Rèn luyện kỹ năng dùng từ

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG DÙNG TỪ  
I. VAI TRÒ CỦA TỪ TRONG HOẠT ÐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ  
Trong ngôn ngữ thì từ là cái quan trọng nhất [1]. Nói cách khác, trong ngôn ngữ, từ chất liệu  
cơ bản, được sử dụng để tạo ra những đơn vị/kết cấu ở bậc cao hơn. thế, không có từ, con  
người không thể tiến hành giao tiếp được, như vậy, bản thân ngôn ngữ cũng không tồn tại.  
thể xem xét vai trò của từ từ hai góc độ.  
Về phía người tạo lập văn bản (người nói, người viết), để truyền đạt một nội dung thông báo nào  
đó, tất nhiên phải tạp ra lời cụ thể, tồn tại dưới một loại hình ngôn bản cụ thể. Trong quá trình  
tạo câu, tạo đoạn... trong ngôn bản, công việc cơ bản của người nói/viết lựa chọn kết hợp từ  
để tạo thành câu, đoạn v.v...  
Về phía người tiếp nhận văn bản (người nghe, người đọc), khi nghe, đọc, trước hết tiếp xúc  
với từ (dưới dạng âm thanh hay kí hiệu chữ viết) hiểu được từ, trên cơ sở đó mới hiểu được  
câu, đoạn... cuối cùng là hiểu được nội dung toàn ngôn bản.  
Từ có vai trò vô cùng quan trọng như vậy, nên năng lực ngôn ngữ của một cá nhân thể hiện rõ  
nhất, dễ nhận thấy nhất qua việc dùng từ, xét ở cả hai mặt: đúng và sai, hay và dở.  
II. YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA VIỆC DÙNG TỪ  
Yêu cầu cơ bản của việc dùng từ phải đảm bảo tính chính xác.  
Nhiều làm công tác văn hoá, văn nghệ đã nhấn mạnh yêu cầu cơ bản này:  
Bất cứ người làm văn nào cũng thấy việc hiểu từ và dùng từ đúng chỗ điều quan trọng cũng  
điều khó khăn bậc nhất. [1][1]  
Thế nào là dùng từ chính xác?  
Dùng từ chính xác là dùng từ đảm bảo được sự trùng khít, tương hợp sát sao giữa ý nghĩa của từ  
với nội dung muốn biểu đạt, tức khái niệm, sự vật, hành động, tính chất, trạng thái v.v...  
Căn cứ vào các thành phần ý nghĩa của từ, thể cụ thể hoá sự tương hợp, trùng khít vừa nêu:  
Thứ nhất, nghĩa biểu niệm hay biểu vật của từ phải phản ánh đúng khái niệm, sự vật, hành động,  
tính chất... người nói/người viết muốn đề cập đến. Ðây là sự tương hợp cơ bản nhất. Không  
bảo đảm được sự tương hợp này thì sẽ dẫn đến chỗ lỗi chọn sai từ.  
Thứ hai, nghĩa biểu thái của từ phải phù hợp với tình cảm, thái độ của người nói/viết đối với đối  
tượng được đề cập đến; đồng thời nghĩa biểu thái của các từ phải tương hợp với nhau và tương  
hợp với sắc thái ý nghĩa chung của cả câu văn.  
Thứ ba, giá trị phong cách của từ phải phù hợp với phong cách ngôn ngữ văn bản.  
dụ:  
Những giọt nước mắt vừa nhỏ, vừa quáng đặc, chắt ra từ hai màng mắt khô đục (Nguyễn Khải)  
Mặt lão đột nhiên co dúm lại. Những vết nhăn lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra (Nam  
Cao)  
Cùng với tiếng tru hể hả: Chết đi, đồ ăn hại, chết đi!, đuôi mắt nẩy lửa của nàng dâu lại đóng dấu  
vào trán bà mẹ (Dạ Ngân)  
Hình ảnh đó (chồng người vợ thứ hai ngồi chung trên chiếc xích lô) làm Niềm đau nhói,  
nhưng lập tức, tiếng cười của bọn trẻ đã rửa trôi cái cảm giác đó (Dạ Ngân)  
lẽ đó giấc ngủ êm ái nhất đời, cũng giấc ngủ bình yên cuối cùng nên rất nhiều năm sau,  
giấc ngủ đó vẫn còn thức trong tiềm thức Kiên (Bảo Ninh)  
Nghe càng đắm, ngắm càng say,  
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình  
Xóm giềng kẻ sang chơi  
Lân la khẽ hỏi một hai sự tình  
Hỏi ông, ông mắc tụng đình,  
Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha  
(Nguyễn Du)  
III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP LIÊN HỘI, SO SÁNH CẦN THIỂT ÐỂ DÙNG TỪ CHÍNH  
XÁC  
1- Phân biệt các nét nghĩa, các sắc thái nghĩa khác nhau giữa các từ đồng nghĩa.  
1.1- Khái niệm về từ đồng nghĩa.  
Từ đồng nghĩa từ có hình thức ngữ âm khác nhau, thuộc cùng một trường nghĩa dọc, nghĩa  
biểu niệm hay nghĩa biểu vật giống nhau và không chứa nét nghĩa đối lập.  
Trường nghĩa dọc: trường nghĩa xét theo trục đối vụ, trục dọc. Một trường nghĩa một hệ thống  
ngữ nghĩa nhỏ, bao gồm nhiều đơn vị đồng nhất với nhau về nghĩa.  
dụ:  
Trong hệ thống ngữ nghĩa không còn sống nữa, có các từ đồng nghĩa: chết, mất, qua đời, tắt thở,  
hi sinh, tạ thế, từ trần, bỏ mạng, bỏ xác, ngủm...  
Trong hệ thống ngữ nghĩa làm theo ý muốn (của người khác0 cho vừa lòng, có các từ đồng  
nghĩa: chiều, nuông, chiều chuộng, nuông chiều.  
Trong hệ thống ngữ nghĩa trao đưa một cái gì đó cho người khác, có các từ đồng nghĩa: đưa,  
trao, biếu, tặng, dâng, hiến, dâng hiến, ban, phát...  
1.2- Phân loại từ đồng nghĩa.  
Dựavào mức độ đồng nhất vè ý nghĩa, từ đồng nghĩa được chia thành hai loại: từ đồng nghĩa  
tuyệt đối từ đồng nghĩa sắc thái.  
a) Từ đồng nghĩa tuyệt đối.  
Từ đồng nghĩa tuyệt đối từ đồng nhất với nhau về ý nghĩa biểu niệm, biểu vật biểu thái.  
Loại từ đồng nghĩa này xuất hiện giữa từ địa phương với từ toàn dân hay từ bản ngữ với từ vay  
mượn.  
dụ:  
Lợn = heo; ngô = bắp; lạc = đậu phọng; máy bay = phi = tàu bay; xe lửa = hoả xa = tàu hoả;  
phi trường = phi cảng= sân bay; mẹ = má = bầm; vỏ (xe) = lốp v.v...  
Nhìn chung, từ đồng nghĩa tuyệt đối khả năng thay thế cho nhau trong mọi văn cảnh, ngoại  
trừ trường hợp người viết muốn diễn tả sắc thái địa phương khác nhau.  
b) Từ đồng nghĩa sắc thái.  
Từ đồng nghĩa sắc thái là từ đồng nhất với nhau về một số nét nghĩa biểu niệm, biểu vật nhưng  
lại khác nhau ở một số nét nghĩa nào đó, hay khác nhau về nghĩa biểu thái, về giá trị phong cách.  
dụ:  
Hi sinh, từ trần, tạ thế, qua đời, mất, chết, thiệt mạng, bỏ mạng, bỏ xác, toi mạng, ngủm, ngoẻo...  
Thi hài, thi thể, xác chết, thây ma...  
Nho sĩ, nhà nho, thầy đồ.  
Chiến sĩ, bộ đội, lính.  
Khám phá, phát hiện.  
Ăn, dùng, xơi, chén.  
Từ đồng nghĩa sắc thái, nhìn ít không có khả năng thay thế cho nhau trong những văn cảnh khác  
nhau. Do đó, trước loại từ đồng nghĩa này, phải cân nhắc, thận trọng trước khi chọn và dùng một  
từ nào đó. Lẫn lộn loại từ đồng nghĩa này thì sẽ dẫn đến lỗi sai.  
2- Phân biệt giá trị biểu đạt của từ Hán - Việt so với từ thuần Việt.  
Trong quá trình phát triển, tiếng Việt đã vay mượn (và Việt hoá) khá nhiều từ của tiếng nước  
ngoài, đặc biệt tiếng Hán, tiếng Pháp. Từ Hán - Việt từ vay mượn từ tiếng Hán, được đọc  
theo cách phát âm của tiếng Việt.  
Từ Hán - Việt thể những đơn vị đồng nghĩa với từng thuần Việt ở mức độ này hay mức độ  
khác. Bên cạnh đó, từ Hán - Việt những đơn vị từ thuần Việt không có đơn vị tương  
đương. Do đó, chúng ta cần lưu ý giá trị biểu đạt của từ Hán - Việt so với từ thuần Việt để sử  
dụng chính xác.  
Nhìn chung có ba trường hợp.  
2.1- Từ Hán - Việt không có đơn vị thuần Việt tương đương.  
Trong trường hợp này, chúng ta bắt buộc phải dùng từ Hán - Việt. Tránh lối chuyển dịch nghĩa  
nôm na, tuỳ tiện.  
dụ:  
Ðộc lập, tự do, bình đẳng, bác ái, cấu trúc, hàm số, ẩn số, hằng số, phế liệu, bảo thủ, thủ môn, ảo  
tưởng, viễn cảnh, nội thương, ngoại thương, nhân quyền, nhân mãn, nhân tạo v.v...  
Trong một số trường hợp cho phép, chúng ta có thể chuyển đổi trật tự các yếu tố để làm giảm bớt  
màu sắc tiếng Hán:  
Khoa trưởng ( trưởng khoa; trưởng lớp ( lớp trưởng; quân y viện viện quân y; nội khoa ( khoa  
nội; ngoại khoa ( khoa ngoại v.v...  
2.2- Từ Hán - Việt đơn vị thuần Việt đồng nghĩa sắc thái.  
Ðây là trường hợp từ Hán - Việt từ thuần Việt đồng nhất với nhau ở một vài nét nghĩa, nhưng  
lại khác nhau ở một vài nét nghĩa nào đó hay khác nhau về sắc thái biểu cảm, giá trị phong cách.  
Ðối với trường hợp này, tuỳ vào nội dung biểu đạt, thái độ, tình cảm và phong cách ngôn ngữ  
văn bản mà chúng ta dùng từ Hán - Việt hay từ thuần Việt. Ðể diễn đạt sắc thái trang trọng, trân  
trọng, lịch sự và trong các phong cách ngôn ngữ mang tính văn hoá cao, chúng ta dùng từ Hán -  
Việt. Ðể diễn đạt sắc thái thân mật, suồng sã và trong khẩu ngữ tự nhiên, chúng ta dùng từ thuần  
Việt.  
So sánh:  
Tạ thế, hi sinh, từ trần - Mất, chết, ngủm, bỏ mạng...  
Tử thi - Xác chết, thây ma.  
Chiến sĩ, binh - Lính.  
Phu nhân - Vợ.  
Sinh - Ðẻ.  
Nhi đồng - Trẻ con.  
Thảo mộc - Cây cỏ.  
Aính, chân dung - Hình.  
Phát biểu - Nói chuyện.  
Thảo luận - Bàn, bàn bạc.  
Bảo vệ - Giữ gìn.  
2.3- Từ Hán - Việt đơn vị thuần Việt đồng nghĩa gần như tuyệt đối.  
Trong trường hợp này, chúng ta nên dùng từ thuần Việt. Dùng từ Hán - Việt lạm dụng, cầu kì,  
không cần thiết.  
So sánh:  
Ðộc giả - Người đọc.  
Hỗ trợ - Giúp đỡ.  
Hiệu triệu - Kêu gọi.  
Phi - Máy bay.  
Phi cảng, phi trường - Sân bay.  
Không phận - Vùng trời.  
Hải phận - Vùng biển.  
Xa cảng - Bến xe.  
Bích báo - Báo tường.  
Bằng hữu - Bè bạn.  
giả - Nhà báo.  
IV. CÁC LOẠI LỖI DÙNG TỪ VÀ CÁCH SỬA CHỮA  
1- Cơ sở phân loại lỗi dùng từ.  
Thông thường, sự chính xác của từ, ngữ được xét dựa trên hai cơ sở, đó trục lựa chọn, tức trục  
đối vị trục kết hợp, tức trục ngữ đoạn. Ngược lại, sự vi phạm tính chuẩn mực của từ ngữ cũng  
bộc lộ qua hai trục này. Một từ có ý nghĩa nhờ vào những thế đối lập trên hai trục lựa chọn và  
kết hợp. Cũng từ đó, giáo viên mới đưa ra được những phương pháp sửa chữa lỗi dùng từ của  
học sinh, với mục đích giúp họ hiểu đúng, viết đúng và nói đúng 3. Do đó thể phân loại lỗi  
dùng từ của học sinh, với mục đích giúp họ hiểu đúng, viết đúng và nói đúng[1][1]. Do đó, có  
thể phân loại lỗi dùng từ, ngữ dựa trên cơ sở hai trục vừa nêu. Dựa vào hai trục này, lỗi dùng từ,  
ngữ chia thành hai loại lớn : lỗi lựa chọn lỗi kết hợp. Mỗi loại lỗi được chia thành nhiều kiểu  
lỗi sai nhỏ hơn, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của hiện tượng sai.  
2. Lỗi lựa chọn :  
Nói đến lỗi lựa chọn từ, chủ yếu là xét qua hai mối quan hệ :  
- Giữa nội dung muốn biểu đạt với nghĩa của từ được dùng ;  
- Giữa giá trị phong cách của từ được dùng với phong cách ngôn ngữ văn bản.  
Trên cơ sở đó, lỗi lựa chọn từ được chia thành ba kiểu lỗi sai nhỏ :  
2.1. Chọn sai từ :  
Chọn sai từ chọn từ nghĩa của nó không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt, tức khái  
niệm, hành động, tính chất, trạng thái ... mà người viết muốn nói đến. Nói cách khác, chọn sai từ  
hiện tượng nghĩa của từ được dùng và nội dung muốn biểu đạt sự chênh lệch ở mức độ này  
hay mức độ khác.  
Xem xét các ví dụ dưới đây :  
(a) ... và người dân là một miếng ăn của bọn chúng (bọn quan lại phong kiến)(BVHS).  
(b) Tất cả mọi hành động, suy nghĩ của mình, chị Út đều dồn vào tương lai của đàn con(BVHS).  
(c) Trái lại, lũ quan lại dưới triều đình chỉ biết hợp tác với nhau, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để  
bóc lột nhân dân, ăn chơi xa xỉ (BVHS).  
(d) Tuy nhà thơ yêu vội vã, say mê nhưng biết giới hạn niềm say mê nồng nhiệt của mình, không  
rơi vào thác oan (BVHS)  
(e) Ðối với vợ, anh Trỗi hết lòng nuông chiều(BVHS)  
Trong ví dụ (a) , miếng ăn nghĩa là cái dùng để ăn, để nuôi sống bọn quan lại phong kiến, theo  
nghĩa đen của nó. Miếng ăn hoàn toàn không phù hợp với nội dung mà học sinh muốn biểu đạt :  
người gánh chịu hậu quả, tai họa.  
Trong ví dụ (b), dồncó nghĩa là : cùng một lúc tập trung tất cả cả yếu tố, bộ phận vào một nơi,  
một vật chứa đựng nào đó. Nhưng nội dung học sinh muốn biểu đạt nhắm vào, hướng về :  
chị Út hướng tất cả mọi suy nghĩ, hành động của chị vào tương lai của đàn con.  
Trong ví dụ (c), có ba từ chọn sai : dưới, hợp tác, xa xỉ. Dướichỉ vị trí thấp hơn trong không gian  
so với một vị trí xác định nào đó, hay thấp hơn các vị trí khác nói chung. Nghĩa của từ dướitrong  
câu không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt : thuộc phạm vi. Còn hợp táccó nghĩa là : cùng  
chung sức với nhau trong một công việc, một lãnh vực hoạt động nào đó, nhằm một mục đích  
chung. Nói hợp tác còn bao hàm sự đánh giá cao, tốt đẹp. Nhưng nội dung mà học sinh muốn  
biểu đạt là : hợp thành một phe cánh, một lực lượng để thực hiện âm mưu, hành động xấu xa. Xa  
xỉ nghĩa là : tốn nhiều tiền mà không thật cần thiết, chưa cần thiết. So với nội dung muốn biểu  
đạt : quá sang trọng và mang tính chất lãng phí, thì nghĩa của từ xa xỉ hoàn toàn không phù hợp.  
Trong ví dụ (d), nội dung mà học sinh muốn biểu đạt là : ở trạng thái hỗn loạn, không coön giữ  
trật tự, nền nếp bình thường. Nội dung muốn biểu đạt đó hoàn toàn không phù hợp với nghĩa của  
từ thác oan : chết một cách oan ức, lẽ ra không phải chết.  
Cuối cùng, trong ví dụ (e), nghĩa của từ nuông chiềucó phần lệch lạc so với nội dung muốn biểu  
đạt. Nuông chiềucó nghĩa là : chiều người dưới một cách quá đáng, vô lí. Nhưng nội dung mà  
học sinh muốn nói về anh Trỗi là : ân cần chăm sóc với tất cả tình cảm thương yêu (đốivới vợ).  
Hơn thế nữa, nói anh Trỗi nuông chiều vợ còn bao hàm sự phê phán.  
Xem lại các ví dụ (a), (b), (c), (d) ở mục 1.1. Các từ hắt hơi, gan ruột, đâm chĩa, câu trong các ví  
dụ này cũng thuộc lỗi chọn sai từ.  
Chọn câu sai từ biểu hiện khá đa dạng. trường hợp chỉ sai nghĩa cơ bản. Chẳng hạn như  
các từ miếng ăn, dồn, dưới, xa xỉ, thác oan trong các ví dụ vừa dẫn. trường hợp vừa sai  
nghĩa cơ bản (nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu vật), vừa sai cả nghĩa biểu thái (thành phần nghĩa biểu  
thị thái độ đánh giá của người viết đối với đối tượng được nói đến). Ðó là trường hợp từ hợp tác,  
nuông chiều đã dẫn.  
Nguyên nhân chủ yếu của lỗi chọn sai từ là do học sinh hiểu nghĩa của từ một cách lơ mờ, thiếu  
chính xác, hay do nhầm lẫn nghĩa của từ này với nghĩa của từ khác. Thực tế bài viết của học sinh  
cho thấy, xét về mặt số lượng âm tiết về nguồn gốc của từ, đa số các trường hợp chọn sai là  
rơi vào từ đa âm tiết, trong đó từ Hán - Việt chiếm tỉ lệ rất cao. Và ở đây, sự lẫn lộn về nghĩa dẫn  
đến chọn sai thường xảy ra giữa các từ hai âm tiết, trong đó một âm tiết giống nhau hay gần  
gũi nhau về vần. Chẳng hạn như giữa đào thảivới sa thải xa xỉ với xa hoa, trấn áp với đàn áp,  
khêu gợi với khơi dậy, thác loạn với thác oanv.v... Còn hiện tượng chọn sai từ đơn âm lại thường  
rơi vào từ thuần Việt. đa số các trường hợp chọn sai là do học sinh tự phát muốn dùng những  
các từ đơn tiết với nghĩa bóng, nghĩa trừu tượng nào đó, nhưng văn cảnh không cho phép. Từ  
dồn vừa nêu là một dụ tiêu biểu.  
Xét về mặt từ loại, trong bài viết của học sinh, hiện tượng chọn sai từ thường tập trung vào lớp từ  
thực (danh từ, động từ, tính từ). Hiện tượng chọn sai đối với lớp từ hư xuất hiện ít hơn.  
Chọn sai từ tất nhiên sẽ làm cho nội dung biểu đạt của câu lệch lạc, ngô nghê. Thậm chí, có  
trường hợp chọn sai dẫn đến nghĩa của câu mâu thuẫn với ý đồ biểu đạt của người viết.  
dụ:  
Ðã quen có người bao bọc, thời gian đầu mặc áo sinh viên, tôi không cảm thấy bơ vơ...(TNH  
1993).  
Xét về mặt ý đồ muốn biểu đạt, đối tượng được nói đến trong câu là một người vốn được đồng  
đội, anh em nuôi dưỡng, chăm sóc, đùm bọc chu đáo. Nhưng rồi anh đi học đại học, thời gian  
đầu, phải sống tự lập giữa một môi trường xa lạ, không bạn bè thân thích, không được chăm sóc,  
đùm bọc như trước. Hoàn cảnh ấy tất nhiên làm cho anh cảm thấy bơ vơ, lạc lõng. Căn cứ vào ý  
đồ biểu đạt, ta thấy tác giả đã chọn sai hai từ : bao bọc, không. Bao bọccó nghĩa : làm thành một  
lớp che chắn khắp chung quanh một sự vật, không phù hợp với nội dung muốn biểu đạt. lẽ do  
người viết lẫn lộn giữa bảo bọcvà bao bọc, hay do in ấn sai sót. Lỗi sai này có thể cho qua. Lỗi  
thứ hai mới đáng nói. Phó từ khôngbiểu thị ý nghĩa phủ định. Tác giả viết : ...không cảm thấy bơ  
ngược lại ý đồ biểu đạt. Lẽ ra phải viết : ...không khỏi cảm thấy bơ vơmới chính xác.  
Sửa chữa lỗi chọn sai từ, trước hết, chúng ta căn cứ vào văn cảnh của cả câu để phát hiện, xác  
định nội dung mà học sinh muốn biểu đạt, tức khái niệm, sự vật, hành động, tính chất... học  
sinh muốn đề cập đến. Trên cơ sở đó, liên hệ đến những đơn vị từ vựng nghĩa tương ứng,  
chọn ra đơn vị thích hợp nhất và thay thế cho từ bị chọn sai. Có thể chọn một từ hay chọn một  
liên hợp song song gồm hai, ba từ để thay thế, tùy vào lỗi sai cụ thể.  
Chẳng hạn, các trường hợp chọn sai đã dẫn thể được sửa chữa như sau :  
(a) ... và người dân là nạn nhân của bọn chúng.  
(b) Tất cả mọi hành động, suy nghĩ của mình, chị Út đều hướng về tương lai của đàn con..  
(c) Trái lại, lũ quan lại trong triều đình chỉ biết cấu kết với nhau, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để  
bóc lột nhân dân, ăn chơi xa hoa.  
(d) Tuy nhà thơ yêu vội vã, say mê nhưng biết giới hạn niềm say mê nồng nhiệt của mình, không  
rơi vào thác loạn.  
(e) Ðối với vợ, anh Trỗi hết lòng thương yêu, chăm sóc.  
2.2. Chọn từ, ngữ sáo rỗng :  
Tữ, ngữ sáo rỗng những từ, ngữ đọc lên nghe rất kêu (sáo), nhưng nghĩa của chúng vượt quá  
tính chất, mức độ cần thiết so với nội dung muốn biểu đạt, trở nên cường điệu, huênh hoang,  
rỗng tuếch.  
(a) Bài thơ Tiếng rucủa Tố Hữu (...) là một đỉnh cao muôn trượng(BVHS).  
(b) Chúng ta phải ra sức học tập để góp một phần công lao vĩ đại của mình đưa đất nước tiến lên  
tầm cao thời đại(BVHS).  
(c) Nếu đời sống nguồn cảm hứng dồi dào, mang đậm hương vị mặn của tiếng lòng nhân  
ái, thì thời đại là ánh hào quang trong băng giá, xua tan mây mù cho ánh sáng tràn theo với rực  
rỡ nắng và hoa lung linh màu sắc (BVHS).  
Trong ví dụ (a), học sinh đã đánh giá bài thơ Tiếng rucủa Tố Hữu đỉnh cao muôn trượng(!).  
Một bài thơ, dù là thành công đến đâu, cũng khó mà đạt đến đỉnh cao muôn trượng.  
Trong ví dụ (b), học sinh muốn đóng góp một phần- chỉ một phần thôi - công lao vĩ đạicủa mình  
để đưa nước nhà tiến lên tầm cao của thời đại. Quả là quá huênh hoang, đại ngôn.  
Trong ví dụ (c), hàng loạt cụm từ được trau chuốt bóng bảy, mượt mà, được dùng để ngợi ca thời  
đại, chẳng rõ là thời đại nào. Nhưng nghĩa của các cụm từ này và nghĩa của cả câu hết sức tù mù,  
khó mà hiểu chính xác được.  
Thật ra, nếu xét một cách nghiêm ngặt, thì hiện tượng dùng từ, ngữ sáo rỗng cũng thuộc kiểu lỗi  
chọn sai từ. Bởi vì, sự sai lạc của hiện tượng này thể hiện ở sự chênh lệch, không hoàn toàn trùng  
khít giữa nội dung muốn biểu đạt nghĩa của từ, ngữ được dùng. Nhưng ở đây, chúng tôi tách  
ra thành một kiểu lỗi riêng để tiện cho việc xem xét, sửa chữa.  
Trong bài viết của học sinh, loại lỗi này xuất hiện không nhiều, chỉ tập trung ở một số bài.  
Nguyên nhân dẫn đến lỗi sai này là, một mặt do học sinh không xác định một cách rõ ràng, cụ  
thể nội dung muốn biểu đạt ; mặt khác, lại muốn trau chuốt, gọt giũa từ ngữ cho ra văn vẻ. Vì  
thế, học sinh thường lắp ghép từ, ngữ vốn được dùng trong tác phẩm nào đó vào câu văn của  
mình một cách máy móc, tùy tiện, nhưng lại không hiểu nghĩa của những từ, ngữ ấy.  
Sửa chữa lỗi chọn từ, ngữ sáo rỗng, trước hết, chúng ta dựa vào văn cảnh của câu để xác định  
một cách cụ thể nội dung mà học sinh muốn biểu đạt. Trên cơ sở đó, chọn từ, ngữ thích hợp thay  
thế những từ, ngữ sáo rỗng. Nếu thấy cần thiết, thể thay đổi cách diễn đạt. Ðối với trường hợp  
câu văn có quá nhiều từ, ngữ sáo rỗng , làm cho nghĩa của câu quá mơ hồ, không thể hiểu rõ  
được, thể không cần sửa chữa. Chẳng hạn như dụ (c) vừa dẫn.  
Các câu (a), (b) có thể sửa chữa như sau :  
(a) Bài thơ Tiếng rulà một trong những thành công nổi bật của Tố Hữu.  
(b) Chúng ta phải ra sức học tập để sau này (có thể) đóng góp một phần công sức nhỏ của mình  
vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.  
2.3. Chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản :  
Từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản những từ, ngữ mà giá trị phong cách của nó không  
phù hợp với phong cách ngôn ngữ văn bản.  
Cũng giống như các ngôn ngữ khác, trong tiếng Việt, không phải tất cả các đơn vị từ vựng và  
cụm từ cố định đều thể sử dụng trong tất cả các lãnh vực giao tiếp. ở đây, thường xảy ra  
hiện tượng chuyên dùng, tức việc ưu tiên sử dụng từ, cụm từ cố định hay có xu hướng cố định  
hóa trong từng lãnh vực giao tiếp khác nhau. Giá trị phong cách của từ, ngữ là nét nghĩa phụ của  
từ, ngữ, cho biết từ, ngữ thường được ưu tiên sử dụng trong phạm vi giao tiếp nào, tức là phong  
cách ngôn ngữ nào (trong phong cách khẩu ngữ tự nhiên hay phong cách ngôn ngữ gọt giũa,  
trong phong cách ngôn ngữ hành chánh, khoa học hay phong cách ngôn ngữ văn chương...). Nếu  
một từ, ngữ nào đó vốn được chuyên dùng trong phong cách ngôn ngữ này, nhưng học sinh lại  
sử dụng trong phong cách khác, thì đó chính là hiện tượng chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ  
văn bản.  
Trong bài viết của học sinh, kiểu lỗi này thường thể hiện ở việc sử dụng các đơn vị từ vựng, các  
cụm từ cố định hay có xu hướng cố định hóa thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Mà bài viết  
của học sinh lại thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học. Do đó, các từ, cụm từ này trở thành lỗi  
sai.  
dụ:  
(a) Ðọc tác phẩm, em thấy thương yêu và caøm phục anh Trỗi, chị Quyên quá chừng !(BVHS).  
(b) Chị Út Tịch một người phụ nữ anh hùng quá xá cỡ!”(BVHS).  
(c) Vợ chồng Nghị Quế tàn ác hết chỗ nói ! (BVHS).  
(d) Ðọc hai câu thơ này, ta cứ ngỡ như Phan Bội Châu vẫn còn đâu đây, lòng chúng ta dâng lên  
niềm cảm xúc, ta thấy thương ông làm sao ấy.(BVSV).  
Trong các ví dụ trên, các tổ hợp từ quá chừng, quá xá cỡ, hết chỗ nói, làm sao ấy thường xuất  
hiện trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, chúng thuộc phong cách khẩu ngữ tự nhiên. Dùng những  
tổ hợp này trong bài viết là sai phong cách ngôn ngữ văn bản.  
Hiện tượng chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản trong bài viết của học sinh không  
nhiều. Lỗi này chỉ xuất hiện rải rác trong một số bài, và bài có phạm lỗi, thường cũng không quá  
hai, ba trường hợp.  
Nguyên nhân dẫn đến chọn từ, ngữ sai phong cách ngôn ngữ văn bản chủ yếu là do học sinh  
không hiểu rõ giá trị phong cách của từ ngữ cũng như đặc điểm của các phong cách ngôn ngữ  
khác nhau.  
Sửa kiểu lỗi này, trước hết cần xác định nội dung học sinh muốn biểu đạt, dựa vào từ, ngữ đã  
chọn sai. Trên cơ sở đó, chọn lựa từ, ngữ khác, phù hợp với phong cách ngôn ngữ, để thay thế.  
Bốn trường hợp chọn sai vừa dẫn thể sửa chữa như sau :  
(a) Ðọc tác phẩm, em thấy thương yêu và cảm phục anh Trỗi, Chị Quyên vô cùng.  
(b) Chị Út Tịch một người phụ nữ rất đỗi anh hùng.  
(c) Vợ chồng Nghị Quế (thật) vô cùng tàn ác.  
(d) Ðọc hai câu thơ này, ta cứ ngỡ như Phan Bội Châu vẫn còn đâu đây, lòng chúng ta dâng lên  
niềm cảm xúc, ta thấy thương ông vô hạn.  
3. Lỗi kết hợp :  
Lỗi kết hợp loại lỗi dùng từ, ngữ được xét qua mối quan hệ về nghĩa từ vựng giữa các từ, ngữ  
trong cấu tạo cụm từ. Dựa vào đặc điểm, tính chất của các hiện tượng vi phạm, thể chia lỗi kết  
hợp thành các kiểu lỗi nhỏ như : kết hợp sai nghĩa từ vựng, kết hợp trùng lặp, thừa từ và so sánh  
khập khễnh.  
3.1. Kết hợp sai nghĩa từ vựng :  
Kết hợp sai nghĩa từ vựng kiểu lỗi sai thể hiện qua hiện tượng kết hợp từ tạo thành cụm từ mà  
nội dung nghĩa giữa các thành tố không tương hợp với nhau, làm cho nghĩa của cả cụm trở nên  
luẩn quẩn, mơ hồ hay lệch lạc so với ý đồ biểu đạt.  
Xem xét các ví dụ dưới đây :  
(a) Vì thế văn học thời kì này đã để lại bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nước của nhiều  
tác giả như Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Thông ...(BVHS).  
(b) Chị Sứ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc, gần kề cái chết, nhưng chị không hề lo sợ  
về mình, chỉ nghĩ đến cách mạng, đồng đội(BVHS).  
(c) Chị Út Tịch được giao nhiệm vụ cực kì quan trọng trong khi chị đang có con chưa thành  
người(BVHS).  
(d) Không có miếng ăn, người mẹ không tiếc gì cái chết của chính mình mà chỉ thương cho các  
con vô tội, phải chết oan uổng “(BVHS).  
(e) Nỗi thất vọng của tình yêu còn lớn hơn vì tình yêu dẫn đến không đưa tới hạnh phúc(BVHS).  
Trong ví dụ (a) , nội dung biểu đạt của cụm từ bao tác phẩm quý giá về văn học yêu nướclệch  
lạc, luẩn quẩn. Sự luẩn quẩn này bộc lộ qua mối quan hệ về nghĩa giữa bao tác phẩm quý giávới  
văn học yêu nước.  
Trong ví dụ (b), sự lệch lạc của cụm từ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc bộc lộ qua mối  
quan hệ về nghĩa giữa đang nằm với sự thâm độc của bọn giặc. Bởi sự thâm độc của bọn  
giặckhông phải một phạm vi không gian, cho nên không thể kết hợp với đang nằm.  
Trong ví dụ (c), nội dung biểu đạt của cụm từ đang có con chưa thành người sự mâu thuẫn về  
nghĩa giữa đang có con với chưa thành người. Ðã nói đang có con thì không thể nói chưa thành  
người. Bởi vì con ở đây cũng là con người.  
Trong ví dụ (d), không tiếc gìkhông tương hợp với cái chết của chính mình. Bởi vì không tiếc gì  
nghĩa là : sẵn sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh. Mà cái chết của chính mìnhthì  
không thể nào là đối tượng của việc sẵn sàng rời bỏ, sẵn sàng chịu mất đi, chịu hi sinh.  
Trong câu (e), nội dung biểu đạt của cụm từ dẫn đến không đưa tớicó sự mâu thuẫn về nghĩa  
giữa dẫn đến với không đưa tới. (Ngoài ra, trong câu này, học sinh còn chọn sai từ của. Phải thay  
bằng từ trong mới đúng).  
Hiện tượng kết hợp sai nghĩa từ vựng nhiều mức độ khác nhau, dẫn đến hậu quả khác nhau.  
Kết hợp sai nhẹ sẽ làm cho cụm từ luẩn quẩn hay lệch lạc về nghĩa. Các câu (a), (b) thuộc trường  
hợp này. Kết hợp sai nặng thể làm cho các thành tố trong cụm từ mâu thuẫn với nhau về  
nghĩa. Chẳng hạn như trong các câu (c), (d), (e) đã dẫn.  
Trong bài viết của học sinh, lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng xuất hiện khá phổ biến. Hơn 40% bài  
viết của học sinh mà chúng tôi đã khảo sát vi phạm loại lỗi này. Bài sai ít là một, hai lỗi. Bài sai  
nhiều lên đến năm, sáu lỗi.  
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng là do duy của học sinh thiếu mạch  
lạc ; học sinh không xác định được một cách rõ ràng, cụ thể nội dung cần biểu đạt, không hiểu  
chính xác nghĩa của từ khả năng kết hợp của chúng, xét về mặt nghĩa từ vựng.  
Sửa chữa loại lỗi này, phải tiến hành từng bước. Trước hết, dựa vào văn cảnh của câu, chúng ta  
xác định rõ ràng, cụ thể nội dung mà học sinh muốn biểu đạt. Tiếp theo, trên cơ sở nội dung biểu  
đạt đã xác định được, loại bỏ các yếu tố không có liên quan, không tương hợp về nghĩa với yếu  
tố khác, và chọn từ, ngữ khác để thay thế. Nếu cụm từ yếu tố dư thừa thì loại bỏ. Ðối với  
trường hợp cả cụm từ không phản ánh đúng nội dung muốn biểu đạt, chúng ta tạo ra cụm từ khác  
để thay thế.  
Các trường hợp kết hợp sai vừa dẫn thể sửa chữa như sau :  
(a) Vì thế văn học thời kì này đã để lại nhiều tác phẩm quý giá, mang đậm tinh thần yêu  
nước...  
(b) Chị Sứ đang nằm trong tay của bọn giặc / đang bị bọn giặc bắt giữ, gần kề với cái chết,  
nhưng chị không hề lo sợ cho bản thân mình ...  
(c) Chị Út Tịch được giao nhiệm vụ cực kì quan trọng trong khi chị đang mang thai / đang bụng  
mang dạ chửa, sắp đến ngày sinh nở.  
(d) Không có miếng ăn, người mẹ không tiếc mạng sống / sinh mệnh của mình, mà chỉ thương  
cho các con vô tội...  
(e) Nỗi thất vọng trong tình yêu còn lớn hơn, vì tình yêu đã không mang lại hạnh phúc.  
Ở đây, cần phân biệt lỗi kết hợp sai nghĩa từ vựng với hiện tượng kết hợp sai ngữ pháp như sai  
đặc điểm từ loại, sai vị trí các thành tố trong cấu tạo cụm từ.  
So sánh các ví dụ sau đây :  
(a) Chị Sứ đang nằm trong sự thâm độc của bọn giặc ...(BVHS).  
(b) Dưới sự lãnh đạo rất tài năng của Ðảng, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi hai cuộc cách  
mạng giải phóng dân tộc(BVHS).  
(c) Có người phải qua tám, chín năm rèn luyện trong kháng chiến mới hiểu được câu nói của Bác  
rất đơn sơ(NLPBCL, T.III).  
Trong ví dụ (a), động từ nằmcó thể kết hợp với danh từ, ngữ danh từ làm bổ tố đứng sau, xét về  
mặt ngữ pháp. Nhưng về mặt nghĩa, danh từ, ngữ danh từ phải mang nét nghĩa nơi chốn, vị trí cụ  
thể hay trừu tượng (nằm trong bụng mẹ, nằm trong buồng tối...). Như vậy, hiện tượng kết hợp sai  
ở đây là sai về nghĩa từ vựng.  
Trong ví dụ (b), phó từ chỉ mức độ rất không thể kết hợp với danh từ tài năng, chỉ sự vật. Kết  
hợp như vậy là sai đặc điểm từ loại. Những trường hợp rất kết hợp với danh từ mà theo chuẩn  
mực ngữ pháp, có thể chấp nhận được, thực chất, các danh từ này đã chuyển loại, mang đặc điểm  
của tính từ (rất Việt Nam, rất trăng).  
Trong ví dụ (c), vị trí của các định tố trong cụm từ câu nói của Bác rất đơn sơđã bị kết hợp sai.  
Theo chuẩn mực ngữ pháp, trong ngữ danh từ, định tố biểu thị ý nghĩa tính chất phải đứng trước  
định tố biểu thị ý nghĩa sở thuộc. Do đó, phải chuyển đổi vị trí hai định tố lại : câu nói rất đơn sơ  
của Bác. Hiện tượng kết hợp sai vị trí của các định tố như vậy thể dẫn đến sai ngữ pháp ở cấp  
độ tổ chức câu. Ðó là câu chập cấu trúc ngữ pháp.  
3.2. Kết hợp trùng lặp, thừa từ ngữ :  
Loại lỗi này gồm hai kiểu lỗi nhỏ, có liên quan với nhau : kết hợp trùng lặp kết hợp thừa.  
Kết hợp trùng lặp hiện tượng lặp đi lặp lại một cách tự phát và không cần thiết những từ, ngữ  
nào đó trong câu.  
dụ :  
(a) Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của nền văn học nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán, trong  
những tác phẩm viết bằng chữ Hán thì tác phẩm Những điều trông thấylà tác phẩm nổi  
bật(BVHS).  
(b) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối chính sách của Ðảng của cách mạng, tuyệt đối trung  
thành vào đường lối cách mạng cao, đường lối sách lược của cách mạng(BVHS).  
(c) Có nhiều nhà thơ đã dùng thơ văn của mình làm khí đấu tranh,tố cáo tội ác của giặc, kêu  
gọi đoàn kết đấu tranh, tiêu biểu Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng thơ văn của mình như một vũ  
khí đấu tranh sắc bén đánh thẳng vào mặt kẻ thù (BVHS).  
(d) Chúng ta suy nghĩ thế nào về hình ảnh người mẹ cầm súng đang trực diện với kẻ thù, quả thật  
đây là hình ảnh vô cùng cao đẹp, một hình ảnh chỉ thể được ở chị Út, người chiến sĩ cách  
mạng chân chính của nhân dân ta(BVHS).  
Hiện tượng kết hợp trùng lặp từ, ngữ xuất hiện khá phổ biến trong bài viết của học sinh THPT,  
nhất học sinh lớp 10 và 11. Trong số lượng bài viết của học sinh THPT mà chúng tôi đã khảo  
sát, có hơn 50% bài mắc loại lỗi này. Bài sai ít là bài có hai, ba lỗi. Bài sai nhiều lên đến năm,  
bảy lỗi. biệt, có bài sai hàng chục lỗi. Trong bài viết học sinh cấp THCS, loại lỗi này xuất  
hiện nhiều hơn.  
Kết hợp trùng lặp từ, ngữ sẽ làm cho câu văn đơn điệu, nặng nề, tạo ra những yếu tố thừa thãi  
không cần thiết, và có thể làm cho câu văn rối cấu trúc ngữ pháp, lủng củng về ý nghĩa.  
Kết hợp thừa từ ngữ hiện tượng sử dụng từ, ngữ nội dung biểu đạt đồng nhất hay bao hàm  
lẫn nhau trong văn cảnh, sự đồng nhất hay bao hàm này là không cần thiết.  
dụ :  
(a) Họ nguyện chiến đấu đến cùng cho đến chết (BVHS).  
(b) Bài thơ đã thốt lên kêu trời trước nỗi đau của người mẹ đã không nuôi nổi đàn con, đành phải  
nhìn chúng chết đói(BVHS).  
(c) Nói về tình cảnh khổ cực của nhân dân lao động bị áp bức, Ngô Tất Tố có sáng tác tác phẩm  
Tắt đènnói lên cảnh nghèo khổ của vợ chồng chị Dậu(BVHS).  
(d) Mặc dù anh đã chết, nhưng cái chết của anh đã thể hiện một tinh thần chiến đấu vô biên, hiên  
ngang, bất khuất, không chịu khuất phục trước kẻ thù, ngay khi hồn đã lìa khỏi xác(BVHS).  
Hiện tượng từ, ngữ nội dung biểu đạt đồng nhất hay bao hàm lẫn nhau trong văn cảnh xuất  
hiện khá nhiều trong bài viết của học sinh. Hiện tượng này tạo nên sự thừa thãi, luộm thuộm, và  
thể làm cho câu văn lủng củng về cấu trúc cũng như ý nghĩa.  
Nhìn chung, nguyên nhân dẫn đến lỗi kết hợp trùng lặp, thừa từ, ngữ là do học sinh nghèo nàn về  
vốn từ, hiểu nghĩa của từ, ngữ không chính xác. Lỗi này còn do học sinh không bao quát được  
thông báo của cả câu, suy nghĩ thiếu chặt chẽ trong quá trình viết.  
Sửa lỗi kết hợp trùng lặp, trước hết, dựa vào chức năng cấu tạo câu, chúng ta xét xem từ, ngữ  
trùng lặp thừa không. Nếu thừa thì loại bỏ. Ðối với từ, ngữ trùng lặp nhưng không thừa, do sự  
quy định của cấu trúc câu, chúng ta tìm từ, ngữ khác có giá trị biểu đạt tương đương để thay thế.  
Trong trường hợp câu có nhiều ngữ đoạn trùng lặp chồng chéo, rối rắm về ý nghĩa, chúng ta có  
thể thay đổi cách diễn đạt ở những chỗ cần thiết.  
Các trường hợp trùng lặp vừa dẫn thể sửa chữa như sau :  
(a) Nguyễn Du là một nhà thơ lớn, nhiều đóng góp trong nền văn học cổ Việt Nam, (.) trong  
các tác phẩm viết bằng chữ Hán của ông, Những điều trông thấylà một trong những bài thơ tiêu  
biểu.  
Câu (a) được sửa theo cách loại bỏ ngữ đoạn trùng lặp, thừa thãi, kết hợp với việc thay thế bằng  
từ ngữ khác và thay đổi cách diễn đạt.  
(b) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối, chính sách của Ðảng, của cách mạng.  
Câu (b) được sửa theo cách loại bỏ các ngữ đoạn trùng lặp, thừa thãi.  
(c) Có nhiều nhà thơ đã dùng ngòi bút làm khí đấu tranh, tố cáo (vạch trần) tội ác của giặc,  
kêu gọi nhân dân đoàn kết chống kẻ thù, tiêu biểu Nguyễn Ðình Chiểu.  
(d) Chúng ta suy nghĩ thế nào về hình ảnh người mẹ cầm súng đang đấu tranh trực diện với kẻ  
thù ? Hình ảnh ấy thật cao đẹp, mang tính chất tiêu biểu cho người chiến sĩ cách mạng chân  
chính.  
Hai câu (c) và (d) sửa lại theo cách loại bỏ bớt yếu tố trùng lặp, thừa thãi, loại bỏ ngữ đoạn có  
nội dung biểu đạt thiếu chính xác.  
Sửa chữa lỗi kết hợp thừa từ, ngữ, chủ yếu là chúng ta loại bỏ các yếu tố thừa thãi, kết hợp với  
việc thay đổi cách diễn đạt, nếu thấy cần thiết.  
Các hiện tượng kết hợp thừa từ, ngữ đã dẫn thể sửa chữa lại như sau :  
(a) Họ nguyện chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng / đến cùng.  
(b) Bài thơ tiếng kêu thương trước nỗi đau của một người mẹ, đã không nuôi nổi đàn con,  
đành phải nhìn chúng chết đói.  
(c) Viết về tình cảnh khốn quẫn, cùng đường của người nông dân (trong chế độ thực dân nửa  
phong kiến), Tắt đèncủa Ngô Tắt Tố một trong những tác phẩm tiêu biểu.  
Hay :  
Tắt đèncủa Ngô Tất Tố là tác phẩm viết về tình cảnh khốn quẫn, cùng đường của vợ chồng chị  
Dậu.  
(d) Mặc dù anh hi sinh, nhưng cái chết của anh đã thể hiện nổi bật tinh thần chiến đấu hiên  
ngang, bất khuất trước kẻ thù.  
Cần phân biệt lỗi kết hợp trùng lặp với hiện tượng lặp từ, ngữ một cách có ý thức, nhằm thể hiện  
nổi bật nội dung muốn biểu đạt.  
So sánh :  
(a) Chị tuyệt đối trung thành với đường lối, chính sách của Ðảng, tuyệt đối trung thành với lí  
tưởng cách mạng mà mình đã đeo đuổi(BVHS).  
(b) Có nhiều nhà thơ đã dùng thơ văn của mình làm khí đấu tranh, tố cáo tội ác của giặc, kêu  
gọi đoàn kết đấu tranh, tiêu biểu Nguyễn Ðình Chiểu đã dùng thơ văn của mình như một vũ  
khí đấu tranh sắc bén đánh thắng vào mặt kẻ thù (BVHS).  
Trong câu (a) , tổ hợp tuyệt đối trung thành được lặp lại với mục đích nhấn mạnh lập trường kiên  
định của nhân vật chị Út Tịch. Thực chất, đây chính là phép tu từ điệp ngữ, một trong những  
biện pháp tu từ về mặt từ vựng - ngữ nghĩa. Còn trong câu (b), hiện tượng lặp lại các cụm từ  
dùng thơ văn của mình, khí đấu tranhchỉ làm cho câu văn nặng nề, lủng củng, tạo nên sự thừa  
thãi, chớ không có giá trị về mặt nội dung biểu đạt.  
3.3. So sánh khập khễnh :  
So sánh khập khễnh loại lỗi kết hợp, trong đó đối tượng được so sánh và đối tượng dùng để so  
sánh không có dấu hiệu tương đồng hay dấu hiệu tương đồng không tiêu biểu.  
Trên bình diện tu từ, so sánh là một biện pháp trau chuốt, gọt giũa từ ngữ, trong đó, người viết  
đối chiếu hai hay nhiều đối tượng một dấu hiệu tương đồng nào đó, nhằm làm nổi bật lên đặc  
điểm của đối tượng được nói đến. So sánh tu từ nếu được vận dụng đúng, giữa đối tượng được so  
sánh và đối tượng dùng để so sánh có dấu hiệu tương đồng, mang tính chất tiêu biểu, thì ngôn  
ngữ trở nên sinh động, giàu sắc thái gợi tả, gợi cảm.  
dụ:  
Chế độ phong kiến nanh ác đã cướp lại miếng mồi ngon của nó. Thúy Kiều sẽ như đóa hoa trên  
ngọn sóng, ba chìm bảy nổi, phiêu dạt khôn cùng(NLPBCL, T.III ).  
Nhưng nếu học sinh không nắm vững cách dùng biện pháp tu từ này thì dễ dẫn đến hiện tượng so  
sánh khập khễnh, một kiểu lỗi kết hợp.  
dụ:  
(a) Mẹ con chị Uït giống như những vì sao trên trời, sau cơn mưa, những vì sao ấy quần tụ lại  
với nhau, sáng lấp lánh(BVHS).  
(b) Sức mạnh của đoàn kết như một đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộng(BVHS).  
(c) Nếu như những thiên thần thoại, truyền thuyết giống như những lớp sóng cồn giữa đại dương  
ầm ì vang dội, thì những câu ca dao, dân ca giống như cơn gió thoảng giữa trưa hè ru ngủ hồn  
ta”(BVHS).  
Trong câu (a), giữa mẹ con chị Uït, đối tượng được so sánh, và những vì sao trên trời, đối tượng  
dùng để so sánh, không có điểm tương đồng nào cả. Biện pháp so sánh này không thể chấp nhận  
được. Trong ví dụ (b), đối tượng dùng để so sánh quá thô vụng. Không thể dùng hình ảnh một  
đàn trâu cày phăng phăng thửa ruộngđể ví von với sức mạnh của đoàn kết.Trong câu (c), học  
sinh đã dùng phép so sánh hai lần. Thứ nhất là so sánh những thiên thần thoại, truyền thuyếtvới  
những lớp sóng cồn giữa đại dương. Ở đây, khó mà xác định được dấu hiệu tương đồng giữa hai  
đối tượng. Thứ hai là so sánh những câu ca daovới cơn gió thoảng giữa trưa hè. Ðọc thoáng qua,  
tưởng chừng như thể chấp nhận được. Nhưng cân nhắc kĩ, chúng ta thấy cách so sánh này vẫn  
khập khễnh. Bởi vì, nội dung ca dao, dân ca không chỉ nhẹ nhàng, mát mẻ như cơn gió thoảng  
giữa trưa hè.  
Lỗi so sánh khập khễnh xuất hiện tương đối ít trong bài viết của học sinh, ít nhất so với các loại  
lỗi dùng từ khác.  
Nguyên nhân dẫn đến lỗi so sánh là do, một mặt suy nghĩ của học sinh non nớt, vụng về ; mặt  
khác, học sinh lại muốn trau chuốt, đẽo gọt chữ nghĩa, nhưng không nắm vững biện pháp tu từ  
này.  
Ðối với lỗi so sánh khập khễnh, chỉ thể sửa chữa bằng cách loại bỏ đối tượng dùng để so sánh,  
xác định lại nội dung học sinh muốn biểu đạt, trên cơ sở đó, vận dụng các phương tiện từ vựng,  
cú pháp tổ chức lại câu sao cho phù hợp với chuẩn mực ngữ pháp.  
Ba ví dụ vừa dẫn thể sửa chữa như sau :  
(a) Sau mỗi trận đánh, mẹ con chị Út lại sum họp, quây quần bên nhau, trông thật đầm ấm, cảm  
động.  
(b) Tinh thần đoàn kết thể tạo nên sức mạnh dời non lấp biển.  
(c) Nếu thần thoại, truyền thuyết thiên về mặt phản ánh những vấn đề trọng đại, lớn lao của lịch  
sử, hội, thì ca dao, dân ca có xu hướng thể hiện đời sống tâm tư, tình cảm, phong tục, tập  
quán muôn màu muôn vẻ của nhân dân.  
docx 13 trang yennguyen 05/04/2022 5400
Bạn đang xem tài liệu "Rèn luyện kỹ năng dùng từ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxren_luyen_ky_nang_dung_tu.docx