Nghệ thuật tạo hình của đồ gốm thời Trần

NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH CỦA ĐỒ GỐM THỜI TRẦN  
Lê Hoài Đức  
Khoa Giáo dục Tiểu học và Mầm Non  
Email: Duclh@dhhp.edu.vn  
Ngày nhận bài: 18/3/2020  
Ngày PB đánh giá: 27/4/2020  
Ngày duyệt đăng: 08/5/2020  
TÓM TẮT: Nghệ thuật tạo hình trên đồ gốm thời Trần chiếm một vị trí quan trọng trong nền mĩ thuật  
cổ nước ta. Nó đã đặt nền móng cho sự kế thừa và phát triển trong trang trí đồ gốm Việt Nam sau này.  
Đồ gốm thời Trần được thừa hưởng những tinh hoa nghệ thuật của thời Lý, song kết hợp với tinh thần  
hào khí Đông A quật cường đã tạo nên một nền nghệ thuật đặc sắc với nhiều thành tựu độc đáo. Bài viết  
phân tích những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật gốm thời Trần thông qua đề tài trang trí, hình thức thể,  
kĩ thuật tạo hình, phong cách và ngôn ngữ tạo hình của đồ gốm thời Trần.  
Từ khóa: Nghệ thuật, tạo hình, đồ gốm thời Trần, gốm, hoa văn, họa tiết, gốm hoa lam, gốm hoa nâu,  
gốm men ngọc  
GRAPHIC ARTS IN POTTERY OF TRAN DYNASTY  
ABTRACT: The art of forming on pottery of the Tran dynasty occupies an important position in  
our country’s ancient art. It laid the foundations for succession and development in later Vietnamese  
pottery decoration. Pottery in the Tran dynasty inherited the artistic quintessence of the Ly dynasty, but  
combined with the spirit of Dong A exhortation to create a unique art with many unique achievements.  
The paper analyzes the basic characteristics of Tran dynasty pottery art through the theme of decoration,  
form, shaping techniques, style and visual language of Tran dynasty pottery.  
Keywords: art, Tran dynasty pottery, pottery, pattern, blue pottery, brown pottery, celadon pottery  
1. ĐẶT VẤN ĐỀ  
gốm chưa được quan tâm nhiều. Một số  
bài báo, công trình nghiên cứu về gốm sứ  
chủ yếu đi theo hướng khảo tả về kĩ thuật  
của lịch sử gốm sứ Việt Nam, chưa phân  
tích sâu về nghệ thuật tạo hình. Với mục  
đích chỉ ra được vẻ đẹp của gốm sứ Việt  
Nam đồng thời phân tích sự khác nhau về  
mĩ thuật của hai triều đại Lý - Trần cũng  
như các giai đoạn sau, thì bên cạnh việc  
nhìn vào các di vật của điêu khắc, kiến  
trúc… ta còn có thể tìm hiểu thêm ở đồ  
gốm. Riêng với hội họa thời Trần vì không  
còn bức tranh nào để nghiên cứu nên  
chúng ta chỉ có thể dựa vào hình vẽ trên đồ  
Mĩ thuật thời Trần phát triển trên cơ  
sở nền móng đã có từ thời Lý. Tuy vậy do  
điều kiện, hoàn cảnh xã hội khác nhau dẫn  
đến quan điểm thẩm mĩ khác nhau. Nếu mĩ  
thuật thời Lý đi theo hướng cách điệu cao,  
đường nét chau chuốt, tỉ mỉ thì mĩ thuật  
thời Trần lại chuyển sang khuynh hướng  
hiện thực, cách tạo hình và bố cục đơn  
giản, khái quát và khỏe khoắn như mang  
trong nó hào khí Đông A. Khi nói đến lịch  
sử mĩ thuật thời Trần các nhà nghiên cứu  
thường tập trung khai thác ở các mảng  
kiến trúc, điêu khắc… mảng về nghệ thuật  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
76  
gốm mà suy ra hội họa của giai đoạn này.  
Vì vậy khi nghiên cứu nghệ thuật tạo hình  
trên đồ gốm thời Trần cũng là một hướng  
đi để tìm hiểu về lịch sử tạo hình của cha  
ông ta thế kỷ XIII-XIV.  
Gốm men ngọc là loại gốm nổi tiếng  
từng được sản xuất ở một số nước Đông  
Á như Trung Quốc, Triều Tiên... Ở nước  
ta, gốm men ngọc xuất hiện từ thời Lý.  
Tiếp nối truyền thống, gốm men ngọc thời  
Trần được sản xuất với đặc điểm tạo dáng  
chắc khỏe, cốt dày dặn, cân đối, đế dày [7,  
tr.109]. Nó là những sản phẩm sành trắng  
được phủ một lớp men màu xanh nhạt, khi  
hoàn thành có thể đạt những sắc độ khác  
nhau như: xanh lá non, ngả màu da trời,  
màu lá cây úa, hoặc lá cây hơi ngả nâu.  
Lớp men ở bên ngoài thường được tráng  
dày và không đều, chỗ dày chỗ mỏng, có  
độ trong tạo cảm giác như ngọc thạch. Kết  
hợp với những nét hoa văn khắc chìm tinh  
tế, gốm men ngọc mang vẻ đẹp sâu thẳm,  
quý phái [2, tr.84-85].  
2. NỘI DUNG  
2.1. Đôi nét tìm hiểu về đồ gốm thời Trần  
Gốm là những sản phẩm làm từ đất  
sét, có thể tráng thêm lớp men sau được  
nung qua lửa mà tạo thành những sản  
phẩm trang trí hoặc đồ gia dụng. Trong  
quá trình phát triển nghề gốm ở Việt nam  
từ thời Lý, nghệ thuật chế tạo đã đi được  
những bước tiến khá dài với trình độ cao  
về kỹ thuật cũng như nghệ thuật tạo hình  
và nghệ thuật trang trí. Thời Lý có hai loại  
gốm chính: gốm đất nung thường được  
trang trí trên các công trình kiến trúc với  
những nét đẽo gọt, hình khối tinh tế và  
gốm gia dụng được tráng men ngọc trau  
chuốt và thanh nhã. Đặc biệt, nghệ thuật  
trang trí trên gốm không sử dụng men màu  
mà theo lối khắc hoa văn trực tiếp tạo nên  
những đường nét khắc họa linh hoạt. Thời  
Trần phát triển trên cơ sở truyền thống  
từ thời Lý nhưng có những dấu ấn riêng  
biệt mang đậm phong cách hiện thực thể  
hiện tinh thần thượng võ, mộc mạc nhưng  
không kém phần duyên dáng.  
Gốm hoa nâu là loại gốm độc đáo rất  
phổ biến trong thời đại nhà Trần. Kiểu  
dáng to khỏe, phóng khoáng, cốt gốm dày  
dặn, chất đất thô xốp hơn gốm men ngọc,  
phủ ngoài một lớp men màu trắng ngà hay  
vàng nhạt. Trang trí hoa văn trên gốm theo  
lối vẽ khắc thành đường viền rồi dùng màu  
nâu (được chiết xuất từ đá son tự nhiên) tô  
vẽ thành mảng trên nền thoáng màu vàng  
nhạt. Có khi là nền nâu khắc vẽ men trắng  
hoặc khắc chìm để mộc. Gốm hoa nâu có  
vẻ đẹp giản dị, chắc khỏe và rất phong phú  
về kiểu dáng, chủ yếu phục vụ cho những  
sinh hoạt đời sống hàng ngày.  
Gốm đất nung trên các công trình  
kiến trúc tạo hình những đầu rồng, chim  
Gốm hoa lam xuất hiện mờ nhạt vào  
khoảng cuối thời Trần và phát triển rực  
rỡ ở thời Lê. Gốm hoa lam là loại gốm  
phủ men trắng đục, vẽ trang trí màu hoa  
lam. Màu lam, lấy từ ô xít cô ban cũng  
đã xuất hiện trên đồ sứ của nhiều nước và  
được du nhập vào nước ta. Gốm có hình  
dáng thanh chắc, thể hiện nhuần nhuyễn.  
Cốt đất màu trắng xám, đãi lọc sạch mịn,  
ngoài cốt phủ men trắng với một kĩ thuật  
phượng, đầu đao… được tìm thấy ở khu  
Thiên Trường/Nam Định hay ở khu lăng  
mộ đền thờ các vua Trần đều thể hiện một  
thủ pháp thoáng đạt, đơn giản, chắc khỏe  
chứ không mang tính trau chuốt, tỉa gọt  
đậm nét như thời Lý.  
Đồ gốm gia dụng phủ men gồm có: Gốm  
men ngọc, Gốm hoa nâu, gốm men nâu,  
gốm hoa lam, gốm men trắng, trắng ngà.  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020  
77  
nhúng đều tay, nung ở nhiệt độ cao nên  
lớp men mỏng, mịn, đều. Cho đến ngày  
nay, gốm hoa lam vẫn còn được sản xuất  
tại Bát Tràng, Móng Cái, Biên Hòa, và  
nhiều lò thủ công khác.  
+ Hoa văn hoa sen kết hợp hoa cúc,  
trong đó hoa sen cách điệu kết hợp với  
những vòng dây lá. Ở loại đồ án này, hoa  
sen theo kiểu bổ dọc nhìn nghiêng, nhưng  
độ nghiêng hơi chếch để có thể nhìn thấy  
gương sen với một số hạt. Các cánh sen  
dài, cong, vòng ôm trọn lấy phần trên của  
gương sen. Lá là hình hài của hoa cúc.  
Họa tiết mang tính cách điệu khá cao, có  
bố cục cân đối, đơn giản nhưng vẫn lột tả  
được vẻ đẹp của hoa sen.  
Gốm men nâu cũng có đặc điểm như  
gốm hoa nâu nhưng toàn bộ sản phẩm là  
một màu nâu bao phủ.  
Hoa văn trang trí trên gốm có ba loại:  
hoa khắc, hoa in, và đắp nổi. Các sản  
phẩm gốm thời Trần được trang trí với  
nhiều loại hoa văn phong phú cùng với kĩ  
thuật và phong cách tạo hình riêng biệt.  
+ Hoa văn bố cục cả cụm sen bao gồm  
hoa, lá, nụ đứng thành khóm rất tự nhiên.  
Trong đó, hoa sen chủ yếu được nhìn trong  
bố cục nghiêng với các cánh cách điệu,  
đăng đối với nhau. Lá sen cái nhìn nghiêng,  
cái nhìn chính diện từ trên xuống với nhiều  
chi tiết gân lá theo đúng cấu trúc lá sen.  
Cành sen cái thẳng, cái nghiêng, cái cong  
xuống phía dưới báo hiệu sắp héo tàn. Có  
bố cục còn điểm xuyết thêm cây cỏ, sóng  
nước trông thật tự nhiên và sinh động.  
2.2. Đề tài và hình thức thể hiện trên đồ  
gốm thời Trần  
Nhìn chung, hoa văn trên gốm được  
chia thành các nhóm đề tài:  
Hoa văn thực vật  
Hoa lá là đề tài trang trí chủ yếu của  
gốm thời Trần. Chủ yếu được trang trí trên  
các sản phẩm gốm tráng men, những đồ  
gia dụng như bát, đĩa, liễn, lọ, thạp… rồi  
các sản phẩm xây dựng như gạch, ngói…  
với họa tiết hoa cúc, hoa sen, hoa chanh,  
hoa thị. Trong đó họa tiết hoa cúc và hoa  
sen cách điệu có nhiều mẫu đẹp, độc đáo.  
Hoa cúc là loài hoa được nằm trong “tứ  
quân tử” theo như quan niệm của Trung  
Hoa. Ở Nhật Bản, hoa cúc chỉ dành cho  
nhà vua và quý tộc. Ở Việt Nam, hoa cúc  
là loài hoa được yêu quý, bởi lẽ nó tượng  
trưng cho phẩm chất thanh cao, chịu được  
giá lạnh sương sa, có nhiều màu rực rỡ và  
rất lâu tàn. Trong nghệ thuật trang trí gốm  
thời Trần sử dụng rất nhiều hình ảnh của  
hoa cúc để trang trí. Đặc biệt là thể loại  
gốm hoa nâu với các dạng sau:  
Hoa sen là loài hoa mọc ở dưới ao hồ,  
thường có màu hồng hoặc trắng, có mùi  
hương thơm mát thanh tao. Hoa sen có ý  
nghĩa và gắn liền với triết lí của nhà Phật.  
Hoa sen đã ăn sâu vào tiềm thức của người  
dân đất Việt, nên không lấy gì làm lạ khi  
họa tiết hoa sen lại rất phổ biến như vậy.  
Hoa sen trên gốm thời Trần được vẽ với  
nhiều hình dạng và trạng thái khác nhau.  
+ Hoa văn hoa cúc cách điệu thành dây  
băng dài uốn lượn hình sin với lối nhìn  
nghiêng, bổ dọc, đôi khi được kết hợp cả  
hoa sen.  
+ Hoa cúc trên gạch lát nhà có thể nằm  
trong bố cục hình tròn với hình bông cúc  
lớn ở giữa, vòng ngoài là các bông cúc nhỏ  
hơn ở các cạnh vuông của viên gạch. Cũng  
có loại trang trí thành đường dây uốn lượn  
với hình bông cúc được cách điệu khá cao.  
+ Bông sen có nhiều cánh cách điệu,  
đăng đối sang hai bên với lối nhìn nghiêng.  
+ Hoa sen nhìn từ trên xuống thấy trọn  
gương sen và các hạt, các lớp cánh cách  
đều, nhiều lớp, so le với nhau.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
78  
+ Hoa cúc có xu hướng hiện thực, đó  
là hình cả cây cúc mọc lên có hoa và lá,  
nhiều cây cúc mọc lên với nhau tạo cảm  
giác như một chậu cúc tự nhiên.  
nhọn, có dạng đuôi xoắn tròn, hay có dạng  
đuôi có vân xoắn ốc. Có Rồng ba móng,  
và đặc biệt xuất hiện rồng bốn móng. Bố  
cục rồng cũng có sự đa dạng. Rồng trong  
bố cục tròn; Rồng chầu nghiêng; đôi rồng  
vờn nhau; rồng uốn lượn từ trên xuống,  
đầu ngẩn lên; thậm chí có bố cục chỉ  
thấy đầu và một phần đuôi rồng, không  
thấy thân. Đối với đồ gốm, Rồng chủ yếu  
trong bố cục nhìn nghiêng uốn lượn, bố  
cục rồng chầu lá đề trang trí trên các công  
trình kiến trúc. Ngoài ra còn hình đầu rồng  
nhìn nghiêng ở các đầu đao, hoặc rồng  
cuộn tròn trong lòng đĩa tráng men.  
Họa tiết hoa thị và hoa chanh của yếu  
được sử dụng trên các sản phẩm xây dựng  
như gạch lát, gạch phù điêu, gạch trổ thủng  
dùng để lợp mái hoặc ốp lát sân, tường.  
Hoa văn động vật  
Hoa văn hình rồng, phượng: Rồng  
phương Đông vốn là đề tài trang trí quen  
thuộc tượng trưng cho quyền lực, vua  
chúa, là biểu tượng của điềm lành và sự  
phồn thịnh. Chính vì vậy rồng hay được  
chạm khắc và trang trí ở những nơi trang  
trọng. Hình tượng rồng chủ yếu được thể  
hiện trên dòng gốm đất nung [6, tr.61].  
Phượng là một loài chim thiêng và  
được coi là chúa tể của các loại chim. Nó  
được mô tả có bộ lông rực rỡ, đầu là đầu  
chim trĩ, mào gà trống, mỏ chim nhạn,  
đuôi công, lông mượt như lụa, óng ánh  
như rực lửa. Phượng là điềm báo cho sự  
tốt lành, xã hội thái bình, có thánh nhân  
xuất hiện [3, tr.77].  
Nếu như thời Lý, rồng thân rắn mảnh  
mai, uốn lượn hình thắt túi, đầu cổ ngước  
cao, mắt to hơi lồi, chân dài có ba móng,  
lưỡi, bờm dài, có mào lửa, răng nhọn và  
cong, có hoa văn hình chữ s trên đầu và  
luôn luôn trong tư thế nghiêng ngẩn lên  
há miệng hứng một viên ngọc. Toàn thân  
hầu như không có vẩy. Người xưa trang trí  
rồng ở các công trình kiến trúc cung đình  
và kiến trúc phật giáo. Có thể là cả thân  
rồng nhìn nghiêng, hoặc đầu rồng nhìn  
nghiêng. Đặc biệt có cấu trúc bố cục rồng  
chầu lá đề [1, tr.142-143].  
Hoa văn hình chim phượng thường  
được dùng trang trí trên nhiều di tích chùa,  
như chùa Bối Khê, chùa Dâu, chùa Thái  
Lạc… đối với gốm đất nung, kiểu cách  
và hình dáng chim Phượng rất giống với  
Phượng đất nung thời Lý. Từ kiểu cách  
bố cục cho tới các chi tiết lông. Đuôi, mỏ,  
cổ… Chúng ta thường thấy chúng được bố  
cục thành đôi trong các khuôn hình lá đề  
hoặc đứng độc lập trên một đao lửa của  
ngói bò. Phượng thường bố cục theo lối  
nhìn nghiêng, lông đuôi dài bay uốn lượn  
lên phía trên. Phía trong cốt đuôi được thể  
hiện thành những chấm tròn chạm thành  
dải dài. Hai cách phượng dang rộng trong  
tư thế vỗ bay lên. Cổ phượng ngắn, mắt  
tròn, đầu nhỏ, bờm gáy bay vút lên phía  
trên. Hai chân phượng ngắn mập, các  
ngón to, móng sắc nhọn đang bám chặt  
vào đao lửa phía dưới.  
Rồng thời Trần lại được phác họa dưới  
nhiều hình thức, kiểu dạng, bố cục phức  
tạp hơn. Thời Trần, hình tượng Rồng cũng  
có hình dáng gần giống với rồng thời Lý,  
song có những nét đặc trưng khác biệt.  
Rồng Trần chắc khỏe, mập mạp, độ uốn  
lượn thân thoải mái hơn, có vẩy xuống  
tận đuôi. Đầu rồng đơn giản hơn rồng thời  
Lý, có sừng, răng nanh dài nhọn, và đôi  
tai mang dáng vẻ uy nghi. Hình dáng rồng  
Trần cũng rất đa dạng: có dạng đuôi vút  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020  
79  
Đối với đồ gốm, hoa văn hình rồng, hình  
phượng chủ yếu được trang trí ở thể loại  
gốm đất nung trên các công trình kiến trúc.  
Hoa văn hình con người  
Con người trên gốm thời Trần được  
thể hiện rất hiện thực, sinh động và phong  
phú về cuộc sống. Có bố cục hình người  
đơn lẻ, bố cục hai người, hay bố cục cả  
một nhóm người, tất cả đều nhìn trong tư  
thế nghiêng với những nét đơn giản và  
mộc mạc kết hợp với các họa tiết cây cỏ  
hoặc động vật. Họa tiết diễn tả về các hoạt  
động thường nhật của con người với lối  
nhìn ước lệ, khoáng đạt và mang tính hiện  
thực [4, tr.97].  
Hoa văn hình đầu rồng, đầu phượng  
bằng đất nung khối tròn hoặc chạm bẹt  
trang trí trên bờ nóc, đầu đao còn tìm  
thấy ở khu Thiên Trường và khu lăng mộ  
vua Trần.  
Hoa văn động vật được mô tả rất sinh  
động với nhiều loài và nhiều động tác khác  
nhau trên gốm thời Trần. Hoa văn động  
vật thường được kết hợp với các dạng hoa  
văn khác như hoa lá hay con người với các  
hoạt động mang tính hiện thực. Hình vẽ  
các loài động vật ở đây chủ yếu được vẽ  
theo bố cục nhìn nghiêng với đầy đủ các  
đặc điểm giống loài kết hợp với các tư thế  
phù hợp với nội dung trang trí trên gốm.  
+ Hình người múa khiên với nhiều nét  
cách điệu. Tay trái cầm khiên, tay phải  
cầm kiếm với thế đứng chiến đấu.  
+ Hai người đấu kiếm, luyện tập võ  
nghệ với các động tác rất thực thể hiện  
tinh thần thượng võ.  
+ Hoa văn loài chim: thể hiện khá  
nhiều loài chim khác nhau: chào mào,  
cò, gà, vẹt… Mô tả chim đang đi, cúi đầu  
tìm kiếm thức ăn với đặc điểm hình dáng  
tương đối thực, hay gà chọi kiếm ăn đang  
ngậm được con mồi.  
+ Con người với những hoạt động như  
săn bắn, gánh nước, rước lễ thành những  
nhóm dài nối nhau vòng quanh thân gốm.  
Hoa văn mây, sóng, nước  
Các họa tiết như mây, sóng, nước trên  
gốm chủ yếu dùng để bổ trợ cho những  
dạng họa tiết khác. Các họa tiết này mang  
tính cách điệu cao, có thể lặp đi lặp lại  
thành một đường diềm hoặc kết hợp nhiều  
nét đồng dạng với nhau với nhiều biến  
thiên lên xuống mềm mại tạo vẻ đẹp bay  
bổng, ổn định, cân bằng cho bố cục.  
+ Hoa văn hình ngựa thể hiện con ngựa  
đang chạy rất nhanh, hai vó chi trước tung  
vào không trung, đầu lao về phía trước,  
hai chân sau tung về phía sau. Trên có yên  
ngựa cho thấy đây là ngựa dùng để cưỡi.  
Cũng có những họa tiết ngựa có người  
cưỡi đi rất thong dong.  
Nghệ thuật thời Trần mang yếu tố hiện  
thực nên có nhiều sản phẩm kết hợp nhiều  
loại hoa văn trên cùng một sản phẩm gốm.  
Chẳng hạn: Một số những mẫu vật như  
thạp gốm chia thành nhiều ô với các dạng  
họa tiết khác nhau. Ô thứ nhất vẽ hai chiến  
sĩ đấu võ, mình trần đóng khố, vũ trang  
khiên, giáo, chuẩn bị lao vào cuộc chiến  
đấu. Ô vẽ người đứng xoạc chân. Ô nữa  
vẽ voi xung trận với những người lính  
ngồi trên. Chúng ta có thể thấy tinh thần  
+ Hoa văn hình voi: hoa văn diễn tả  
chú voi với dáng tương đối thực đang đi,  
có những tấm thảm phủ lên thân voi. Cũng  
có hình dạng voi xung trận với những  
chiến sĩ ở trên mình voi.  
+ Hoa văn hình Hổ: Mặc dù chỉ lướt  
qua các nét hình rất đơn giản nhưng hình  
dáng con hổ hiện lên rất động và rất thực,  
thể hiện được đặc điểm giống nòi của loài  
mãnh thú.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
80  
thượng võ của nhà Trần được phản ánh  
rất sinh động qua những hoa văn trang trí  
trên gốm. Hay ví như chiếc thạp có trang  
trí tả cảnh săn bắn trong đó có người cầm  
đao, người cầm cung tên đuổi bắn một con  
hươu. Trên thạp kết hợp cây cỏ biểu tượng  
cho rừng. Có thạp lại trang trí hình người  
gánh nước, người đi lại nối vòng quanh  
thạp. Phía trên là đàn chim với nhiều dáng  
vẻ khác nhau chạy vòng quanh. Các dạng  
họa tiết kết hợp với nhau theo từng chủ đề  
trang trí và đặt phù hợp với từng vị trí trên  
sản phẩm gốm.  
có thể đánh giá được trình độ kĩ thuật của  
người thợ. Gốm men ngọc là loại gốm đẹp  
và sang quý nhờ lớp men trong nhìn như  
ngọc bao ở bên ngoài. Gốm men ngọc  
thường có chất xương đất mịn, dày dặn,  
thường là nặng và được nung ở nhiệt độ  
cao. Hoa văn trang trí được khắc chìm trên  
thân sản phẩm với nét khắc sâu nông khác  
nhau, thậm chí cùng một nét nhưng cạnh  
sâu nổi gờ lên, cạnh nông biến vào thân  
gốm rất linh hoạt. Gốm cũng phối hợp kỹ  
thuật khắc chìm với kĩ thuật đắp nổi tạo sự  
phong phú đa dạng cho gốm. Men ngọc  
được làm từ ô xít nguyên dạng tự nhiên lẫn  
trong đất đá, thành phần chủ yếu là do ô  
xít sắt tạo nên. Men ngọc trong và nhẹ nên  
yêu cầu phải tráng dày thì màu mới sâu và  
mượt. Khi kết hợp với các hoa văn trang  
trí được đắp nổi hoặc khắc chìm sẽ tại ra  
những chỗ mỏng dày các nhau. Nhiệt độ,  
thời gian và vị trí đặt trong lò nung cũng  
ảnh hưởng đến màu men khi hoàn thành.  
Do vậy chúng ta thấy gốm men ngọc có  
nhiều sắc độ: xanh lá cây, xanh da trời,  
xanh lá úa, xanh cây ngả nâu…Vì lẽ đó  
mà tạo hiệu ứng hoa văn ẩn hiện, lung linh  
và có chiều sâu.  
2.3. Kỹ thuật tạo hình trên đồ gốm thời Trần  
Gốm thời Trần mang nhiều nét đặc sắc  
không chỉ nằm ở chất gốm, mà còn phụ  
thuộc rất nhiều vào kĩ thuật tráng men và  
trang trí các hoa văn trên gốm. Như chúng  
ta đã biết thời Trần nổi trội với các thể loại  
gốm men ngọc, gốm men nâu, gốm hoa  
lam và đặc biệt là gốm hoa nâu. Mỗi một  
loại gốm đều có đặc điểm và kĩ thuật chế  
tác khác nhau, tạo nên những vẻ đẹp riêng.  
Song đúc kết lại, gốm Trần có các kỹ thuật  
trang trí chính, đó là: đắp nổi, khắc chìm  
và tráng men.  
Gốm hoa nâu có màu men trắng ngà  
tô họa tiết màu nâu, hoặc nền nâu, họa tiết  
màu trắng. Màu nâu được lấy từ đá son, đá  
thối, gỉ sắt, và phù sa mang hàm lượng sắt  
cao. Các họa tiết trang trí chủ yếu sử dụng  
kĩ thuật khắc chìm lên thân sản phẩm.  
Trong giai đoạn này, gốm Việt Nam xuất  
hiện kĩ thuật tô màu lên các họa tiết trang  
trí, mặc dù màu sắc còn hạn chế. Sau khi  
đã hoàn chỉnh xương đất và tráng một lớp  
men, người thợ dùng dao nhọn vẽ họa tiết  
bằng nét lên thân gốm, sau đó mới dùng  
màu nâu tô lên đó rồi đem nung. Cũng có  
thủ pháp thứ hai đó là tạo hoa văn bằng nét  
chìm rồi cạo lớp men phủ lên hình hoa văn,  
và sau đó dùng bút tô màu nâu lên. Ngoài  
Trong quá trình đắp cốt gốm, người  
thợ đắp những hình hoa văn nổi lên trên  
mặt sản phẩm theo ý tưởng trang trí. Có  
thể là tạo trực tiếp trên sản phẩm, hoặc nặn  
tạo hình bên ngoài và đắp cho chúng bám  
chặt vào sản phẩm. Đó chính là kĩ thuật  
đắp nổi. Khắc chìm là hình thức đơn giản  
hơn và không tốn công như đắp nổi. Sau  
khi sản phẩm đã được nặn, chuốt và để se  
lại, người thợ dùng dao hoặc vật sắc nhọn  
vẽ lên thân sản phẩm các họa tiết trang trí.  
Và bước cuối cùng là tráng men. Men  
là lớp áo ngoài của đồ gốm có vai trò bảo  
vệ, tăng độ bền, độ cứng và làm đẹp cho  
sản phẩm. Nhìn lớp men ngoài người ta  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020  
81  
ra, gốm hoa nâu còn có những kĩ thuật đắp  
nổi, chạm lộng lên những chi tiết ở phần  
phụ sản phẩm. Khi nguyên liệu màu nâu  
trở nên dư thừa hơn, gốm hoa nâu chuyển  
thêm sang giai đoạn mới là tráng men màu  
nâu lên toàn bộ sản phẩm chứ không phải  
tô nữa. Theo nghiên cứu của tác giả Trần  
Khánh Chương trong cuốn Gốm Việt Nam  
từ đất nung đến sứ, một số những cổ vật  
tìm được trong giai đoạn này là chiếc bát  
có hình hoa thị ở dưới đáy. Điều đáng chú  
ý ở đây chính là hình hoa đó được vẽ trực  
tiếp bằng bút lông. Như vậy, đây là bước  
đầu có một kĩ thuật mới đó là vẽ thay vì tô  
màu như trước đó. Nó đánh dấu một thời  
kì phát triển mới trong nghệ thuật trang  
trí gốm.  
nghiêm, quy phạm thì đến thời Trần chúng  
ta lại cảm thấy khoáng đạt, khỏe khoắn và  
đơn giản hơn. Về cơ bản, những hoa văn  
trang trí trên gốm thời kì này như hoa lá,  
động vật... đều được đơn giản hóa và cách  
điệu cao. Nhưng điểm khác biệt lớn nhất  
đó là nó mang tính hiện thực. Những bông  
hoa sen, hoa cúc không chỉ có tạo hình  
nghiêng, đăng đối nữa, mà nó được thể  
hiện với nhiều bố cục, có khi là cả khóm  
hoa với đầy đủ lá, hoa, nụ. Hay như hình  
tượng của con người, của muông thú cũng  
hiện ra với những hoạt động như chiến  
đấu, luyện tập võ nghệ, gánh nước hổ voi  
đuổi nhau, cò bắt cá… Tất cả những họa  
tiết được hiện ra theo cảm nhận của người  
vẽ về cuộc sống, về thiên nhiên một cách  
sống động [5, tr.529-530].  
Vào giai đoạn cuối Trần cũng đã manh  
nha tìm được loại men màu lam làm từ ô  
xít côban. Không có dấu ấn rõ ràng về gốm  
hoa lam ở thời Trần, nhưng đó chính là một  
minh chứng về dấu gạch nối giữa gốm hoa  
nâu và gốm hoa lam thời kì sau này.  
Dáng gốm thường dày dặn, to mập,  
chắc khỏe nhưng lại kết hợp với họa tiết  
trên thân gốm khá thoáng, mềm mại uốn  
lượn tạo nên vẻ đẹp giản dị nhưng không  
thô kệch.  
2.4. Phong cách tạo hình của gốm thời Trần  
Hoa văn thời Lý thường có tính quy  
phạm, song hoa văn thời Trần lại mang  
tính tự do thoát khỏi khuôn khổ đó. Loại  
liễn dáng cao thành, thân thẳng, miệng hơi  
thu nhỏ, vai bằng, chung quanh vai đắp nổi  
cách sen tròn mập, sát vai gắn bốn núm  
tai ngang. Trang trí thân liễn chia thành  
ba phần: hai phần nhỏ hẹp chạy quanh  
miệng và chân liễn khắc hoa cỏ cách điệu.  
Phần giữa rộng nhất vẽ một đàn công năm  
con đang lội nước nối đuôi nhau đi vòng  
quanh, mỗi con một dáng vẻ khác nhau rất  
sinh động.  
Mỗi một thời kì lịch sử đều có những  
biến động ảnh hưởng đến tư tưởng, văn  
hóa và nghệ thuật. Thời kì nhà Trần với  
những chiến thắng Nguyên Mông hiển  
hách, với sự du nhập nho giáo song hành  
cùng với đạo Phật đã tạo ra một nền nghệ  
thuật đặc sắc mang nét hào hùng, giản dị  
và đậm chất hiện thực. Nghệ thuật trang  
trí gốm cũng không nằm ngoài luồng tư  
tưởng ấy.  
Gốm thời Trần tiếp nối tinh hoa từ  
gốm thời Lý. Vẫn là những họa tiết về tứ  
linh, về hoa lá, muông thú, con người, về  
thiên nhiên, song hoa văn thời Trần toát  
lên vẻ giản dị, mộc mạc nhưng rất duyên  
dáng. Chúng ta đã biết, nghệ thuật thời  
Lý được đánh giá là chau chuốt, trang  
Có thể nói, từ kĩ thuật trang trí gốm  
thời Lý, gốm thời Trần vận dụng và sáng  
tạo hoa văn dựa trên chính tinh thần chiến  
đấu chống ngoại xâm, tình cảm chân chất  
và ước mơ trong sáng của họ.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
82  
2.5. Ngôn ngữ tạo hình của đồ gốm thời Trần  
nhận chi tiết rườm rà, khó lòng mà thêm  
bớt gì được. Một số những dạng bố cục  
là: bố cục thành dải bao quanh sản phẩm,  
bố cục thành ô dọc trên thân gốm, có thể  
là hoa văn nhắc lại hoặc xen kẽ nhau,  
ngoài ra còn kết hợp với dạng bố cục phức  
tạp trong các họa tiết hoa lá liên kết dây  
nối dây, cành nối cành trông rất đẹp mắt.  
Ví dụ như thạp gốm trang trí hình đoàn  
người gánh nước, quan cưỡi ngựa, lính dắt  
ngựa… theo một dải lớn vòng quanh thân  
gốm, phía trên còn kết hợp những dải nhỏ  
trang trí loài chim và hoa lá. Hay thống  
trang trí chia thành nhiều ô dọc trên thân  
gốm, mỗi một ô là một hình sen dây, kết  
hợp với hoa văn đắp nổi hình cánh sen  
thành vòng tròn trên miệng thống.  
Mỗi một loại hình nghệ thuật đều có  
những ngôn ngữ tạo hình riêng. Đối với  
nghệ thuật gốm, ngôn ngữ tạo hình được  
thể hiện qua: bố cục, mảng, nét, màu sắc.  
Các họa tiết trên gốm thời Trần thể hiện  
những chủ đề rất thân thuộc với người  
Việt. Đó chính là hình ảnh của thiên nhiên,  
con người và các hoạt động trong cuộc  
sống hàng ngày, nên khi vẽ lên mặt gốm  
họ không hề sao chép vụng về mà dựa vào  
trí nhớ, bắt lấy cái thần của sự vật bằng  
nét điển hình, chọn lọc. Đó chính là tính  
cách điệu. Các dạng họa tiết như hoa và  
động vật chủ yếu được nhìn dưới hai góc  
độ: nghiêng và chính diện từ trên xuống.  
Chính vì thế có thể chọn lọc ra đặc điểm  
bao quát, trình bày dưới dạng đơn giản  
nhất mà vẫn đảm bảo tính đặc thù và trang  
trí cao. Các họa tiết hoa lá chim muông  
được diễn tả một cách chân thật, giản dị và  
rõ ràng. Có thể dễ nhận thấy từ cách nhìn  
đó đã hình thành nên các quy tắc đăng đối  
qua trục, nhắc lại của nghệ thuật trang trí.  
Gốm thời Trần còn trang trí kết hợp  
hình khối của điêu khắc với đường nét và  
màu sắc của hội họa. Nếu như gốm đất  
nung thời kì trước chỉ có nét khắc, không  
có men và màu trang trí, gốm hoa lam của  
thời kì sau chỉ có nét vẽ, thì gốm ở thời kì  
này kết hợp cả khắc nét và màu sắc của  
men. Mặc dù gốm khá ít màu, chủ yếu là  
nâu và trắng ngà của gốm hoa nâu và xanh  
ngọc của gốm men ngọc nhưng đã thể  
hiện được độ đậm nhạt thông qua sự kết  
hợp hai màu men như gốm hoa nâu. Hay  
sự thay đổi độ dày mỏng của men, chất  
lượng của men không đều nhau, qua nung  
ở nhiệt độ cao dẫn đến kết quả sản phẩm  
có sắc độ màu khác nhau của cả gốm hoa  
nâu lẫn gốm men ngọc. Hơn nữa, khi kết  
hợp với những nét khắc chìm trên thân  
gốm rất linh hoạt, lúc to, lúc nhỏ, cạnh  
thẳng, cạnh nghiêng, nét nông, nét sâu, tự  
do, phóng khoáng kết hợp với màu tô chỗ  
dày mỏng không đều nhau tạo vẻ đẹp linh  
hoạt, sống động cho sản phẩm.  
Bố cục thiên về gợi ý hơn là sao chép.  
Một khoảng không trên đầu các võ sĩ,  
người ta nhận ra đó là khoảng trời. Hay  
vài cành lá cho ta tưởng tượng ra con  
hươu đang đi trong rừng. Thậm chí bông  
hoa còn to ngang cả con ngựa. Đó chính là  
không gian ước lệ. Không câu nệ vào tỉ lệ  
thực, mà chỉ diễn đạt sao cho thuận mắt.  
Các họa tiết được sắp xếp trên thân gốm  
không theo luật xa gần, không có trước  
sau, chỉ sắp xếp theo ý đồ trang trí.  
Bố cục được thể hiện nhiều kiểu khác  
nhau bố cục thoáng, nhằm nêu bật chủ đề.  
Họa tiết được quy định thành những mảng  
lớn sắp xếp theo đường lượn, có mảng  
chính mảng phụ, mảng to, mảng nhỏ rõ  
ràng. Mảng và đường nét cân đối, mô tip  
được ước lược đến cao độ, không chấp  
Như vậy, với lối tạo hình đơn giản,  
cách điệu, kết hợp lối bố cục thoáng,  
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020  
83  
không câu nệ thực, mảng lớn bé rõ ràng,  
lớp nét khắc to nhỏ, nông sâu thay đổi  
cùng lớp men đọng chỗ dày chỗ mỏng tạo  
nhiều sắc độ trên một nền màu chung, làm  
nên vẻ đẹp giản dị, nồng hậu, gần gũi cho  
cho gốm Trần và cũng là cái khác cơ bản  
so với gốm thời Lý.  
quanh được mở rộng, do đó ít nhiều có sự  
giao thoa về mặt văn hóa nghệ thuật với  
nước ngoài. Đối với nghệ thuật gốm cũng  
vậy, nhưng không vì thế mà nghệ thuật gốm  
nước ta mất đi bản sắc dân tộc, ngược lại,  
nó đã dân tộc hóa một cách sáng tạo những  
yếu tố tiếp thu từ bên ngoài vào, góp phần  
làm cho nghệ thuật chế tạo gốm của ta thêm  
phong phú. Đồng thời, còn biết điều hòa,  
phối hợp những yếu tố bên ngoài với nghệ  
thuật truyền thống lâu đời của nhân dân, tạo  
cho nghệ thuật gốm truyền thống thời Trần  
có một phong cách dân tộc đậm đà.  
3. KẾT LUẬN  
Kế tiếp sau thời Lý, nghệ thuật tạo  
hình trên đồ gốm thời Trần chiếm một vị  
trí quan trọng trong nền mĩ thuật cổ nước  
ta, nó đã đặt nền móng tốt đẹp cho sự kế  
thừa và phát triển nghề gốm của ta sau  
này được thành công về mặt kĩ thuật sản  
xuất cũng như thành công về mặt nghệ  
thuật. Trang trí trên gốm thời Trần mang  
yếu tố hiện thực nên có nhiều sản phẩm  
kết hợp nhiều loại hoa văn trên cùng một  
sản phẩm gốm. Các họa tiết trên gốm thời  
Trần thể hiện những chủ đề rất thân thuộc  
với người Việt. Đó chính là hình ảnh của  
thiên nhiên, con người và các hoạt động  
trong cuộc sống hàng ngày, nên khi vẽ lên  
mặt gốm họ không hề sao chép vụng về  
mà dựa vào trí nhớ, bắt lấy cái thần của  
sự vật bằng nét điển hình, chọn lọc. Gốm  
thời Trần vận dụng và sáng tạo hoa văn  
dựa trên chính tinh thần chiến đấu chống  
ngoại xâm, tình cảm chân chất và ước mơ  
trong sáng của họ.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong  
mỹ thuật truyền thống của người Việt,  
NXB Mỹ thuật.  
2. Hoàng Xuân Chinh (2011), Tiến trình  
gốm sứ Việt Nam, NXB Hồng Đức.  
3. Phạm Thị Chỉnh (2009), Dạy Lịch sử mĩ  
thuật Việt Nam, NXB Đại học sư phạm.  
4. Chu Quang Trứ (2012), Mỹ thuật Lý Trần  
- mỹ thuật Phật giáo, NXB Mỹ thuật.  
5. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt  
Nam nhìn từ mĩ thuật, NXB Mỹ thuật.  
6. Trịnh Quang Vũ (2009), Lược sử mĩ thuật  
Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa.  
Sau cuộc kháng chiến chống quân  
Nguyên Mông, địa vị của nhà nước phong  
kiến thời Trần được nâng cao, quan hệ  
buôn bán và ngoại giao với các nước xung  
7. Henri Gourdon (2017), Nghệ thuật xứ  
An Nam, NXB Thế giới.  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG  
84  
pdf 9 trang yennguyen 22/04/2022 320
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật tạo hình của đồ gốm thời Trần", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_tao_hinh_cua_do_gom_thoi_tran.pdf