Nghệ thuật điêu khắc cổ tại Việt Nam thời xưa qua các thời kỳ

NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC CỔ TẠI VIỆT NAM THỜI XƯA QUA CÁC THỜI  
KỲ  
Nghệ thuật điêu khắc từ lâu đã xuất hiện trở thành nét văn hóa đặc trưng của mỗi quốc  
gia. Qua mỗi thời kỳ, những tác phẩm điêu khắc lại thừa hưởng những tinh hoa của giai  
đoạn trước và phát triển theo chiều hướng mới. Đem đến cho đời sau những di sản mang  
tinh thần nghệ thuật nhân văn sâu sắc.  
ĐÔI NÉT VỀ NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC CỔ VIỆT NAM  
Trong các di sản nghệ thuật, văn hóa truyền thống, điêu khắc một lịch sử phát triển liên  
tục và lâu dài nhất. Mỗi một tác phẩm điêu khắc lại mang những hình ảnh con người Việt  
Nam từng miền, từng thời kỳ khác nhau. Dù các tác phẩm điêu khắc đó ở dưới dạng thần  
linh hay con người thế tục.  
bị ảnh hưởng bởi hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa lân cận. Song, nghệ thuật  
điêu khắc của nước ta vẫn phát triển theo cái chất riêng vốn có. Từ sự giao thoa giữa các  
nền văn hóa và dân tộc cho đến quá trình lịch sử hình thành lâu dài của đất nước. Tất cả đã  
khiến cho hình ảnh của nền điêu khắc rất đa dạng.  
Mỗi một tác phẩm điêu khắc lại mang những hình ảnh đặc trưng từng miền, từng thời kỳ  
khác nhau.  
đã trải qua biết bao cuộc chiến tranh, mỗi làng vẫn bảo tồn một cụm đình đền – chùa  
với nhiều tượng Phật và các phù điêu. Đến nay, những di sản này đều được thế hệ sau giữ  
gìn, phục dựng cũng như tiếp tục phát huy giá trị tinh thần của ông cha ta để lại.  
NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC CHAMPA  
Vương quốc Champa được hình thành từ sự liên kết giữa hai thị tộc Can và Dừa. Vương  
quốc này nằm ở miền Nam Trung Bộ lúc bấy giờ. Chia thành một số khu vực địa tự  
nhiên ứng với các dải đồng bằng dọc ven biển. Đó là Amaravati (Quảng Nam), Vijaya  
(Bình Định), Kauthara (Nha Trang) và Paduranaga (Phan Rang).  
Tuy từ thuở sơ khai ở thế kỷ thứ 2, vương quốc này được người Trung Quốc gọi là Lâm  
Ấp vẫn chưa nhiều tác phẩm đặc sắc. Song, đến thế kỷ 7 và 8, nghệ thuật kiến trúc và  
điêu khắc của người Champa đã trở nên hưng thịnh. Nhờ vào phong trào Phật giáo hoá và  
Ấn Độ giáo diễn ra và lan rộng khắp Đông Nam Á.  
Mẫu tượng đá thần Ganesha còn sót lại trong nền nghệ thuật điêu khắc Champa.  
Tháp Champa ở thời kỳ này được xây bằng gạch không vữa thường chỉ một cổng.  
Công trình này bao gồm cả một tháp phụ có mái hình con thuyền. Một tháp chính trung  
tâm khối vuốt lên cao, nở ra ở nhiều góc và các múi vòm. Trên đó thường gắn các phù điêu  
được chạm khắc hình thần Siva hay các tiên nữ Apsara. Điêu khắc tượng tròn được bố trí  
hài hoà với xung quanh công trình kiến trúc. Tuỳ theo chức năng tháp mà đục đẽo các  
mẫu tượng đá Chăm đẹp tại đấy.  
Ngày nay, các di sản của nền nghệ thuật Champa chỉ còn lại một số ít. Hầu hết đã bị tàn  
phá bởi các cuộc chiến tranh thời xưa.  
NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC QUA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN  
ĐIÊU KHẮC THỜI LÝ (1010 – 1225)  
Phật giáo phát triển cực thịnh ở triều đại này và trở thành quốc đạo. Các trung tâm Phật  
giáo được xây dựng đồ sộ theo kiểu kiến trúc Đông Nam Á. Các công trình này tập trung  
ở Quảng Ninh, Hà Nam Ninh và đặc biệt ở Bắc Ninh. Từ đó kéo theo một nền điêu khắc  
Phật giáo phát triển phồn thịnh ở giai đoạn này.  
Điêu khắc thời Lý khá tinh vi và cân đối, chủ yếu trên gốm và trên đá. Đề tài điêu khắc  
cũng rất đa dạng độc đáo. Nhưng thường là các chủ đề về thiên nhiên như mây, nước,  
hoa sen, hoa cúc. Đặc biệt, hình tượng con rồng với nhiều nếp cong mềm mại, tượng trưng  
cho nguồn nước, niềm mơ ước cho dân trồng lúa.  
NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC THỜI LÝ TRONG PHẬT GIÁO  
Tại chùa Phật Tích ngày nay vẫn còn lưu giữ tượng đá Phật A Di Đà ngự tại thượng điện  
chùa. Đây được cho là pho tượng cổ nhất ở miền Bắc nước ta, được công nhận kỷ lục Phật  
giáo. Bên cạnh đó, các phiên bản của pho tượng này đều xuất hiện ở Bảo tàng Lịch sử Quốc  
gia và Bảo tàng Mỹ thuật.  
Bức tượng đá Phật A Di Đà này được tạc vào năm 1057 với tư thế ngồi thiền định trên  
tòa sen. Đài sen có 15 cánh to nở rộ. Mỗi một cánh sen được chạm một đôi rồng chầu vào  
hình Phật ngồi thiền trên đài sen hào quang tỏa sáng hình là đề. Bức tượng chiều cao là  
1m85, nếu tính cả bệ đá là cao 3m.  
Tượng đá Phật A Di Đà ngự tại thượng điện chùa được công nhận kỷ lục Phật giáo.  
Ngoài tượng Phật A Di Đà, chùa Phật Tích còn bảo lưu được những di vật quý khác. Có  
thể kể đến như là chân cột bằng đá chạm khắc hoa sen với mỗi hoa sen là một đôi rồng  
chầu. Hay như bức phù điêu dàn nhạc công “thiên thần” đang tấu nhạc dân tộc. Đặc biệt  
hơn cả là hang thú đá với 10 con to lớn phủ quỳ, đối xứng nhau trước cửa chùa. Bao gồm  
các con vật như ngựa, trâu, tê giác, voi, sư tử. Những linh vật này đều được tạo trong tư  
thế chầu phục. Ẩn chứa sâu trong đó là tinh thần quy phục Phật pháp.  
HÌNH TƯỢNG RỒNG THỜI LÝ  
Dựa trên các hiện vật điêu khắc đá gốm được khai quật và còn được lưu giữ đến hiện  
nay. Người ta chỉ thấy rồng được tạc dưới dạng phù điêu, không thấy chạm chìm và chạm  
tròn. Những con rồng thân tròn và khá dài, không có vẩy. Thân người uốn khúc mềm mại  
và thon dài từ đầu tới chân. Tạo cảm giác hình tượng rồng rất nhẹ nhàng và thanh thoát.  
Các nhà nghiên cứu gọi đây rồng hình giun hay hình dây.  
Rồng thời được chạm khắc khác biệt với các triều đại khác. Hình tượng rồng xuất hiện  
với nhiều loại trang trí bố cục hình tròn, hình cánh sen, hình lá đề và hình chữ nhật. ở  
bất cứ nơi đâu, hình tượng rồng thời kì này luôn có tư thế cấu trúc giống nhau. Theo  
PGS Nguyễn Du Chi, thì có thể chi rồng thời Lý làm hai loại loại cổ ngẫng cổ rụt.  
Rồng thời Lý hay còn được gọi rồng hình giun hay hình dây.  
Những con rồng thời thường ngẩng đầu lên, miệng thì há to, mép trên của miệng không  
mũi. Kéo dài ra thành một cái vòi uốn mềm mại, vươn lên cao, móng vuốt nhỏ dần về  
phía cuối. Dọc sống lưng một hàng vẩy thấp tỉa riêng ra từng cái, đầu vây trước tua vào  
hàng vây sau. Các đốt ngắn ở bụng như bụng con rắn. Được chạm khắc bốn chân, mỗi  
chân có ba ngón phía trước đặc biệt không có ngón chân sau. Chân trước mọc gần giữa  
khúc uốn thứ nhất, đối xứng phía bên kia nằm gần cuối khúc uốn này.  
ĐIÊU KHẮC THỜI TRẦN (1225 – 1400)  
Ở thời Trần, các loại hình nghệ thuật chủ yếu trên lĩnh vực điêu khắc và âm nhạc. Nghệ  
thuật điêu khắc thời Trần chịu ảnh hưởng cũng như tiếp nối từ thời nhà Lý. Tuy nhiên, cách  
tạo hình hiện thực khoáng đạt khỏe khoắn hơn. Phong cách điêu khắc thời Trần mạnh  
mẽ, khái quát và quan tâm đến tính biến động của cấu trúc tổng thể hơn là hình mô tả. Nhờ  
vào sự giao lưu văn hóa rộng rãi cùng tinh thần thượng được phát huy mạnh mẽ.  
Những công trình điêu khắc được thể hiện trong cung điện, chùa chiền, dinh thự lăng  
mộ vua chúa. Điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ và tinh xảo hơn so với  
thời Lý. Đạo Phật thời nhà Trần vẫn thịnh hành mặc dù công trình chùa chiền không được  
đồ sộ như thời Lý. Điêu khắc Phật giáo hiện chưa được pho tượng nào. Nhưng vẫn còn  
lại rất nhiều bệ tượng đá hoa sen hình hộp.  
HÌNH TƯỢNG RỒNG THỜI TRẦN  
Đầu rồng thời Lý và thời Trần rất giống nhau. Tuy nhiên, vẫn thể phân biệt được bởi  
đầu rồng không có nhiều chi tiết phức tạp như thời Lý. Thân rồng vẫn giữ được dáng dấp  
như thời Lý. Hình rồng được chạm khắc trên đá trau chuốt, sừng uy nghiêm. Các đường  
cong tròn nối nhau, khúc trước lớn, khúc sau nhỏ dần kết thúc như đuôi rắn. Vẩy lưng  
vẫn thể hiện từng chiếc một, dạng hình răng cưa lớn, nhọn.  
Miệng rồng được chạm khắc há to nhưng nhiều khi không đớp quả cầu. Chân rồng thường  
ngắn hơn chân rồng thời Lý. Rồng vẫn có vòi hình lá, vươn lên trên nhưng không nhiều  
uốn khúc. Răng nanh của rồng phía trước khá lớn, vắt qua sóng vòi.  
Hình rồng được chạm khắc trên đá trau chuốt, sừng uy nghiêm.  
Mẫu rồng đá đẹp thời Trần với tư thế uốn lượn khá thoải mái với động tác dứt khoát và  
mạnh mẽ. Thân rồng mập chắc hơn rồng thời Lý. Hình tượng rồng luôn vươn về phía trước.  
Tại tháp Bình Sơn, hình rồng trang trí là rồng sừng cuộn tròn mình lại. Đầu rồng túc  
vào giữa, chân đạp ra ngoài. Dường như đã sự dân gian hóa nên có một chân trước đưa  
lên nắm tóc trong tư thế ngộ nghĩnh.  
CÁC TÁC PHẨM ĐIÊU KHẮC BẰNG ĐÁ KHÁC  
Trần Thủ Độ là Thái sư dưới triều Trần, ông là người uy dũng quyết đoán. Khu lăng mộ  
của ông được xây dựng vào năm 1264 tại Thái Bình. Bên trong lăng tạc một con hổ.  
Bức tượng hổ với tạo hình khối đơn giản dứt khoát. Thân hình thon, bộ ức nở nang, bắp  
vế căng tròn. Kích thước của tượng dài gần như thật.  
Thông qua hình tượng con hổ, các nghệ sĩ điêu khắc dường như đã nắm bắt lột tả được  
tính cách, vẻ đường bệ, lẫm liệt của thái sư Trần Thủ Độ. Đây một trong những tác phẩm  
nghệ thuật đẹp trong nền nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam.  
Trong lăng vua Trần Hiến Tông, người ta phát hiện có các tượng người đá, ngựa đá, hổ đá,  
đá và trâu đá. Đặc biệt, đây lăng mộ vua Trần duy nhất có các bứa tượng đá. Sau  
nhiều biến thiên lịch sử, khu lăng mộ tuy đã bị hủy hoại gần như toàn bộ. Song, đến nay  
vẫn còn hai tượng quan hầu, chó đá và trâu đá.  
ĐIÊU KHẮC THỜI (1428 -1527)  
Ở thời đại Sơ, Nho giáo lên ngôi, Phật giáo bị đẩy lùi về các làng xã. Vì vậy, hình ảnh  
điêu khắc Phật giáo thời Sơ rất mờ nhạt. Các tác phẩm điêu khắc ở thời kì này được thể  
hiện với phong cách hoa mĩ, nuột nà và cầu hơn thời trước đó.  
Công trình Lam Kinh được xây dựng từ năm 1433 sau khi Lê Thái Tổ qua đời. Công trình  
này bao gồm khu quần thể kiến trúc các cung điện miếu, lăng mộ các vua Lê. Ngày nay,  
khu vực này đã bị phá hủy gần hết. Chỉ còn lại một ít phế tích các mẫu Nghê đá đẹp, ngựa  
đá, voi đá, hổ đá. một số bia đá như bia Vĩnh Lăng, bia Hựu Lăng và bia Chiêu Lăng.  
Mẫu Nghê đá còn sót lại vẫn đang được phục dựng.  
Cũng giống như các thời trước, nghệ thuật điêu khắc vẫn gắn mật thiết với kiến  
trúc. Những tác phẩm điêu khắc của thời Sơ thường được tìm thấy ở các lăng mộ. Đó  
những tượng quan hầu, tượng con giống đá. Hay những hình chạm khắc trên các thành  
bậc cửa điện Kính Thiên, đàn Nam Giao trên các bia ở lăng mộ và bia tiến sĩ ở Văn Miếu.  
Thời Lê có nhiều bia đá được chạm khắc nổi, trang trí hình rồng. Trên lăng của Lê Thái  
Tổ, hai mặt trên bán bia được chạm khắc hàng chục hình rồng lớn nhỏ. Hình rồng trong  
nghệ thuật tạo hình Việt Nam ở nửa đầu thời vẫn đặc điểm rất riêng. Còn ở nửa sau  
thời Lê, hình dáng mạnh mẽ của rồng trở thành hình mẫu chủ yếu.  
docx 10 trang yennguyen 22/04/2022 300
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật điêu khắc cổ tại Việt Nam thời xưa qua các thời kỳ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxnghe_thuat_dieu_khac_co_tai_viet_nam_thoi_xua_qua_cac_thoi_k.docx