Nghệ thuật tạo hình của đồ gốm thời Trần
NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH CỦA ĐỒ GỐM THỜI TRẦN
Lê Hoài Đức
Khoa Giáo dục Tiểu học và Mầm Non
Email: Duclh@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 18/3/2020
Ngày PB đánh giá: 27/4/2020
Ngày duyệt đăng: 08/5/2020
TÓM TẮT: Nghệ thuật tạo hình trên đồ gốm thời Trần chiếm một vị trí quan trọng trong nền mĩ thuật
cổ nước ta. Nó đã đặt nền móng cho sự kế thừa và phát triển trong trang trí đồ gốm Việt Nam sau này.
Đồ gốm thời Trần được thừa hưởng những tinh hoa nghệ thuật của thời Lý, song kết hợp với tinh thần
hào khí Đông A quật cường đã tạo nên một nền nghệ thuật đặc sắc với nhiều thành tựu độc đáo. Bài viết
phân tích những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật gốm thời Trần thông qua đề tài trang trí, hình thức thể,
kĩ thuật tạo hình, phong cách và ngôn ngữ tạo hình của đồ gốm thời Trần.
Từ khóa: Nghệ thuật, tạo hình, đồ gốm thời Trần, gốm, hoa văn, họa tiết, gốm hoa lam, gốm hoa nâu,
gốm men ngọc
GRAPHIC ARTS IN POTTERY OF TRAN DYNASTY
ABTRACT: The art of forming on pottery of the Tran dynasty occupies an important position in
our country’s ancient art. It laid the foundations for succession and development in later Vietnamese
pottery decoration. Pottery in the Tran dynasty inherited the artistic quintessence of the Ly dynasty, but
combined with the spirit of Dong A exhortation to create a unique art with many unique achievements.
The paper analyzes the basic characteristics of Tran dynasty pottery art through the theme of decoration,
form, shaping techniques, style and visual language of Tran dynasty pottery.
Keywords: art, Tran dynasty pottery, pottery, pattern, blue pottery, brown pottery, celadon pottery
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
gốm chưa được quan tâm nhiều. Một số
bài báo, công trình nghiên cứu về gốm sứ
chủ yếu đi theo hướng khảo tả về kĩ thuật
của lịch sử gốm sứ Việt Nam, chưa phân
tích sâu về nghệ thuật tạo hình. Với mục
đích chỉ ra được vẻ đẹp của gốm sứ Việt
Nam đồng thời phân tích sự khác nhau về
mĩ thuật của hai triều đại Lý - Trần cũng
như các giai đoạn sau, thì bên cạnh việc
nhìn vào các di vật của điêu khắc, kiến
trúc… ta còn có thể tìm hiểu thêm ở đồ
gốm. Riêng với hội họa thời Trần vì không
còn bức tranh nào để nghiên cứu nên
chúng ta chỉ có thể dựa vào hình vẽ trên đồ
Mĩ thuật thời Trần phát triển trên cơ
sở nền móng đã có từ thời Lý. Tuy vậy do
điều kiện, hoàn cảnh xã hội khác nhau dẫn
đến quan điểm thẩm mĩ khác nhau. Nếu mĩ
thuật thời Lý đi theo hướng cách điệu cao,
đường nét chau chuốt, tỉ mỉ thì mĩ thuật
thời Trần lại chuyển sang khuynh hướng
hiện thực, cách tạo hình và bố cục đơn
giản, khái quát và khỏe khoắn như mang
trong nó hào khí Đông A. Khi nói đến lịch
sử mĩ thuật thời Trần các nhà nghiên cứu
thường tập trung khai thác ở các mảng
kiến trúc, điêu khắc… mảng về nghệ thuật
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
76
gốm mà suy ra hội họa của giai đoạn này.
Vì vậy khi nghiên cứu nghệ thuật tạo hình
trên đồ gốm thời Trần cũng là một hướng
đi để tìm hiểu về lịch sử tạo hình của cha
ông ta thế kỷ XIII-XIV.
Gốm men ngọc là loại gốm nổi tiếng
từng được sản xuất ở một số nước Đông
Á như Trung Quốc, Triều Tiên... Ở nước
ta, gốm men ngọc xuất hiện từ thời Lý.
Tiếp nối truyền thống, gốm men ngọc thời
Trần được sản xuất với đặc điểm tạo dáng
chắc khỏe, cốt dày dặn, cân đối, đế dày [7,
tr.109]. Nó là những sản phẩm sành trắng
được phủ một lớp men màu xanh nhạt, khi
hoàn thành có thể đạt những sắc độ khác
nhau như: xanh lá non, ngả màu da trời,
màu lá cây úa, hoặc lá cây hơi ngả nâu.
Lớp men ở bên ngoài thường được tráng
dày và không đều, chỗ dày chỗ mỏng, có
độ trong tạo cảm giác như ngọc thạch. Kết
hợp với những nét hoa văn khắc chìm tinh
tế, gốm men ngọc mang vẻ đẹp sâu thẳm,
quý phái [2, tr.84-85].
2. NỘI DUNG
2.1. Đôi nét tìm hiểu về đồ gốm thời Trần
Gốm là những sản phẩm làm từ đất
sét, có thể tráng thêm lớp men sau được
nung qua lửa mà tạo thành những sản
phẩm trang trí hoặc đồ gia dụng. Trong
quá trình phát triển nghề gốm ở Việt nam
từ thời Lý, nghệ thuật chế tạo đã đi được
những bước tiến khá dài với trình độ cao
về kỹ thuật cũng như nghệ thuật tạo hình
và nghệ thuật trang trí. Thời Lý có hai loại
gốm chính: gốm đất nung thường được
trang trí trên các công trình kiến trúc với
những nét đẽo gọt, hình khối tinh tế và
gốm gia dụng được tráng men ngọc trau
chuốt và thanh nhã. Đặc biệt, nghệ thuật
trang trí trên gốm không sử dụng men màu
mà theo lối khắc hoa văn trực tiếp tạo nên
những đường nét khắc họa linh hoạt. Thời
Trần phát triển trên cơ sở truyền thống
từ thời Lý nhưng có những dấu ấn riêng
biệt mang đậm phong cách hiện thực thể
hiện tinh thần thượng võ, mộc mạc nhưng
không kém phần duyên dáng.
Gốm hoa nâu là loại gốm độc đáo rất
phổ biến trong thời đại nhà Trần. Kiểu
dáng to khỏe, phóng khoáng, cốt gốm dày
dặn, chất đất thô xốp hơn gốm men ngọc,
phủ ngoài một lớp men màu trắng ngà hay
vàng nhạt. Trang trí hoa văn trên gốm theo
lối vẽ khắc thành đường viền rồi dùng màu
nâu (được chiết xuất từ đá son tự nhiên) tô
vẽ thành mảng trên nền thoáng màu vàng
nhạt. Có khi là nền nâu khắc vẽ men trắng
hoặc khắc chìm để mộc. Gốm hoa nâu có
vẻ đẹp giản dị, chắc khỏe và rất phong phú
về kiểu dáng, chủ yếu phục vụ cho những
sinh hoạt đời sống hàng ngày.
Gốm đất nung trên các công trình
kiến trúc tạo hình những đầu rồng, chim
Gốm hoa lam xuất hiện mờ nhạt vào
khoảng cuối thời Trần và phát triển rực
rỡ ở thời Lê. Gốm hoa lam là loại gốm
phủ men trắng đục, vẽ trang trí màu hoa
lam. Màu lam, lấy từ ô xít cô ban cũng
đã xuất hiện trên đồ sứ của nhiều nước và
được du nhập vào nước ta. Gốm có hình
dáng thanh chắc, thể hiện nhuần nhuyễn.
Cốt đất màu trắng xám, đãi lọc sạch mịn,
ngoài cốt phủ men trắng với một kĩ thuật
phượng, đầu đao… được tìm thấy ở khu
Thiên Trường/Nam Định hay ở khu lăng
mộ đền thờ các vua Trần đều thể hiện một
thủ pháp thoáng đạt, đơn giản, chắc khỏe
chứ không mang tính trau chuốt, tỉa gọt
đậm nét như thời Lý.
Đồ gốm gia dụng phủ men gồm có: Gốm
men ngọc, Gốm hoa nâu, gốm men nâu,
gốm hoa lam, gốm men trắng, trắng ngà.
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020
77
nhúng đều tay, nung ở nhiệt độ cao nên
lớp men mỏng, mịn, đều. Cho đến ngày
nay, gốm hoa lam vẫn còn được sản xuất
tại Bát Tràng, Móng Cái, Biên Hòa, và
nhiều lò thủ công khác.
+ Hoa văn hoa sen kết hợp hoa cúc,
trong đó hoa sen cách điệu kết hợp với
những vòng dây lá. Ở loại đồ án này, hoa
sen theo kiểu bổ dọc nhìn nghiêng, nhưng
độ nghiêng hơi chếch để có thể nhìn thấy
gương sen với một số hạt. Các cánh sen
dài, cong, vòng ôm trọn lấy phần trên của
gương sen. Lá là hình hài của hoa cúc.
Họa tiết mang tính cách điệu khá cao, có
bố cục cân đối, đơn giản nhưng vẫn lột tả
được vẻ đẹp của hoa sen.
Gốm men nâu cũng có đặc điểm như
gốm hoa nâu nhưng toàn bộ sản phẩm là
một màu nâu bao phủ.
Hoa văn trang trí trên gốm có ba loại:
hoa khắc, hoa in, và đắp nổi. Các sản
phẩm gốm thời Trần được trang trí với
nhiều loại hoa văn phong phú cùng với kĩ
thuật và phong cách tạo hình riêng biệt.
+ Hoa văn bố cục cả cụm sen bao gồm
hoa, lá, nụ đứng thành khóm rất tự nhiên.
Trong đó, hoa sen chủ yếu được nhìn trong
bố cục nghiêng với các cánh cách điệu,
đăng đối với nhau. Lá sen cái nhìn nghiêng,
cái nhìn chính diện từ trên xuống với nhiều
chi tiết gân lá theo đúng cấu trúc lá sen.
Cành sen cái thẳng, cái nghiêng, cái cong
xuống phía dưới báo hiệu sắp héo tàn. Có
bố cục còn điểm xuyết thêm cây cỏ, sóng
nước trông thật tự nhiên và sinh động.
2.2. Đề tài và hình thức thể hiện trên đồ
gốm thời Trần
Nhìn chung, hoa văn trên gốm được
chia thành các nhóm đề tài:
Hoa văn thực vật
Hoa lá là đề tài trang trí chủ yếu của
gốm thời Trần. Chủ yếu được trang trí trên
các sản phẩm gốm tráng men, những đồ
gia dụng như bát, đĩa, liễn, lọ, thạp… rồi
các sản phẩm xây dựng như gạch, ngói…
với họa tiết hoa cúc, hoa sen, hoa chanh,
hoa thị. Trong đó họa tiết hoa cúc và hoa
sen cách điệu có nhiều mẫu đẹp, độc đáo.
Hoa cúc là loài hoa được nằm trong “tứ
quân tử” theo như quan niệm của Trung
Hoa. Ở Nhật Bản, hoa cúc chỉ dành cho
nhà vua và quý tộc. Ở Việt Nam, hoa cúc
là loài hoa được yêu quý, bởi lẽ nó tượng
trưng cho phẩm chất thanh cao, chịu được
giá lạnh sương sa, có nhiều màu rực rỡ và
rất lâu tàn. Trong nghệ thuật trang trí gốm
thời Trần sử dụng rất nhiều hình ảnh của
hoa cúc để trang trí. Đặc biệt là thể loại
gốm hoa nâu với các dạng sau:
Hoa sen là loài hoa mọc ở dưới ao hồ,
thường có màu hồng hoặc trắng, có mùi
hương thơm mát thanh tao. Hoa sen có ý
nghĩa và gắn liền với triết lí của nhà Phật.
Hoa sen đã ăn sâu vào tiềm thức của người
dân đất Việt, nên không lấy gì làm lạ khi
họa tiết hoa sen lại rất phổ biến như vậy.
Hoa sen trên gốm thời Trần được vẽ với
nhiều hình dạng và trạng thái khác nhau.
+ Hoa văn hoa cúc cách điệu thành dây
băng dài uốn lượn hình sin với lối nhìn
nghiêng, bổ dọc, đôi khi được kết hợp cả
hoa sen.
+ Hoa cúc trên gạch lát nhà có thể nằm
trong bố cục hình tròn với hình bông cúc
lớn ở giữa, vòng ngoài là các bông cúc nhỏ
hơn ở các cạnh vuông của viên gạch. Cũng
có loại trang trí thành đường dây uốn lượn
với hình bông cúc được cách điệu khá cao.
+ Bông sen có nhiều cánh cách điệu,
đăng đối sang hai bên với lối nhìn nghiêng.
+ Hoa sen nhìn từ trên xuống thấy trọn
gương sen và các hạt, các lớp cánh cách
đều, nhiều lớp, so le với nhau.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
78
+ Hoa cúc có xu hướng hiện thực, đó
là hình cả cây cúc mọc lên có hoa và lá,
nhiều cây cúc mọc lên với nhau tạo cảm
giác như một chậu cúc tự nhiên.
nhọn, có dạng đuôi xoắn tròn, hay có dạng
đuôi có vân xoắn ốc. Có Rồng ba móng,
và đặc biệt xuất hiện rồng bốn móng. Bố
cục rồng cũng có sự đa dạng. Rồng trong
bố cục tròn; Rồng chầu nghiêng; đôi rồng
vờn nhau; rồng uốn lượn từ trên xuống,
đầu ngẩn lên; thậm chí có bố cục chỉ
thấy đầu và một phần đuôi rồng, không
thấy thân. Đối với đồ gốm, Rồng chủ yếu
trong bố cục nhìn nghiêng uốn lượn, bố
cục rồng chầu lá đề trang trí trên các công
trình kiến trúc. Ngoài ra còn hình đầu rồng
nhìn nghiêng ở các đầu đao, hoặc rồng
cuộn tròn trong lòng đĩa tráng men.
Họa tiết hoa thị và hoa chanh của yếu
được sử dụng trên các sản phẩm xây dựng
như gạch lát, gạch phù điêu, gạch trổ thủng
dùng để lợp mái hoặc ốp lát sân, tường.
Hoa văn động vật
Hoa văn hình rồng, phượng: Rồng
phương Đông vốn là đề tài trang trí quen
thuộc tượng trưng cho quyền lực, vua
chúa, là biểu tượng của điềm lành và sự
phồn thịnh. Chính vì vậy rồng hay được
chạm khắc và trang trí ở những nơi trang
trọng. Hình tượng rồng chủ yếu được thể
hiện trên dòng gốm đất nung [6, tr.61].
Phượng là một loài chim thiêng và
được coi là chúa tể của các loại chim. Nó
được mô tả có bộ lông rực rỡ, đầu là đầu
chim trĩ, mào gà trống, mỏ chim nhạn,
đuôi công, lông mượt như lụa, óng ánh
như rực lửa. Phượng là điềm báo cho sự
tốt lành, xã hội thái bình, có thánh nhân
xuất hiện [3, tr.77].
Nếu như thời Lý, rồng thân rắn mảnh
mai, uốn lượn hình thắt túi, đầu cổ ngước
cao, mắt to hơi lồi, chân dài có ba móng,
lưỡi, bờm dài, có mào lửa, răng nhọn và
cong, có hoa văn hình chữ s trên đầu và
luôn luôn trong tư thế nghiêng ngẩn lên
há miệng hứng một viên ngọc. Toàn thân
hầu như không có vẩy. Người xưa trang trí
rồng ở các công trình kiến trúc cung đình
và kiến trúc phật giáo. Có thể là cả thân
rồng nhìn nghiêng, hoặc đầu rồng nhìn
nghiêng. Đặc biệt có cấu trúc bố cục rồng
chầu lá đề [1, tr.142-143].
Hoa văn hình chim phượng thường
được dùng trang trí trên nhiều di tích chùa,
như chùa Bối Khê, chùa Dâu, chùa Thái
Lạc… đối với gốm đất nung, kiểu cách
và hình dáng chim Phượng rất giống với
Phượng đất nung thời Lý. Từ kiểu cách
bố cục cho tới các chi tiết lông. Đuôi, mỏ,
cổ… Chúng ta thường thấy chúng được bố
cục thành đôi trong các khuôn hình lá đề
hoặc đứng độc lập trên một đao lửa của
ngói bò. Phượng thường bố cục theo lối
nhìn nghiêng, lông đuôi dài bay uốn lượn
lên phía trên. Phía trong cốt đuôi được thể
hiện thành những chấm tròn chạm thành
dải dài. Hai cách phượng dang rộng trong
tư thế vỗ bay lên. Cổ phượng ngắn, mắt
tròn, đầu nhỏ, bờm gáy bay vút lên phía
trên. Hai chân phượng ngắn mập, các
ngón to, móng sắc nhọn đang bám chặt
vào đao lửa phía dưới.
Rồng thời Trần lại được phác họa dưới
nhiều hình thức, kiểu dạng, bố cục phức
tạp hơn. Thời Trần, hình tượng Rồng cũng
có hình dáng gần giống với rồng thời Lý,
song có những nét đặc trưng khác biệt.
Rồng Trần chắc khỏe, mập mạp, độ uốn
lượn thân thoải mái hơn, có vẩy xuống
tận đuôi. Đầu rồng đơn giản hơn rồng thời
Lý, có sừng, răng nanh dài nhọn, và đôi
tai mang dáng vẻ uy nghi. Hình dáng rồng
Trần cũng rất đa dạng: có dạng đuôi vút
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020
79
Đối với đồ gốm, hoa văn hình rồng, hình
phượng chủ yếu được trang trí ở thể loại
gốm đất nung trên các công trình kiến trúc.
Hoa văn hình con người
Con người trên gốm thời Trần được
thể hiện rất hiện thực, sinh động và phong
phú về cuộc sống. Có bố cục hình người
đơn lẻ, bố cục hai người, hay bố cục cả
một nhóm người, tất cả đều nhìn trong tư
thế nghiêng với những nét đơn giản và
mộc mạc kết hợp với các họa tiết cây cỏ
hoặc động vật. Họa tiết diễn tả về các hoạt
động thường nhật của con người với lối
nhìn ước lệ, khoáng đạt và mang tính hiện
thực [4, tr.97].
Hoa văn hình đầu rồng, đầu phượng
bằng đất nung khối tròn hoặc chạm bẹt
trang trí trên bờ nóc, đầu đao còn tìm
thấy ở khu Thiên Trường và khu lăng mộ
vua Trần.
Hoa văn động vật được mô tả rất sinh
động với nhiều loài và nhiều động tác khác
nhau trên gốm thời Trần. Hoa văn động
vật thường được kết hợp với các dạng hoa
văn khác như hoa lá hay con người với các
hoạt động mang tính hiện thực. Hình vẽ
các loài động vật ở đây chủ yếu được vẽ
theo bố cục nhìn nghiêng với đầy đủ các
đặc điểm giống loài kết hợp với các tư thế
phù hợp với nội dung trang trí trên gốm.
+ Hình người múa khiên với nhiều nét
cách điệu. Tay trái cầm khiên, tay phải
cầm kiếm với thế đứng chiến đấu.
+ Hai người đấu kiếm, luyện tập võ
nghệ với các động tác rất thực thể hiện
tinh thần thượng võ.
+ Hoa văn loài chim: thể hiện khá
nhiều loài chim khác nhau: chào mào,
cò, gà, vẹt… Mô tả chim đang đi, cúi đầu
tìm kiếm thức ăn với đặc điểm hình dáng
tương đối thực, hay gà chọi kiếm ăn đang
ngậm được con mồi.
+ Con người với những hoạt động như
săn bắn, gánh nước, rước lễ thành những
nhóm dài nối nhau vòng quanh thân gốm.
Hoa văn mây, sóng, nước
Các họa tiết như mây, sóng, nước trên
gốm chủ yếu dùng để bổ trợ cho những
dạng họa tiết khác. Các họa tiết này mang
tính cách điệu cao, có thể lặp đi lặp lại
thành một đường diềm hoặc kết hợp nhiều
nét đồng dạng với nhau với nhiều biến
thiên lên xuống mềm mại tạo vẻ đẹp bay
bổng, ổn định, cân bằng cho bố cục.
+ Hoa văn hình ngựa thể hiện con ngựa
đang chạy rất nhanh, hai vó chi trước tung
vào không trung, đầu lao về phía trước,
hai chân sau tung về phía sau. Trên có yên
ngựa cho thấy đây là ngựa dùng để cưỡi.
Cũng có những họa tiết ngựa có người
cưỡi đi rất thong dong.
Nghệ thuật thời Trần mang yếu tố hiện
thực nên có nhiều sản phẩm kết hợp nhiều
loại hoa văn trên cùng một sản phẩm gốm.
Chẳng hạn: Một số những mẫu vật như
thạp gốm chia thành nhiều ô với các dạng
họa tiết khác nhau. Ô thứ nhất vẽ hai chiến
sĩ đấu võ, mình trần đóng khố, vũ trang
khiên, giáo, chuẩn bị lao vào cuộc chiến
đấu. Ô vẽ người đứng xoạc chân. Ô nữa
vẽ voi xung trận với những người lính
ngồi trên. Chúng ta có thể thấy tinh thần
+ Hoa văn hình voi: hoa văn diễn tả
chú voi với dáng tương đối thực đang đi,
có những tấm thảm phủ lên thân voi. Cũng
có hình dạng voi xung trận với những
chiến sĩ ở trên mình voi.
+ Hoa văn hình Hổ: Mặc dù chỉ lướt
qua các nét hình rất đơn giản nhưng hình
dáng con hổ hiện lên rất động và rất thực,
thể hiện được đặc điểm giống nòi của loài
mãnh thú.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
80
thượng võ của nhà Trần được phản ánh
rất sinh động qua những hoa văn trang trí
trên gốm. Hay ví như chiếc thạp có trang
trí tả cảnh săn bắn trong đó có người cầm
đao, người cầm cung tên đuổi bắn một con
hươu. Trên thạp kết hợp cây cỏ biểu tượng
cho rừng. Có thạp lại trang trí hình người
gánh nước, người đi lại nối vòng quanh
thạp. Phía trên là đàn chim với nhiều dáng
vẻ khác nhau chạy vòng quanh. Các dạng
họa tiết kết hợp với nhau theo từng chủ đề
trang trí và đặt phù hợp với từng vị trí trên
sản phẩm gốm.
có thể đánh giá được trình độ kĩ thuật của
người thợ. Gốm men ngọc là loại gốm đẹp
và sang quý nhờ lớp men trong nhìn như
ngọc bao ở bên ngoài. Gốm men ngọc
thường có chất xương đất mịn, dày dặn,
thường là nặng và được nung ở nhiệt độ
cao. Hoa văn trang trí được khắc chìm trên
thân sản phẩm với nét khắc sâu nông khác
nhau, thậm chí cùng một nét nhưng cạnh
sâu nổi gờ lên, cạnh nông biến vào thân
gốm rất linh hoạt. Gốm cũng phối hợp kỹ
thuật khắc chìm với kĩ thuật đắp nổi tạo sự
phong phú đa dạng cho gốm. Men ngọc
được làm từ ô xít nguyên dạng tự nhiên lẫn
trong đất đá, thành phần chủ yếu là do ô
xít sắt tạo nên. Men ngọc trong và nhẹ nên
yêu cầu phải tráng dày thì màu mới sâu và
mượt. Khi kết hợp với các hoa văn trang
trí được đắp nổi hoặc khắc chìm sẽ tại ra
những chỗ mỏng dày các nhau. Nhiệt độ,
thời gian và vị trí đặt trong lò nung cũng
ảnh hưởng đến màu men khi hoàn thành.
Do vậy chúng ta thấy gốm men ngọc có
nhiều sắc độ: xanh lá cây, xanh da trời,
xanh lá úa, xanh cây ngả nâu…Vì lẽ đó
mà tạo hiệu ứng hoa văn ẩn hiện, lung linh
và có chiều sâu.
2.3. Kỹ thuật tạo hình trên đồ gốm thời Trần
Gốm thời Trần mang nhiều nét đặc sắc
không chỉ nằm ở chất gốm, mà còn phụ
thuộc rất nhiều vào kĩ thuật tráng men và
trang trí các hoa văn trên gốm. Như chúng
ta đã biết thời Trần nổi trội với các thể loại
gốm men ngọc, gốm men nâu, gốm hoa
lam và đặc biệt là gốm hoa nâu. Mỗi một
loại gốm đều có đặc điểm và kĩ thuật chế
tác khác nhau, tạo nên những vẻ đẹp riêng.
Song đúc kết lại, gốm Trần có các kỹ thuật
trang trí chính, đó là: đắp nổi, khắc chìm
và tráng men.
Gốm hoa nâu có màu men trắng ngà
tô họa tiết màu nâu, hoặc nền nâu, họa tiết
màu trắng. Màu nâu được lấy từ đá son, đá
thối, gỉ sắt, và phù sa mang hàm lượng sắt
cao. Các họa tiết trang trí chủ yếu sử dụng
kĩ thuật khắc chìm lên thân sản phẩm.
Trong giai đoạn này, gốm Việt Nam xuất
hiện kĩ thuật tô màu lên các họa tiết trang
trí, mặc dù màu sắc còn hạn chế. Sau khi
đã hoàn chỉnh xương đất và tráng một lớp
men, người thợ dùng dao nhọn vẽ họa tiết
bằng nét lên thân gốm, sau đó mới dùng
màu nâu tô lên đó rồi đem nung. Cũng có
thủ pháp thứ hai đó là tạo hoa văn bằng nét
chìm rồi cạo lớp men phủ lên hình hoa văn,
và sau đó dùng bút tô màu nâu lên. Ngoài
Trong quá trình đắp cốt gốm, người
thợ đắp những hình hoa văn nổi lên trên
mặt sản phẩm theo ý tưởng trang trí. Có
thể là tạo trực tiếp trên sản phẩm, hoặc nặn
tạo hình bên ngoài và đắp cho chúng bám
chặt vào sản phẩm. Đó chính là kĩ thuật
đắp nổi. Khắc chìm là hình thức đơn giản
hơn và không tốn công như đắp nổi. Sau
khi sản phẩm đã được nặn, chuốt và để se
lại, người thợ dùng dao hoặc vật sắc nhọn
vẽ lên thân sản phẩm các họa tiết trang trí.
Và bước cuối cùng là tráng men. Men
là lớp áo ngoài của đồ gốm có vai trò bảo
vệ, tăng độ bền, độ cứng và làm đẹp cho
sản phẩm. Nhìn lớp men ngoài người ta
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020
81
ra, gốm hoa nâu còn có những kĩ thuật đắp
nổi, chạm lộng lên những chi tiết ở phần
phụ sản phẩm. Khi nguyên liệu màu nâu
trở nên dư thừa hơn, gốm hoa nâu chuyển
thêm sang giai đoạn mới là tráng men màu
nâu lên toàn bộ sản phẩm chứ không phải
tô nữa. Theo nghiên cứu của tác giả Trần
Khánh Chương trong cuốn Gốm Việt Nam
từ đất nung đến sứ, một số những cổ vật
tìm được trong giai đoạn này là chiếc bát
có hình hoa thị ở dưới đáy. Điều đáng chú
ý ở đây chính là hình hoa đó được vẽ trực
tiếp bằng bút lông. Như vậy, đây là bước
đầu có một kĩ thuật mới đó là vẽ thay vì tô
màu như trước đó. Nó đánh dấu một thời
kì phát triển mới trong nghệ thuật trang
trí gốm.
nghiêm, quy phạm thì đến thời Trần chúng
ta lại cảm thấy khoáng đạt, khỏe khoắn và
đơn giản hơn. Về cơ bản, những hoa văn
trang trí trên gốm thời kì này như hoa lá,
động vật... đều được đơn giản hóa và cách
điệu cao. Nhưng điểm khác biệt lớn nhất
đó là nó mang tính hiện thực. Những bông
hoa sen, hoa cúc không chỉ có tạo hình
nghiêng, đăng đối nữa, mà nó được thể
hiện với nhiều bố cục, có khi là cả khóm
hoa với đầy đủ lá, hoa, nụ. Hay như hình
tượng của con người, của muông thú cũng
hiện ra với những hoạt động như chiến
đấu, luyện tập võ nghệ, gánh nước hổ voi
đuổi nhau, cò bắt cá… Tất cả những họa
tiết được hiện ra theo cảm nhận của người
vẽ về cuộc sống, về thiên nhiên một cách
sống động [5, tr.529-530].
Vào giai đoạn cuối Trần cũng đã manh
nha tìm được loại men màu lam làm từ ô
xít côban. Không có dấu ấn rõ ràng về gốm
hoa lam ở thời Trần, nhưng đó chính là một
minh chứng về dấu gạch nối giữa gốm hoa
nâu và gốm hoa lam thời kì sau này.
Dáng gốm thường dày dặn, to mập,
chắc khỏe nhưng lại kết hợp với họa tiết
trên thân gốm khá thoáng, mềm mại uốn
lượn tạo nên vẻ đẹp giản dị nhưng không
thô kệch.
2.4. Phong cách tạo hình của gốm thời Trần
Hoa văn thời Lý thường có tính quy
phạm, song hoa văn thời Trần lại mang
tính tự do thoát khỏi khuôn khổ đó. Loại
liễn dáng cao thành, thân thẳng, miệng hơi
thu nhỏ, vai bằng, chung quanh vai đắp nổi
cách sen tròn mập, sát vai gắn bốn núm
tai ngang. Trang trí thân liễn chia thành
ba phần: hai phần nhỏ hẹp chạy quanh
miệng và chân liễn khắc hoa cỏ cách điệu.
Phần giữa rộng nhất vẽ một đàn công năm
con đang lội nước nối đuôi nhau đi vòng
quanh, mỗi con một dáng vẻ khác nhau rất
sinh động.
Mỗi một thời kì lịch sử đều có những
biến động ảnh hưởng đến tư tưởng, văn
hóa và nghệ thuật. Thời kì nhà Trần với
những chiến thắng Nguyên Mông hiển
hách, với sự du nhập nho giáo song hành
cùng với đạo Phật đã tạo ra một nền nghệ
thuật đặc sắc mang nét hào hùng, giản dị
và đậm chất hiện thực. Nghệ thuật trang
trí gốm cũng không nằm ngoài luồng tư
tưởng ấy.
Gốm thời Trần tiếp nối tinh hoa từ
gốm thời Lý. Vẫn là những họa tiết về tứ
linh, về hoa lá, muông thú, con người, về
thiên nhiên, song hoa văn thời Trần toát
lên vẻ giản dị, mộc mạc nhưng rất duyên
dáng. Chúng ta đã biết, nghệ thuật thời
Lý được đánh giá là chau chuốt, trang
Có thể nói, từ kĩ thuật trang trí gốm
thời Lý, gốm thời Trần vận dụng và sáng
tạo hoa văn dựa trên chính tinh thần chiến
đấu chống ngoại xâm, tình cảm chân chất
và ước mơ trong sáng của họ.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
82
2.5. Ngôn ngữ tạo hình của đồ gốm thời Trần
nhận chi tiết rườm rà, khó lòng mà thêm
bớt gì được. Một số những dạng bố cục
là: bố cục thành dải bao quanh sản phẩm,
bố cục thành ô dọc trên thân gốm, có thể
là hoa văn nhắc lại hoặc xen kẽ nhau,
ngoài ra còn kết hợp với dạng bố cục phức
tạp trong các họa tiết hoa lá liên kết dây
nối dây, cành nối cành trông rất đẹp mắt.
Ví dụ như thạp gốm trang trí hình đoàn
người gánh nước, quan cưỡi ngựa, lính dắt
ngựa… theo một dải lớn vòng quanh thân
gốm, phía trên còn kết hợp những dải nhỏ
trang trí loài chim và hoa lá. Hay thống
trang trí chia thành nhiều ô dọc trên thân
gốm, mỗi một ô là một hình sen dây, kết
hợp với hoa văn đắp nổi hình cánh sen
thành vòng tròn trên miệng thống.
Mỗi một loại hình nghệ thuật đều có
những ngôn ngữ tạo hình riêng. Đối với
nghệ thuật gốm, ngôn ngữ tạo hình được
thể hiện qua: bố cục, mảng, nét, màu sắc.
Các họa tiết trên gốm thời Trần thể hiện
những chủ đề rất thân thuộc với người
Việt. Đó chính là hình ảnh của thiên nhiên,
con người và các hoạt động trong cuộc
sống hàng ngày, nên khi vẽ lên mặt gốm
họ không hề sao chép vụng về mà dựa vào
trí nhớ, bắt lấy cái thần của sự vật bằng
nét điển hình, chọn lọc. Đó chính là tính
cách điệu. Các dạng họa tiết như hoa và
động vật chủ yếu được nhìn dưới hai góc
độ: nghiêng và chính diện từ trên xuống.
Chính vì thế có thể chọn lọc ra đặc điểm
bao quát, trình bày dưới dạng đơn giản
nhất mà vẫn đảm bảo tính đặc thù và trang
trí cao. Các họa tiết hoa lá chim muông
được diễn tả một cách chân thật, giản dị và
rõ ràng. Có thể dễ nhận thấy từ cách nhìn
đó đã hình thành nên các quy tắc đăng đối
qua trục, nhắc lại của nghệ thuật trang trí.
Gốm thời Trần còn trang trí kết hợp
hình khối của điêu khắc với đường nét và
màu sắc của hội họa. Nếu như gốm đất
nung thời kì trước chỉ có nét khắc, không
có men và màu trang trí, gốm hoa lam của
thời kì sau chỉ có nét vẽ, thì gốm ở thời kì
này kết hợp cả khắc nét và màu sắc của
men. Mặc dù gốm khá ít màu, chủ yếu là
nâu và trắng ngà của gốm hoa nâu và xanh
ngọc của gốm men ngọc nhưng đã thể
hiện được độ đậm nhạt thông qua sự kết
hợp hai màu men như gốm hoa nâu. Hay
sự thay đổi độ dày mỏng của men, chất
lượng của men không đều nhau, qua nung
ở nhiệt độ cao dẫn đến kết quả sản phẩm
có sắc độ màu khác nhau của cả gốm hoa
nâu lẫn gốm men ngọc. Hơn nữa, khi kết
hợp với những nét khắc chìm trên thân
gốm rất linh hoạt, lúc to, lúc nhỏ, cạnh
thẳng, cạnh nghiêng, nét nông, nét sâu, tự
do, phóng khoáng kết hợp với màu tô chỗ
dày mỏng không đều nhau tạo vẻ đẹp linh
hoạt, sống động cho sản phẩm.
Bố cục thiên về gợi ý hơn là sao chép.
Một khoảng không trên đầu các võ sĩ,
người ta nhận ra đó là khoảng trời. Hay
vài cành lá cho ta tưởng tượng ra con
hươu đang đi trong rừng. Thậm chí bông
hoa còn to ngang cả con ngựa. Đó chính là
không gian ước lệ. Không câu nệ vào tỉ lệ
thực, mà chỉ diễn đạt sao cho thuận mắt.
Các họa tiết được sắp xếp trên thân gốm
không theo luật xa gần, không có trước
sau, chỉ sắp xếp theo ý đồ trang trí.
Bố cục được thể hiện nhiều kiểu khác
nhau bố cục thoáng, nhằm nêu bật chủ đề.
Họa tiết được quy định thành những mảng
lớn sắp xếp theo đường lượn, có mảng
chính mảng phụ, mảng to, mảng nhỏ rõ
ràng. Mảng và đường nét cân đối, mô tip
được ước lược đến cao độ, không chấp
Như vậy, với lối tạo hình đơn giản,
cách điệu, kết hợp lối bố cục thoáng,
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 41, tháng 7 năm 2020
83
không câu nệ thực, mảng lớn bé rõ ràng,
lớp nét khắc to nhỏ, nông sâu thay đổi
cùng lớp men đọng chỗ dày chỗ mỏng tạo
nhiều sắc độ trên một nền màu chung, làm
nên vẻ đẹp giản dị, nồng hậu, gần gũi cho
cho gốm Trần và cũng là cái khác cơ bản
so với gốm thời Lý.
quanh được mở rộng, do đó ít nhiều có sự
giao thoa về mặt văn hóa nghệ thuật với
nước ngoài. Đối với nghệ thuật gốm cũng
vậy, nhưng không vì thế mà nghệ thuật gốm
nước ta mất đi bản sắc dân tộc, ngược lại,
nó đã dân tộc hóa một cách sáng tạo những
yếu tố tiếp thu từ bên ngoài vào, góp phần
làm cho nghệ thuật chế tạo gốm của ta thêm
phong phú. Đồng thời, còn biết điều hòa,
phối hợp những yếu tố bên ngoài với nghệ
thuật truyền thống lâu đời của nhân dân, tạo
cho nghệ thuật gốm truyền thống thời Trần
có một phong cách dân tộc đậm đà.
3. KẾT LUẬN
Kế tiếp sau thời Lý, nghệ thuật tạo
hình trên đồ gốm thời Trần chiếm một vị
trí quan trọng trong nền mĩ thuật cổ nước
ta, nó đã đặt nền móng tốt đẹp cho sự kế
thừa và phát triển nghề gốm của ta sau
này được thành công về mặt kĩ thuật sản
xuất cũng như thành công về mặt nghệ
thuật. Trang trí trên gốm thời Trần mang
yếu tố hiện thực nên có nhiều sản phẩm
kết hợp nhiều loại hoa văn trên cùng một
sản phẩm gốm. Các họa tiết trên gốm thời
Trần thể hiện những chủ đề rất thân thuộc
với người Việt. Đó chính là hình ảnh của
thiên nhiên, con người và các hoạt động
trong cuộc sống hàng ngày, nên khi vẽ lên
mặt gốm họ không hề sao chép vụng về
mà dựa vào trí nhớ, bắt lấy cái thần của
sự vật bằng nét điển hình, chọn lọc. Gốm
thời Trần vận dụng và sáng tạo hoa văn
dựa trên chính tinh thần chiến đấu chống
ngoại xâm, tình cảm chân chất và ước mơ
trong sáng của họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong
mỹ thuật truyền thống của người Việt,
NXB Mỹ thuật.
2. Hoàng Xuân Chinh (2011), Tiến trình
gốm sứ Việt Nam, NXB Hồng Đức.
3. Phạm Thị Chỉnh (2009), Dạy Lịch sử mĩ
thuật Việt Nam, NXB Đại học sư phạm.
4. Chu Quang Trứ (2012), Mỹ thuật Lý Trần
- mỹ thuật Phật giáo, NXB Mỹ thuật.
5. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt
Nam nhìn từ mĩ thuật, NXB Mỹ thuật.
6. Trịnh Quang Vũ (2009), Lược sử mĩ thuật
Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa.
Sau cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên Mông, địa vị của nhà nước phong
kiến thời Trần được nâng cao, quan hệ
buôn bán và ngoại giao với các nước xung
7. Henri Gourdon (2017), Nghệ thuật xứ
An Nam, NXB Thế giới.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
84
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật tạo hình của đồ gốm thời Trần", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghe_thuat_tao_hinh_cua_do_gom_thoi_tran.pdf