Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86
TÌM HIỂU MỘT SỐ LÍ THUYẾT VỀ TRANH VẼ CỦA TRẺ EM
Ngô Bá Công - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Ngày nhận bài: 30/11/2017; ngày sửa chữa: 01/12/2017; ngày duyệt đăng: 11/12/2017.
Abstract: Studies on children’s paintings have been carried out in the world for almost three
centuries. This issue is built and approached on three basic theories, namely “Aesthetic Window
paradigm”, “Psychological mirror model”, and “Psychological and artistic models”. Based on
these theories, researchers can give analysis, arguments and explanations of children’s paintings.
Keywords: Paintings, children’s paintings, theory, model.
tham luận đã bàn tới các yếu tố nghệ thuật trong tranh
1. Mở đầu
“Tranh vẽ của trẻ em” hay “tranh trẻ em vẽ” sẽ chỉ
vẽ của trẻ em. Trong những nội dung này có bàn luận
tới có hay không những nghiên cứu về lí luận cho tranh
vẽ của trẻ em, đối tượng này có cần những nhà nghiên
cứu khoa học quan tâm không? Các yếu tố về tạo hình
như: đường nét, hình thể, không gian, màu sắc được thể
hiện trong tranh bằng ý thức của chính đứa trẻ hay là
bằng sự gợi ý của người lớn và có hay không sự “vô
thức” trong quá trình sáng tạo bức tranh từ trẻ em…?
Những nội dung trên đã được hội nghị thảo luận khá sôi
nổi và đã thống nhất được rằng cần tạo ra một số lí
thuyết để làm cơ sở tiếp cận, phân tích và giải thích về
tranh vẽ của trẻ em một cách tương đối nhất. Cũng từ
đây hai lí thuyết đã được xây dựng cho việc nghiên cứu
tới tranh vẽ của trẻ em đó là: Lí thuyết “Mô hình cửa sổ
thẩm mĩ” (Aesthertic Window paradigm) và lí thuyết
“Mô hình gương tâm lí” (Psycological Mirro
paradigm). Hai lí thuyết để nghiên cứu về tranh vẽ của
trẻ em này đã nhận được sự ủng hộ của nhiều nhà
nghiên cứu như chuyên ngành tâm lí, chuyên ngành
giáo dục và nghệ thuật hội họa và đã được ứng dụng ở
khá nhiều nước trên thế giới như: Đức, Ý, Thụy Sĩ,
Pháp, Na Uy, Áo, Hoa Kì...
là một, song nếu xét về mặt ngữ nghĩa thì chúng lại khác
nhau, bởi vì vấn đề này đã xảy ra, gây ra nhiều sự tranh
luận của những nhà nghiên cứu tới việc này. Ở Việt
Nam khá lúng túng khi phải mang vấn đề tranh vẽ của
trẻ em đem ra để bàn luận, điều này là đúng đối với cả
những nhà nghiên cứu lí luận và phê bình mĩ thuật, còn
đối với những nhà họa sĩ làm nghề thì còn mơ hồ hơn
nhiều… Đã có khá nhiều nhà nghiên cứu mĩ thuật hay
họa sĩ đã có bài báo viết về tranh vẽ của trẻ em nhưng
chỉ mang tính chất “phong trào” thông qua các cuộc
triển lãm tranh là chính, ngoại trừ một số bài viết có đề
cập tới chất lượng chuyên môn, nhưng vẫn là yếu tố của
người lớn “áp” vào vị trí của trẻ em. Có họa sĩ từng nói
“tranh vẽ của trẻ em cần có đáp số”, câu nói này nói lên
vấn đề tranh vẽ của trẻ em còn nhiều điều bí ẩn mà người
lớn chưa chắc đã hiểu và cảm nhận được. Với những nhà
nghiên cứu bên lĩnh vực tâm lí, sư phạm thì đã có nhiều
công trình, bài viết liên quan đến vấn đề tranh vẽ của trẻ
em và dường như vấn đề này không có gì là đặc biệt cả.
Nhưng thực sự hiểu biết rõ được tranh trẻ em vẽ có từ
đâu, có tính lịch sử không thì có lẽ không nhà nghiên cứu
mĩ thuật nào quan tâm tới tranh vẽ của trẻ em ở Việt Nam
dám tin vấn đề này đã có tính lịch sử.
Hai mô hình lí thuyết này là sự tổng hợp của nhiều
ngành cùng quan tâm như: các nhà tâm lí học, nhà sử
học nghệ thuật, nhà giáo dục học, nhà thực hành sư
Trên thế giới đã có khá nhiều nhà nghiên cứu tới phạm, nhà giáo dục về nghệ thuật đều nhằm mục đích
tranh vẽ của trẻ em, tập trung nhất là ở một số nước là tìm hiểu về tranh vẽ của trẻ em. Tất cả những nhà
Châu Âu và Châu Mĩ và không ít những lí thuyết đã nghiên cứu trên cùng quan tâm vào một đối tượng là
được đưa ra để làm cơ sở tiếp cận, phân tích bằng những tranh vẽ của trẻ em, những ở mỗi ngành nhỏ lại khai
luận điểm của một thể loại mĩ thuật mà chủ thể sáng tạo thác cụ thể vào các vấn đề rất khác nhau. Ví dụ, các nhà
là trẻ em, có thể trẻ em chỉ “sáng tác bằng bản năng” tâm lí thông qua các sản phẩm tranh vẽ của trẻ em để
trong cảm thụ của hội họa. Trong một số lập luận tìm hiểu diễn biến nội hàm bên trong của chính các em;
nghiên cứu đến tranh vẽ của trẻ em trên thế giới có nói còn những nhà giáo dục nghệ thuật lại quan tâm về sự
tới việc nghiên cứu này đã được tiến hành vào cuối thế biểu hiện trong bức vẽ được các em thể hiện trên tranh
kỉ XVIII. Có một minh chứng đã lấy mốc năm 1884, có thông qua màu sắc, hình thể, không gian, bố cục… Lí
một Hội nghị Quốc tế về giáo dục (được tổ chức ở Anh) thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” thuộc về lĩnh vực
đã bàn luận tới việc này và lấy tên là “Những lí thuyết nghiên cứu nghệ thuật như: sử gia nghệ thuật, lí luận và
về sự va chạm trong nghệ thuật và giáo dục”, nhiều phê bình nghệ thuật, các nhà giáo dục nghệ thuật. Ở lĩnh
82
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86
vực nghiên cứu này, các học giả đều cho rằng: tranh vẽ của trẻ em. Trong nghiên cứu của ông, có giới thiệu tới
của trẻ em giống như “cánh cửa sổ nhìn ra thế giới”, nó một bài học vẽ cho Emil (là con của Rousseau) bằng cách
hoạt động như một ô cửa sổ được mở ra, một phần của nhìn của đôi mắt và sự khéo léo của đôi bàn tay khi Emil
thế giới lại hiển hiện trước mắt. Đó là một sự tái tạo của 12 tuổi. Ông đã nói đến bằng cách nhìn của đôi mắt, rất
thực tế khách quan mang ý nghĩa bên trong của hình đúng khi luận bàn tới vấn đề thẩm mĩ trong sáng tác thì
ảnh. Trong khi đó, lí thuyết “Mô hình gương tâm lí” cách nhìn thông qua đôi mắt là số một (cái nhìn bình
hướng đến tìm hiểu nguồn gốc của các nghiên cứu về thường thì dễ và thể hiện lại bằng đôi bàn tay khéo léo
nghệ thuật tranh vẽ của trẻ em. Gương soi là phương chắc sẽ đạt kết quả, nhưng ở đây ông đã nhấn mạnh cái
tiện tốt nhất để làm sáng tỏ hình ảnh chỉ bởi vì nó đại nhìn của cảm giác thì nó lại hoàn toàn khác. Vì cái cảm
diện cho hình ảnh mà rất gần với thực tế, do đó thu hút trong mĩ thuật là cái rất đặc biệt dành cho mỗi người,
sự so sánh trực tiếp thực tế với hình ảnh phản chiếu không phải ai khi vẽ tranh lại có cái cảm được tốt, cái
trong gương chính là đại diện cho chúng, trẻ em mới có cảm của chính tâm hồn của mình). Như trên tạm giải
thể biểu hiện những sự vật chúng thấy bằng việc vẽ nghĩa thì chúng ta mới thấy giá trị của từ cảm trong mĩ
tranh trên giấy. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu tiếp nối thuật là rất quan trọng, thế mà ông đã đưa ra để khuyến
vấn đề trên đã tổng hợp lại hai mô hình của hai lí thuyết khích cho Emil khi vẽ tranh, thật là một sự động viên
gần như là khác nhau để tạo ra một sự thống nhất ở mức tuyệt vời mà không phải những nhà giảng dạy mĩ thuật
cơ bản nhất, đó là lí thuyết “Mô hình tâm lí học và nghệ cho trẻ em nào cũng hiểu được. Chính vì thế mà theo
thuật” (“Psychological and artistic models”), tạo thêm quan niệm của ông thì thiên nhiên nên là “giáo viên duy
một cơ sở để lập luận và trả lời những câu hỏi mà giả nhất” của người học vẽ. Đây là một tiên đoán sơ bộ của
thuyết về tranh vẽ của trẻ em như nhà họa sĩ Việt Nam thẩm mĩ để chấp nhận và đánh giá cao vẻ đẹp các bức
nói là “tranh vẽ của trẻ em cần có đáp số”...
tranh của trẻ em, chứ không phải bức tranh đẹp có sự can
thiệp của người lớn. Khi bàn về sự phát triển tranh vẽ của
trẻ em theo các giai đoạn, ông đã đưa ra một câu cũng
khá hay. Ông cho rằng “Ở mỗi độ tuổi tranh trẻ em vẽ
đều có sự hoàn chỉnh riêng của nó, và giai đoạn sau chỉ
hoàn thiện thông qua sự hoàn thiện của nó trước đó”. Câu
nói này hoàn toàn đúng không những vào thời điểm của
ông mà vẫn đúng cho tới tận bây giờ, thậm chí cả trong
tươnglai nữa. Thật là một câu nói rất xác đáng cho những
ai quan tâm tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em.
Tiếp nối Rousseau, Thomas Robert Ablett (1848-
1945), người Anh đã vận dụng mô hình này. Ông đưa ra
một số nhận định rằng “Hầu hết trẻ em không chỉ thích
vẽ mà còn cảm thấy phải thể hiện mình bằng tranh”. Câu
nói này thì bình thường chưa có chuyên môn sâu về mĩ
thuật, song cũng là một nhận định cần phải có khi bàn tới
tranh vẽ của trẻ em. Nhưng ông lại đưa ra một quan niệm
cho quá trình vẽ tranh của trẻ em khá hay, theo ông thì
không nên để trẻ em phát triển kĩ năng vẽ theo kiểu tự
nhiên, nhận xét của ông đặc biệt quan trọng vì sau này
ông trở thành một người có ảnh hưởng cực kì lớn trong
nền giáo dục nghệ thuật cho trẻ em ở Anh. Ông còn lí
giải “Học vẽ hay vẽ tranh nên để trẻ em phát triển khả
năng quan sát thiên nhiên một cách cẩn thận thông qua
những bài học”. Những nhận xét của ông đã tạo ra một
sự trái chiều so với nhà nghiên cứu Rousseau trước ông.
Hai quan điểm này cùng đi đến vấn đề hướng dẫn dạy vẽ
cho trẻ em một cách đúng nhất, nhưng chúng ta đều thấy
hướng đi nào cũng đúng và cũng cần, trẻ em cần có sự
định hướng khi học vẽ theo các bài học, song cũng rất
cần sự thể hiện bằng cách tự nhiên nhất.
2.
Nội dung nghiên cứu
2.1. Lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ”
Trong số những nhà nghiên cứu đến tranh vẽ của trẻ
em đầu tiên phải nói tới đó là Jean Jacques Rousseau
(1712-1778), người Pháp, ông đã áp dụng mô hình lí
thuyết này để phân tích, giải thích về tranh vẽ của trẻ em.
Ông đã đưa ra một số nhận định như “Chúng tôi không
biết gì về trẻ em vẽ, đó là những người khôn ngoan nhất”,
theo ý chủ quan của ông thì hãy để trẻ em tự vẽ mà không
cần sự can thiệp của người lớn. Tiếp đó, ông đã có một
nhận xét rất hay “Trẻ em có một cách thức nhận thức,
suy nghĩ và cảm giác đặc biệt của chính nó” , câu nói này
thấy rõ ông khá hiểu về tâm lí của trẻ em. Đây là một
điều rất khó và lúng túng cho những nhà họa sĩ, nhà
nghiên cứu lí luận mĩ thuật của Việt Nam khi bàn luận về
vấn đề này (vì họ thường có cách nhìn tách riêng mĩ thuật
là mĩ thuật, tâm lí là tâm lí), nhưng thực sự trong tranh vẽ
của trẻ em nó lại là một. Chừng nào họ hiểu được điều
này, khi đó mới giúp trẻ em sáng tạo ra theo đúng sản
phẩm của chính các em. Nếu điều này được đem ra so
sánh thì khá nhiều cơ sở dạy vẽ tranh cho trẻ em, đặc biệt
là vào những dịp chuẩn bị cho các em vẽ tranh để đi thi
ở các cuộc thi thì gần như là sản phẩm của các em đã có
sự định hướng, can thiệp sâu, theo khuôn mẫu của người,
vì vậy tranh vẽ của trẻ em Việt Nam hiện nay khá khô
cứng, giống nhau và rất thiếu cảm xúc theo đúng tâm lí
như Rousseau đã nói hãy để cho trẻ em vẽ theo cảm giác
đặc biệt của chính nó. Chính vì câu nói trên mà ông đặc
biệt quan tâm đến sự phát triển của cảm giác và tri giác
83
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86
Người thứ ba nghiên cứu áp dụng theo lí thuyết này với sự hồn nhiên theo kiểu tự nhiên và rất gần với môi
là Ebenezr Cooke (1885), cũng là người Anh. Ông đưa
ra một số nhận định về tranh vẽ của trẻ em như: “Trẻ em
thích sử dụng tranh vẽ như một phương tiện biểu hiện,
vui thích để vẽ từ bộ nhớ hoặc trí tưởng tượng”. Ở đây,
ông đã nói tới hoạt động vẽ của trẻ em là hoạt động
thường xuyên, liên tục dường như nó là một phương tiện
để biểu hiện, xuất phát từ bộ nhớ hay trí tưởng tượng, khi
xét câu nói này cũng không có gì là đặc biệt cả, vì đúng
nó là một điều hiển nhiên ở trẻ em. Nhưng ở điều khẳng
định thứ hai của ông về tranh vẽ của trẻ em thì làm chúng
ta phải suy ngẫm, ông khẳng định “Trẻ em không vẽ
những gì nó nhìn thấy mà là những gì nó biết và hiểu ”
và ông còn đưa ra thêm lí thuyết nghiên cứu trẻ em và
cho rằng “Vẽ tranh của trẻ em như một lí thuyết theo các
giai đoạn phát triển”. Cụ thể: Giai đoạn đầu (từ 2-4 tuổi);
Giai đoạn thứ hai (từ 5-6 tuổi); Giai đoạn thứ ba (từ 7-8
tuổi); Giai đoạn thứ tư (từ 9-10 tuổi). Khi phân loại về
các giai đoạn phát triển tranh vẽ của trẻ em Cooke đã mô
tả chi tiết những gì Rousseau “ám chỉ” nhiều năm trước
đó, nghĩa là trẻ em học cách vẽ theo thứ tự, với từng giai
trường tự nhiên và tự tạo ra sự hòa đồng đó mà ở người
lớn không bao giờ có được. Do đó yếu tố môi trường tự
nhiên và cách vẽ tự nhiên cho trẻ em luôn phải được đề
cao trong quá trình dạy vẽ cho chúng. Và ông đưa ra
một quan điểm rất hay nữa là “Nghệ thuật của trẻ em
không phải đạt được bằng kĩ năng tạo hình mà bằng một
quá trình sáng tạo”. Rất là đúng, nếu chỉ lấy một bức
tranh của trẻ em để so sánh thì chúng chưa có giá trị gì
mấy so với tranh vẽ của người lớn, song nếu xem xét
theo một quá trình thì là một sự phát triển khổng lồ mà
người lớn không phải ai cũng làm được về cả mặt số
lượng cũng như theo một quá trình diễn biến cảm xúc
của trẻ em. Và đây là một câu nói ông đưa ra làm rất
nhiều nhà nghiên cứu sau này phải mất công mất sức,
mà chưa chắc đã hiểu được đúng và giải thích được điều
này “Trong tranh trẻ em vẽ có chứa đựng vô thức
không? ”. Ngoài ra, trong nghiên cứu của mình, ông
còn đưa ra một số nhận định “Trẻ em từ 1,5-3 tuổi là
giai đoạn đầu tiên, giai đoạn chữ viết nguệch ngoạc và
đoạn dần dần trực tiếp đến gián tiếp. “Đây là một khái nhòe nhoẹt, có tầm quan trọng vô cùng và nhiều điều
niệm mang tính cách mạng”. Ablett và Cooke, họ phải
mất30nămnghiêncứuthiếtlậpnên“Môhìnhcửasổthẩm
mĩ” ở thế kỉ XIX, nhưng vào thời điểm đó những nghiên
cứu của họ không được công nhận và vẫn là những điều
thách thức cho những nhà nghiên cứu tiếp theo.
không đúng lắm đã gây ra một cách vô thức”. Đây là
thời đại của nghệ thuật thuần khiết nhất, gần như là
“Erbgut” (di sản) của trẻ em trong giai đoạn này. Câu
nói của ông đã nhấn mạnh tới cả từ di sản, nó giống như
một sự khẳng định bằng bản quyền mà không có sự thay
đổi, liệu câu nói này có thực sự đúng không chưa chắc
chúng ta nghĩ tới để bàn luận sâu, vì cũng không ai dám
hiểu sâu về tâm lí của trẻ em để nhận định vấn đề này
là đúng hay sai, mà nên chỉ thống nhất ra một điều, đó
là câu nói tuyệt vời nhất và đúng nghĩa nhất dành cho
trẻ em. Vì hiểu một cách đơn giản giai đoạn đó là trẻ
em vẽ theo kiểu bản năng chưa có sự tác động của người
lớn. Nhiều nhà nghiên cứu phải khẳng định rằng phải
chờ đến nhiều quan điểm của nhà nghiên cứu Cizek đưa
ra chúng ta mới có thể biết nhiều, đọc được nhiều thứ
và hiểu được nhiều thứ từ tranh vẽ của trẻ em.
Và người tiếp theo cùng có những quan điểm của
mô hình lí thuyết này là Franz Cizek (1865-1946),
người Áo. Ông đã học tại Học viện Mĩ thuật năm 1885
và được coi là nhà nghiên cứu giải mã được nhiều thứ
nhất trong tranh trẻ em vẽ thời đó. Ông đưa ra rất nhiều
nhận định như: “Tranh trẻ em vẽ chúng là một hệ thống
ngôn ngữ phát triển và mang tính tượng trưng trong tự
nhiên” và giải thích “Tranh trẻ em vẽ giống như một
cửa sổ trên thế giới, nó hoạt động như một cửa sổ để
làm cho một phần của thế giới có thể nhìn thấy được”.
Câu nói này về sau chính là đặc điểm nội hàm của lí
thuyết mô hình “cửa sổ thẩm mĩ”. Ông nói “Tranh trẻ 2.2. Lí thuyết “Mô hình gương tâm lí”
em vẽ khác biệt và rất khác so với tranh vẽ của người
Thế giới nội tâm là một điểm sáng cho lĩnh vực tâm
lớn. Trẻ em sáng tạo và vẽ tranh nhiều hơn đa số người
lớn” Câu nói của ông là rất đúng giữa trẻ em và người
lớn phải có sự khác biệt chứ không thể cho là một được.
Tranh vẽ của trẻ em được vẽ theo một hệ thống ngôn
ngữ mang tính tượng trưng trong tự nhiên vì đơn giản
là chúng không thể vẽ đúng các đối tượng ở tự nhiên
như là người lớn được. Và ông đưa ra một nhận xét nữa
là “Phải có một sự hiểu biết rằng trẻ em có các quy tắc
hoặc luật tự nhiên của riêng mình và rằng đứa trẻ đó gần
gũi với thiên nhiên hơn người lớn”. Đúng là trẻ em gắn
lí khi nghiên cứu về tranh vẽ của trẻ em, vấn đề này như
một lĩnh vực nghiên cứu hiện đại ở thế kỉ XX. Khi đã
có một cơ chế tâm lí trẻ em thuận lợi thì một loạt các
nghiên cứu cho vấn đề tranh vẽ được xuất hiện đánh
dấu sự ra đời và phát triển về tâm lí nghệ thuật, cùng
với đó là sự xuất hiện của lí thuyết “Mô hình gương tâm
lí” để áp dụng nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em. Người
tiêu biểu cho mô hình này là James Sully (1884-1923),
người Anh, chịu trách nhiệm đưa nghệ thuật của trẻ em
vào tâm lí học. Ông đưa ra “Quan điểm đầu tiên của trẻ
84
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86
em về nghệ thuật là phụ thuộc vào sự phát triển”. Sự phát
Người thứ hai đại diện cho lí thuyết “Mô hình
triển dựa trên sự hiểu biết về sự biểu hiện của thị giác gương tâm lí”, lại là một nhà nghiên cứu đặc biệt, vì ông
hoặc tưởng tượng của trẻ em thông qua sự vật. Ông giải có điểm xuất phát từ “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ”, chúng
thích “Trẻ em bắt đầu thực hiện theo thực tế, nhưng ta xem như “một sự khởi đầu giao thoa”, đó là Viktor
không phải thực tế hữu hình. Gương soi là phương tiện Lowenfeld (1903-1960), người Áo. Ông được tiếp cận
tốt nhất để làm sáng tỏ chức năng đại diện của hình ảnh. nghiên cứu bài bản từ lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm
Trẻ em có thể nhận ra sự phản chiếu của chúng trong mĩ”, đây được coi là yếu tố truyền thống là bước khởi
gương như là đại diện của chính mình. Chúng bắt đầu tạo đầu, song ông không chấp nhận dừng lại ở đó mà ủng
ra những đại diện riêng của chính mình và các đối tượng hộ hướng nghiên cứu mới là thiên về tâm lí trong sáng
trên giấy, đó chính là tranh vẽ. Đây là nguồn gốc của mô tạo nghệ thuật. Có nghĩa ông đã quan tâm đến yếu tố
hình gương tâm lí, lấy biểu tượng gương soi để phản cảm giác, cảm nhận trong sự thúc đẩy nghệ thuật của
chiếu nội tâm của trẻ em thông qua bức tranh vẽ. Mới trẻ em. Và từ đây, ông cũng có một điểm chung với sự
nghe nói tới vấn đề gương soi làm chúng ta rất khó hiểu, diễn giải của Freud về nghệ thuật của trẻ em từ những
nhưng hãy xem ở mô hình cửa sổ thẩm mĩ thì ở đó sự người bị ảnh hưởng bởi các lí thuyết của ông và lĩnh
thể hiện là bằng những hình ảnh tự nhiên, hình ảnh thật vực trị liệu nghệ thuật bắt đầu vào những năm 1960.
được bộc lộ ra bên ngoài. Còn ở mô hình này chính là Trong nghiên cứu của mình về tranh vẽ của trẻ em, ông
sự biểu hiện ngược lại, biểu hiện ở bên trong và thông cũng có một nhận định rằng sự phát triển tranh vẽ của
qua gương soi để chúng ta có thể cảm nhận được điều trẻ em được thể hiện bởi nhiều giai đoạn khác nhau.
đó. Dựa vào lí thuyết này, Sully đưa ra các quan điểm Ông phân chia thành 5 giai đoạn sau: Viết nguệch ngoạc
của mình khi nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em. Ông (từ 2-4 tuổi); Phác họa sơ bộ (từ 4- 7 tuổi); Phác họa (từ
cho rằng “Trẻ em vẽ những gì chúng biết về chủ đề, chứ 7-9 tuổi); Chủ nghĩa hiện thực sơ khai trong độ tuổi (từ
không phải những gì chúng thực sự thấy trước mắt”. Sự 9-12 tuổi); Giai đoạn tự nhiên- giả tạo (từ 12-14 tuổi);
nhìn nhận của ông về vấn đề này rất hay, rõ ràng cái trẻ Thời gian quyết định (từ 14-17 tuổi). Ở mỗi giai đoạn
em nhìn thấy trước mắt nhưng không phải là thật trên này, ông đều đưa ra những lí thuyết của mình về những
bức tranh, điều này là vì sao vậy? Vì trẻ em không có gì được xảy xa “đằng sau hay bên trong” của những bức
đủ kiến thức về chuyên môn như người lớn để có thể vẽ đó từ trẻ em.
sao chép lại các đối tượng thấy trước mắt mà thể hiện
2.3. Lí thuyết “Mô hình tâm lí học và nghệ thuật”
ra được trên giấy. Do vậy, chúng chỉ thể hiện ra được
những gì chúng biết về chủ đề của những hình ảnh đối
Mỗi một thời đại lại đánh dấu một bước phát triển
tượng đó mà thôi, từ đó chúng ta mới thấy sự bộc lộ này riêng, ở lĩnh vực tranh vẽ của trẻ em cũng vậy, vào thời
là bằng nội tâm là nhiều hơn, chứ không phải thể hiện điểm của thế kỉ XX ảnh hưởng thế giới từ các trào lưu
bằng lí trí như ở người lớn. Và ông cũng nhấn mạnh nghệ thuật hiện đại đã làm thay đổi một số quan niệm
thêm rằng “Khi trẻ em vẽ, chúng không quan tâm đến về nghệ thuật tạo hình nói chung và hội họa của trẻ em
tính chính xác”. Từ câu nói này của ông, chúng ta hãy nói riêng. Từ hai lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và
đặt ngược vấn đề, nếu cho trẻ em vẽ thật kĩ, thật đúng “Mô hình gương tâm lí” đã không còn được quan tâm
hay thật chính xác, thực ra chúng cũng sẽ không làm vận dụng từ những nhà nghiên cứu khi xem xét tranh vẽ
được. Cho nên trẻ em khi vẽ thường không quan tâm của trẻ em, nhưng những giá trị của chúng vẫn được
đến độ chính xác là một sự hiển nhiên và như vậy tranh tiếp tục phát triển, kết nối với các dòng nghệ thuật khác
vẽ của trẻ em chỉ mang tính chất khái quát, tượng trưng có tính hiện đại hơn. Và một người đại diện cho sự kết
về những điều trẻ cảm nhận và thông qua ngôn ngữ hội nối mới này là Rudolf Arnheim (1904), người Đức.
họa để biểu đạt lên tranh vẽ một cách hết sức tình cờ gắn Ông là giáo sư tâm lí học về nghệ thuật, với cương vị
nhiều với yếu tố chủ quan của chủ thể sáng tác. Trong của mình ông đã tổng hợp các phương pháp tiếp cận
nghiên cứu của Sully, ông cũng đưa ra sự phát triển tranh trước đó từ cả “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và “Mô hình
vẽ của trẻ em là thông qua các giai đoạn khác nhau. Ông gương tâm lí” và đề xuất một lí thuyết mới gọi là “Mô
chia thành ba giai đoạn: giai đoạn “vẽ bắt chước (2-3 hình tâm lí và nghệ thuật”. Đây là một nhân vật rất đặc
tuổi), giai đoạn vẽ giản đồ theo kiểu tượng trưng (4-5 biệt có sự hoàn hảo về chuyên môn, bởi ông là người
tuổi), giai đoạn chuyển động mang tính chủ nghĩa tự vừa có kiến thức về tâm lí học lại vừa có kiến thức về
nhiên (5-6 tuổi). Những gì ông đưa ra cũng là bước khởi hội họa, hai yếu tố này được kết hợp bổ trợ cho nhau
đầu để chứng minh rằng tranh vẽ của trẻ em còn được trong một con người là một điều khá hiếm thấy. Vì thế,
biểu hiện bằng cảm xúc nội tâm, chứ không đơn thuần là ông được coi là nhà lí thuyết có ảnh hưởng nhiều nhất
cảm xúc biểu hiện qua hình thức bên ngoài.
vào thời điểm đó khi nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em.
85
VJE
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86
Ông đã để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa cho thế hệ thức cho các thế hệ tiếp theo. Nhưng những mô hình
sau khi nhắc tới ông, quả là một nhân vật xuất chúng vì
có quá nhiều sự khen ngợi. Trong lí thuyết của ông đưa
ra khá nhiều quan điểm của mình về tranh vẽ của trẻ em,
nhưng có một câu thấm thía và đúng nhất đó là “Trẻ em
vẽ những gì chúng biết chứ không phải những gì chúng
nhìn thấy”. Câu nói này tưởng rằng rất đơn giản khi bàn
luận tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em, nhưng đó là câu nói
chứa đựng sự hiểu biết và một cách nhìn khá toàn diện
về tranh vẽ của trẻ em vào thời điểm đó. Nếu câu nói này
có vào thời điểm bây giờ có lẽ vẫn đúng, vì một điều hiển
nhiên để một người có thể vẽ được đúng những sự vật có
trong tự nhiên phải cần có kiến thức chuyên môn tạo hình
sâu, không thì cũng phải nắm được luật phối cảnh thì mới
chuyển tải các đối tượng nhìn thấy vào tranh vẽ được và
điều này ở trẻ em là không thể. Do vậy, trẻ em vẽ những
gì chúng biết là khá chính xác, từ biết ở đây được hiểu là
cái cảm nhận của chính các em thông qua các yếu tố của
hội họa trong bức tranh, chứ chữ “biết” ở đây không có
nghĩa là hiểu biết. Tài năng đặc biệt của Arnheim là khả
năng tham khảo chéo hai điểm trọng tâm khác nhau vào
một chủ đề liên ngành toàn diện bao gồm cả quan điểm
của “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và “Mô hình gương tâm
lí”. Ông chắc chắn đã để lại một di sản mạnh mẽ và quan
trọng cho “Tâm lí học và nghệ thuật” của mình mà tiếp
tục thách thức cho những mô hình mang tính độc quyền
trong cả hiện tại và tương lai. Như trên đã nói thế kỉ XX
là giai đoạn chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu nghệ
thuật, trong đó có cả vấn đề tranh vẽ của trẻ em, cũng
được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
nghiên cứu của họ sẽ giúp các nhà nghiên cứu sau này có
cơ sở lập luận ban đầu về tranh vẽ của trẻ em. Còn nhìn ở
góc độ mĩ thuật thì ba mô hình trên chưa có sự phân tích
sâu sắc ở nhiều khía cạnh mang tính chuyên môn về tạo
hình như: Màu sắc, không gian, bố cục, nhịp điệu, chất
cảm.., trong tranh vẽ của trẻ em mà mới dừng lại ở việc
phân tích, giải nghĩa vấn đề hình vẽ, giai đoạn, cách vẽ,
cách nhìn... Chúng rất cần được nghiên cứu tiếp và làm
sáng tỏ hơn nữa và như đã nói, chúng sẽ là thách thức
cho những nhà nghiên cứu tiếp theo ở những thế kỉ này
và thế kỉ sau. Song qua đó chúng ta có thể hiểu được
cách nghiên cứu khá khoa học và bài bản của họ, cùng
với sự phát triển tranh trẻ em vẽ theo sự phát triển của
chính đứa trẻ và cũng theo lịch sử phát triển của mỗi
thời đại khác nhau.
Ở Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và
dạy vẽ tranh cho trẻ em đã áp dụng được 3 lí thuyết nêu
trên chưa? Theo khá nhiều nguồn tài liệu trong nước đã
bàn luận tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em để áp dụng theo
những mô hình lí thuyết trên thì đã có nhưng việc áp dụng
này chưa thực sự rõ ràng và đang tạo ra một sự xung đột
trái chiều. Những điều tưởng rằng tranh vẽ của trẻ em vẽ
rất đơn giản nhưng thực sự để hiểu biết về nó và định
hướng đúng cho quá trình biên soạn được một bộ sách dạy
mĩ thuật nhiều tập phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi cho trẻ
em Việt Nam vẫn còn là một chặng đường dài phía trước.
3. Kết luận
Tài liệu tham khảo
Theo các nhà nghiên cứu tranh trẻ em vẽ trên thế [1] Arnheim, R. (1974a). Art and visual perception
(Nhận thức nghệ thuật và trực quan): A
psychology of the creative eye. The new version.
Berkeley: University of California Press.
giới từ nhà nghiên cứu đầu tiên Rousseau (1712-1778),
thì chúng ta đã thấy được lịch sử của nó tính đến nay đã
hàng ba thế kỉ. So với những nghiên cứu tranh vẽ của
người lớn thì còn khá ngắn, nhưng với những nghiên cứu
về tranh trẻ em vẽ cũng đã có một chặng đường khá dài
đủ làm cơ sở ban đầu đánh một dấu mốc có tính lịch sử
và sự diễn biến phát triển cho quá trình này tới tận ngày
nay. Nghiên cứu đến tranh trẻ em vẽ là một vấn đề rất
phức tạp và tạo ra nhiều tranh cãi mang tính trái chiều
nên rất khó thống nhất, song như những sự kiện đã được
tóm lược của bài viết ngắn này cũng đã thấy khá rõ
hướng đi của những nhà nghiên cứu khá cơ bản theo ba
lí thuyết là “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ”, “Mô hình gương
tâm lí” và giao thoa kết hợp lại thành “Mô hình tâm lí
và nghệ thuật”. Để làm được điều này những nhà
nghiên cứu cũng mất gần hai thế kỉ mới xây dựng xong
các mô hình trên, mặc dù khi xây dựng mô hình xong họ
còn không được công nhận, hưởng ứng và vẫn đầy thách
[2] Cooke, E. (1886). Art teaching and child nature
(Giảng dạy nghệ thuật và bản chất trẻ nhỏ).
Journal of Education, pp. 12-15.
[3] Cowper.R. (Ed) (1884). Proceedings of the
international conference on education (Tiến trình
của hội nghị quốc tế về giáo dục) (Vol. 2). London:
William Clower, pp. 24-28.
[4] Lowenfeld,V, - Brittain, W.L (1982). Creative and
mental growth (Sáng tạo và tăng trưởng trí tuệ)
(7th ed). New York: Macmillan.
[5] Rousseau, J.J. (1911). Emile (B. Foxley, Trans).
London: Aldine Press.
[6] Sully.J. (1888). Outlines of psychology (Phác thảo
về tâm lí học). New York: D. Appleton.
[7] Kellog, R. (1970). Analyzing children’s art (Phân
tích nghệ thuật của trẻ em). Palo, CA: National.
86
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tim_hieu_mot_so_li_thuyet_ve_tranh_ve_cua_tre_em.pdf