa rõ hoặc những tư liệu chưa biết.  
Hình thức hỏi trong đàm phán muôn màu muôn vẻ. Có thể hỏi về một vấn đề cụ  
thể nào đó. Ví dụ như: “ Ông cho rằng cung cách phục vụ sau khi tiêu thụ liệu có  
thể cải tiến được không? ” Cũng có thể tiến hành hỏi đối với một vấn đề tổng hợp  
hay vấn đề toàn cục. Ví dụ như: “ Ông có cách nhìn nhận như thế nào đối với tình  
hình cạnh tranh trên thị trường hiện nay? ” Cách hỏi như thế này không giới hạn về  
phạm vi. Cũng có thể tiến hành phương thức hỏi thăm dò. Ví dụ: “ Chúng tôi sẽ  
tăng lượng hàng mua, về phía quí công ty liệu có đãi ngộ gì không? ” Có thể vận  
dụng phương án hỏi dẫn dắt, ví dụ: “ Kinh doanh tiêu thụ mặt hàng này nếu không  
nhận được triết khấu 3% chúng tôi sẽ không thể thu được nhiều lợi nhuận và sẽ  
khó đạt được hiệu quả cao nhất ”. Cách hỏi như thế này sẽ khiến đối phương không  
còn cách lựa chọn nào khác sẽ phải trả lời. Hỏi cũng có thể hỏi theo phương thức  
hiệp thương, ví dụ: “ Quí công ty xem với triết khấu là 3% của phía chúng tôi như  
vậy đã thoả đáng chưa? ” Ngữ khí hỏi như thế này luôn mang ngữ khí chuyển biến,  
dễ được tiếp nhận. Phương thức hỏi đa dạng, chúng ta có thể tiến hành các phương  
thức hỏi đối với các tình huống khác nhau. Nên hỏi sau khi đối phương đã nói  
xong.  
Khi đối phương phát ngôn, nói leo chính là hành vi gây phản cảm nhất. Tuy nhiên  
nếu đối phương nói quá dài dòng, thì có thể lựa để hỏi chen ngang một cách tế nhị.  
Ví dụ như, có thể hỏi khi đối phương ngừng giữa chừng: “ ý của ông vừa nói có ý  
nghĩa gì vậy...? ” “ Vấn đề trên chúng tôi đã nắm được rồi, còn vấn đề kia thì như  
thế nào? ” Ngoài ra có thể tiến hành hỏi trước và sau khi phát ngôn. Còn có thể hỏi  
trong thời gian thảo luận trong hội nghị. Kĩ xảo trả lời trong đàm phán cũng không  
phải là một việc dễ dàng. Đòi hỏi phải trải qua tổng quan toàn cục của người đàm  
phán, sau khi suy nghĩ tỉ mỉ mới có thể trả lời. Vì vậy mà trên thương trường bây  
giờ luôn có câu “ nhất ngôn cửu …” khi bạn hối hận vì câu nói của mình thì đó là  
hành vi thất ngôn, và phải trả giá từ điều đó. Câu hỏi của đối phương trong khi  
đàm phán được tính toán hết sức tỉ mỉ. Trong đó có chiến lược, có nghi ngờ, có cả  
cạm bẫy. Đối với những vấn đề này, người trả lời cần phải tuỳ cơ ứng biến, tuy  
nhiên không  
nhất thiết phải trả  
lời chính diện vấn đề.  
A, Cần chuyển hướng đối thoại. Khi hai bên đàm phán phát sinh tranh chấp mâu  
thuẫn , chẳng qua cũng chỉ là việc bé xé ra to, là chướng ngại trong khi đàm phán.  
Cần biết thay đối cuộc đối thoại. Ví dụ như: “ Chúng ta đã bàn luận sang chủ đề  
khác, bây giờ có thể thảo luận lại chủ đề ban đầu hay không? ” “ Vấn đề này tương  
đối phức tạp, chúng ta nên phân ra để thảo luận dễ hơn ”.  
B, Không nhất thiết phải trả lời tận cùng câu hỏi của đối phương. Trong quá  
trình tiến thêm một bước đàm phán, chúng ta có thể sẽ rơi vào thế bị động. Ví dụ:  
đối phương đưa ra câu hỏi về chất lượng sản phẩm. Chúng ta cũng không nên giới  
thiệu tận cùng tỉ mỉ tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, chỉ nên trả lời một số các chỉ  
tiêu chủ chốt, để từ đó xây dựng một ấn tượng chất lượng tốt.  
C, Phương thức từ chối trả lời. Đàm phán đó là nhằm mục đích đôi bên cùng có  
lợi, và đôi bên cùng đạt được hiệu quả đàm phán như ý. Nếu như không tiếp nhận  
được điều kịen của đối phương, không kí kết được hợp đồng. Lúc này chính là lúc  
sử dụng phương án từ chối cự tuyệt, không nên khiến đối phương có cảm giác “  
đối thủ ” mà nên duy trì quan hệ “ đối tác ”. Khi cự tuyệt vẫn phải giữ hoà khí, sự  
chuyển biến. Ví dụ: “ ý kiến của bạn rất hay, chúng tôi có thể xem xét lại ”, “ tôi  
rất thích sản phẩm cả bạn, nhưng tiếc là vốn dùng của chúng tôi quá ít ”.  
D, Mượn cách trả lời vòng vo. Trong đàm phán, Khi đối phương đưa ra câu hỏi  
mà bạn chưa suy nghĩ cân nhắc kĩ mà đối phương thúc giục không đúng lúc, bạn  
có thể vận dụng những tư liệu còn dang dở hay mượn cách nói vòng vo để trả lời.  
Ví dụ: “ Tôi chưa thể đưa ra câu trả lời đối với câu hỏi của bạn, nhất thiết phải hỏi  
ý kiến cấp trên ”. Trả lời vòng vo không có nghĩa là từ chối không trả lời. Điều này  
biểu thị sự việc này cần phải được suy nghĩ cân nhắc trước khi đua ra quyết định.  
Trong quá trình đàm phán, do hai bên luôn mong duy trì được lợi ích cho bản thân,  
để mong sao đạt được thoả thuận chung, tuy nhiên cũng tồn tại nhiều ý kiến bất  
đồng, có khi làm cho cuộc đàm phán rơi vào bế tắc. Lúc này nếu không giải quyết  
được bế tắc thì cuộc đàm phán không cách nào có thể tiến hành được. Nếu muốn  
phá vỡ bế tắc, một mặt chúng ta nên đưa ra những lời cổ vũ động viên đối phương  
về những nỗ lực đã đạt được; mặt khác có thể áp dụng những phương án khác để  
giải  
quyết.  
Phương pháp cụ thể để vận dụng kĩ xảo này đó là:  
A, Dùng lời lẽ khích lệ cổ vũ đối phương. Khi đàm phán rơi vào bế tắc, bạn có  
thể dùng những câu nói khích lệ như: “ Ngài thấy đấy, chúng ta đã giải quyết được  
rất nhiều vấn đề, hiện giờ chỉ còn lại một số ít, nếu không giải quyết ngay thì có  
phải là rất tiếc không? ” Cách nói này xem ra ổn nhất, trên thực tế nếu biết cổ vũ  
khích  
lệ  
thì  
sẽ  
mang  
lại  
tác  
dụng  
rất  
tốt.  
Đối với cuộc đàm phán có quá nhiều vấn đề để thảo luận, nên xoá bỏ những bế tắc  
còn tồn tại, ví dụ, trong cuộc đàm phán có sáu vấn đề cần thảo luận mà trong đó có  
bốn vấn đề là quan trọng, còn lại hai vấn đề là thứ yếu, giả sử như trong bốn vấn đề  
thì có ba vấn đề đạt được thoả thuận, còn lại một vấn đề quan trọng và hai vấn đề  
nhỏ, thì khi đối diện với bế tắc bạn nên nói với đối phương như thế này: “ Trong  
bốn vấn đề đã giải quyết được ba vấn đề, còn lại một vấn đề nếu như giải quyết  
được thì coi như các vấn đề nhỏ khác cũng giải quyết được, để chúng ta có thể tiếp  
tục nỗ lực, yên tâm thảo luận nốt vấn đề cuối cùng! Nếu gạt bỏ nó thì tất nhiên sẽ  
cảm thấy rất tiếc! ” Nghe vậy đối phương rất có thể sẽ tiếp tục đàm phán, và bế tắc  
đã  
bị  
loại  
bị  
hoàn  
toàn.  
B, Tìm một phương án khác. Trong đàm phán, do hai bên không đồng nhất quan  
điểm nên giao dịch dễ rơi vào bế tắc. Lúc này mà dùng lời nói để giải quyết bế tắc  
thì không thể thành công. Dưới tình hình này, chúng ta có thể vận dụng các  
phương pháp nhằm loại bỏ những bế tắc. Và dưới đây là những biện pháp thay thế:  
(1) Thay đổi lãnh đạo hoặc nhân viên của nhóm nhỏ đàm phán.  
(2) Lựa chọn thời gian đàm phán. Ví dụ như định lại thời gian đàm phán để có thể  
thảo luận bàn bạc những vấn đề khó giải quyết. Vì lúc đó có thể sẽ có nhiều tư liệu  
và  
lí  
do  
đầy  
đủ  
.
(3) Thay đổi phương thức phục vụ sau khi tiêu thụ, ví dụ như đề nghị giảm bớt các  
thủ tục rườm rà, để bảo đảm phục vụ sau ngày.  
(4) Cải biến các mức độ nguy hiểm. Phân tích những lợi ích cũng như tổn thất có  
thể xảy ra, giúp đối phương quay trở lại vòng đàm phán.  
(5) Thay đổi hình thái đàm phán, từ tình hình tranh đấu căng thẳng cho tới tình  
trạng cùng nhau nỗ lực, đồng tâm hiệp lực. Tăng sự liên lạc liên kết giữa ông chủ,  
kiến trúc sư, và các kĩ sư kĩ thuật của hai bên đàm phán, cùng có sự ảnh hưởng để  
đi  
đến  
giải  
quyết  
vấn  
đề.  
(6) Tìm một người trung gian để lí giải, đương nhiên người này phải có uy tín và  
có quyền đưa ra sự cảm hoá điều tiết.  
(7) Thiết lập một uỷ ban nghiên cứu do nhân viên hai bên hợp thành.  
(8) Nhượng bộ hợp lí, đưa nhiều phương án để đối phương có cơ hội lựa chọn.  
(9) Bỏ qua vấn đề này bàn luận những vấn đề dễ giải quyết sau đó đợi có cơ hội để  
giải  
quyết  
những  
vấn  
đề  
khó.  
(10) Tạm thời nghỉ giải lao, sau khi thoải mái, thích hợp kết nối tình cảm đôi bên,  
để  
đưa  
ra  
thái  
độ  
nhẹ  
nhàng  
để  
giải  
quyết  
vấn  
đề.  
Hoá giải những bế tắc để tăng thêm thành ý hợp tác giữa đôi bên, giúp cho tiến  
trình đàm phán đạt được thuận lợi.  
pdf 11 trang yennguyen 05/04/2022 4540
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật và kỹ xảo trong đàm phán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_va_ky_xao_trong_dam_phan.pdf