Hình tượng người trong điêu khắc của một số đình làng ở huyện Hoài Đức (Thành phố Hà Nội)
8
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 66 (4/2020) 8-14
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI TRONG ĐIÊU KHẮC CỦA MỘT SỐ
ĐÌNH LÀNG Ở HUYỆN HOÀI ĐỨC (THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
PEOPLE IMAGE IN THE SCULPTURES OF SOME VILLAGE
COMMUNAL HOUSE IN HOAI DUC DISTRICT (HANOI CITY)
Bùi Xuân Đính*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/10/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/04/2020
Tóm tắt: Thông qua giới thiệu những mảng điêu khắc ở hai ngôi đình làng được
dựng vào cuối thế kỷ XVII và một ngôi đinh thế kỷ XIX (kế thừa những nét điển hình của
đình thế kỷ XVII) thuộc huyện Hoài Đức (thành phố Hà Nội), bài viết chỉ ra cơ sở ra đời,
những nội dung phản ánh và các thủ pháp thể hiện của điêu khắc đình làng ở một vùng đất
thuộc trấn Sơn Tây - Xứ Đoài thời Lê. Con người được lấy là trung tâm để khắc họa sống
động nhiều mặt sinh hoạt của đời sống làng quê đang vươn lên trong không khí đất nước
hòa bình. Điêu khắc cũng phản ánh khát vọng của người nông được sống trong một xã hội
dân chủ, bình đẳng.
Từ khóa: Hình tượng người, Điêu khắc, Đình làng, Hoài Đức.
Abstract: Through the introduction of the sculptures of two village communal houses
built in the late 17th century and one built in the 19th century (which inherits the typical
features of the 17th century communal house) in Hoai Duc district (Hanoi city), the article
shows the basis of birth, the reflected content and the art technique of the village sculptures
in an area of Son Tay town - Xu Doai in the Le Dynasty. People are put into center to
vividly portray many asprects of a rural village life which is rising up in the atmosphere of
a peaceful country. Sculptures also reflect the aspiration of farmers to live in a democratic
and equal society.
Keywords: People image, Sculpture, Communal house, Hoai Duc.
1. Mở đầu
làng; nên được dân làng chăm chút kiến
thiết trên cả hai mặt kiến trúc và điêu khắc.
Ngôi đình trong các làng Việt là
trung tâm sinh hoạt chính trị - xã hội của
dân làng, nơi thờ thành hoàng và tổ chức
các hoạt động văn hóa với đỉnh cao là hội
làng. Đình được coi là bộ mặt của mỗi
Điêu khắc đình làng thể hiện ở phần
mái, các vì kèo, mái và một số bộ phận khác
trong toàn bộ ngôi đình, trong đó tập trung
nhất là ở cửa võng và cả các vì kèo, thông
* Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
9
qua các bức chạm. Đề tài mà các bức chạm
phản ánh là hình ảnh các loài chim - thú,
người và cỏ cây hoa lá với nhiều nội dung
khác nhau, phụ thuộc vào từng ngôi đình ở
các địa phương, vùng miền ở các thời kỳ,
từng hiệp thợ, thậm chí vào hoa tay của từng
người thợ tạo ra các bức chạm. Với phong
cách phóng khoáng, chủ đề tự do, không bị
áp đặt, gò bó như điêu khắc trong các công
trình kiến trúc tôn giáo hay kiến trúc cung
đình, các mảng điêu khắc đình làng mà
những người thợ mộc - các nghệ nhân dân
gian tạo ra phản ánh tư tưởng của người
dân quê sống trong lòng xã hội phong kiến
quan liêu. Nghiên cứu giá trị của các mảng
điêu khắc ở các ngôi đình từng vùng không
chỉ làm rõ lịch sử phát triển, đặc điểm của
nền nghệ thuật điêu khắc nói chung, mà
còn tạo cơ sở khoa học cho việc bảo tồn,
phục dựng các mảng điêu khắc đó, khi tiến
hành trùng tu các ngôi đình.
điêu khắc, có thể xác định được những
ngôi đình xuất hiện sớm nhất (cuối thế kỷ
XVII) là đình Tiền Lệ (xã Tiền Yên, năm
Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị, 1676), đình
An Trai (xã Vân Canh, khoảng niên hiệu
Vĩnh Trị, 1676 - 1680), đình Giang Xá
(thị trấn Trạm Trôi, cuối thế kỷ XVII)...
Loạt đình được xây dựng tiếp theo (đầu
thế kỷ XVIII) là đình Kim Hoàng (xã Vân
Canh), đình Lại Yên (xã Lại Yên)... Mỗi
đình có dáng nét riêng về kiến trúc và điêu
khắc. Về điêu khắc, mảng chạm khắc có
nội dung đa dạng về người, động - thực
vật, trong đó, các cảnh về người có vị trí
nổi bật.
Bài viết này giới thiệu một số nét
độc đáo của các mảng điêu khắc có đề tài
hình tượng con người tại ba ngôi đình làng
tiêu biểu trong huyện.
2.1. Đình Giang Xá
Bài viết này giới thiệu một số tư liệu
về mảng điêu khắc có chủ đề con người
của một số đình làng ở huyện Hoài Đức
(thành phố Hà Nội), vùng đất gồm một số
làng - xã của hai huyện Đan Phượng và Từ
Liêm thuộc phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây,
đất Xứ Đoài thời Lê†.
Làng Giang Xá (thuộc thị trấn Trạm
Trôi) hiện còn ngôi đình tọa lạc cách Tỉnh
lộ 422 từ thị trấn Trạm Trôi ra đường
Thăng Long khoảng 200 mét. Đình nhìn
hướng Đông, kết cấu chữ “Đinh”. Tòa đại
đình gồm 3 gian, 2 chái, 2 dĩ, nối với hậu
cung 2 gian. Hiện không còn văn bản Hán
Nôm nào cho biết thời điểm dựng đình,
nhưng qua kiến trúc vì kèo cùng các mảng
điêu khắc trên các bức cốn, các xà con...
cho thấy, đình được dựng vào cuối thế kỷ
XVII, đầu thế kỷ XVIII,
2. Mảng điêu khắc về đề tài người
qua một số đình làng tiêu biểu ở huyện
Hoài Đức
Đến nay, qua bao thăng trầm của
lịch sử, huyện Hoài Đức vẫn còn giữ
được 45 ngôi đình, trong đó có 24 đình
được xếp hạng cấp quốc gia, 9 đình được
xếp hạng cấp tỉnh và 12 đình chưa được
xếp hạng.
Điểm độc đáo đầu tiên của điêu khắc
đình là bố trí các bức chạm tại gian giữa
tòa đại đình, tập trung ở các bức cốn của vì
nách. Ở hai cốn phía ngoài, các nghệ nhân
chạm khắc mặt trong nhìn xuống lòng
giếng, còn ở hai cốn bên trong lại chạm
Trong số các ngôi đình đã được
xếp hạng, qua các văn bản Hán Nôm và
† Địa danh hành chính “Huyện Hoài Đức” chính thức được thành lập tháng 8 - 1945, sau thắng lợi
của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
10
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
mặt ngoài nhìn ra hai bên; giúp cho khách
tham quan có thể dễ dàng quan sát, ngắm
nghía các bức cốn một cách tổng thể, liên
hoàn. Ngoài chủ đề “Rồng” với các tư thế
khác nhau ở phần lớn các bức cốn, ở bức
cốn phía bên trái, xuất hiện hình ảnh con
người, trong tư thế đứng, khuôn mặt phúc
hậu, tướng mạo khôi ngô, trong trang phục
truyền thống; tay phải đưa lên cao trong tư
thế ném một vật gì đó, còn tay trái chụm
lại đặt phía trước ngực.
Tại gian thứ ba bên trái, trên các xà
đùi có hình ảnh võ sĩ cưỡi ngựa đối diện
nhau. Xà đùi phía trong là hình ảnh võ sĩ
như trong tư thế đang nghênh chiến: đầu
chít khăn, tay phải giơ cao về phía sau,
tay trái chụm lại đưa lên trước mặt kiểu
khiêu khích, thách thức đối phương; còn
ngựa thì được chạm khắc khá mập, đầu
hơi ngoảnh, miệng hơi hé cười, trông rất
tinh nghịch. Đối diện với hình ảnh đó, ở
xà đùi phía ngoài là hình ảnh một võ sĩ
trong trang phục màu vàng, đầu cũng chít
khăn, lưng thắt đai. Nếu võ sĩ trên xà đùi
đã nêu ở trên trong tư thế nghênh chiến,
khiêu khích, thì võ sĩ trên xà đùi này hoàn
toàn quay đối diện với võ sĩ ở bên kia: ngồi
oai nghiêm trên lưng ngựa, song dáng vẻ
rất bình thản, điềm đạm, tay phải giơ cao,
tay trái cầm đao, nhưng không có vẻ hung
tợn. Đây chính là sự tài tình của các nghệ
nhân, tạo ra sự đối lập, tương phản giữa
hình ảnh hai võ sĩ.
Ở bức cốn bên phải, các nghệ nhân
tác tạo nên một hoạt cảnh vui nhộn nhờ
sự kết hợp giữa hình ảnh rồng và người;
trong đó, người là trung tâm của hoạt
cảnh. Đó là hình ảnh hai chú bé cưỡi lên
đầu rồng ở hàng dưới, hai tay dang rộng
và vươn lên cao.
Ở bức cốn phía đối diện cũng được
trang trí tỉ mỉ và tinh tế; có sự kết hợp
giữa hình ảnh các con rồng và tiên nữ
dáng mềm mại, thướt tha trong điệu múa
cổ. Hình chạm không cầu kỳ nhưng sống
động, tự nhiên, đầy sức sống.
Ngoài những hình ảnh nổi bật trên,
còn có nhiều mảng chạm hình ảnh người,
cảnh rồng và con người, như hình chú bé
cưỡi lên đầu rồng, hình các con rồng và
tiên nữ mềm mại, thướt tha trong điệu
múa cổ.
Ngoài tượng rồng kết hợp với
người, tòa đại đình còn được trang trí bởi
các tượng thú và cũng gắn với người. Ở
vị trí chính giữa của xà đùi, cạnh cột trốn
của gian bên phải có tượng voi đứng trên
một ván kê dày. Voi ở tư thế đang leo, lưng
gù, nên hai chân trước cao hơn dáng bước
đi, hai chân sau thấp; dáng voi to lớn uy
phong; vòi dài chạm tới phần chân trước,
tai nhọn nhô cao. Trên lưng voi có cùi
cao. Từ phần trước của cùi, tiếp giữa cổ
và đầu voi là hình ảnh một người trong tư
thế ngồi, gấp quặp chân về phía trước, hai
tay để lên trên gối; dáng người tinh nhanh,
mắt sáng, tóc dài kết túm bay ra sau, mặt
nhìn hướng sang bên. Các đường nét trên
trang phục được chạm nổi lên và tô sơn,
giúp người xem có thể hình dung đây là
hình ảnh một thiếu nữ.
2.2. Đình Kim Hoàng
Làng Kim Hoàng (xã Vân Canh)
hiện còn ngôi đình được hoàn thành Hàng
chữ trên cột cái đình cho biết, đình được
cất nóc vào ngày mồng 3 tháng Hai năm
Chính Hòa thứ 22 (12 - 3 - 1701). Đình
nhìn hướng Nam, kết cấu chữ “Đinh”
(chuôi vồ). Đại đình gồm 5 gian, 2 chái.
Giá trị nhất của đình Kim Hoàng không
chỉ thể hiện ở mặt kiến trúc: là sự chuyển
tiếp giữa phong cách kiến trúc của thế kỷ
XVII và XVIII mà còn ở phần điêu khắc.
Trên các kẻ, bẩy, cốn đều có các bức chạm.
Ở các gian bên trái (theo hướng đình) là cả
một “thế giới” của các hoạt cảnh dân gian,
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
11
phản ánh sinh động cuộc sống của làng xã,
tâm tư nguyện vọng của người nông dân.
Cụ thể:
đã cố gắng giữ lại những bức chạm trên
đình cũ, hoặc sáng tác lại theo bản cũ. Đây
là bài học kinh nghiệm của việc trùng tu
các di tích hiện nay.
- Các cảnh phản ánh các hoạt động
thể thao, như hai người đánh vật, người
bắn cung, người đâm đinh ba. Bên các
cảnh sôi động của hoạt động thể thao là
cảnh tĩnh tại với người đứng thổi sáo.
Về chủ đề của các mảng chạm khắc
trong đình, ngoài hình ảnh rồng và hoa lá
tại các mặt kẻ và mặt bẩy, các hình chạm
được tập trung tại các con rường giữa cột
cái và cột quân trước cửa hai gian bên
lắp sát vào nhau tạo thành các con mê.
Những con mê này có thiết diện khá rộng
để trang trí. Mặt trước của con mê nhìn
vào lòng đình chạm kênh bong theo đề
tài tứ linh, mặt sau chạm các hoạt cảnh
của người gắn với các điển tích. Bức cốn
trái chạm cảnh hai cụ già ngồi trên sập đê
thõng một chân xuống, ở giữa có bàn cờ,
cụ bên trong đang chơi đàn nguyệt, có cụ
ngoài nâng chén trà, xung quanh có những
người chầu chạm nhỏ hơn, phía dưới là
tiểu đồng đang đun nước, phía trong là
một tiểu đồng đang bê đĩa phật thủ, phía
ngoài là một tiểu đồng đang giơ chiếc quạt
lông, phía trên có một con rồng đang đội
cuốn thư. Bức cuốn thư có khắc bài thơ về
Chung Tử Kì và Bá Sa‡:
- Tập trung nhất là cảnh nhộn nhịp
của hội lễ làng quê, trong đó có hình người
dự hội là cả những phụ nữ mặc yếm xuềnh
xoàng, có cô đứng tốc cả váy bên cạnh
người đàn ông ăn mặc lịch sự. Đặc biệt là
các bức chạm cảnh nam cưỡi hổ, nữ cưỡi
voi, hơn nữa là cảnh cô gái cưỡi rồng. Các
nhà nghiên cứu nghệ thuật cho rằng, bức
chạm phụ nữ cưỡi rồng chỉ có ở một số ít
đình trên vùng châu thổ Bắc Bộ như đình
Tây Đằng (huyện Ba Vì), đình Phù Lưu
(thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
2.3. Đình Mậu Hòa
Đình làng Mậu Hòa (xã Minh Khai)
tọa lạc sát đê sông Đáy phía trong đồng.
Đình nhìn hướng Bắc, có cấu trúc chữ
“Đinh”, gồm đại đình và hậu cung. Đại
đình gồm ba gian ba chái.
Trời cao mới có khúc nhạc này
Trần gian đâu tá mấy kẻ hay
Cuộc đời thua được ai mà biết
Đổi cà giang sơn, cuộc tỉnh say.
Tuy mới được dựng lại vào năm Kỷ
Hợi niên hiệu Thành Thái (năm 1899) và
sửa lại vào năm Ất Sửu, niên hiệu Khải
Định - 1925 (theo văn bia còn lưu), song
đình Mậu Hòa mang dáng dấp kiến trúc và
phong cách nghệ thuật cuối thời Lê, đầu
thời Nguyễn (thế kỉ XVIII - XIX). Chắc
chắn, khi dựng lại đình, những người thợ
Bức cốn bên phải chạm khắc cánh
“Đăng đài bái tướng”. Phía trên có bức
cuốn thư có dòng chữ “Tướng tài quả nhị,
‡ Chung Tử Kỳ, họ tên thật là Chung Huy, là một danh sĩ ẩn dật, làm nghề tiều phu (đốn củi) để báo hiếu cha
mẹ tuổi già.
Bá Nha hay Sở Bá Nha, họ Du tên Thụy, người nước Sở nhưng làm quan Thượng Đại phu nước Tấn đời Xuân
Thu Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc (từ năm 771 đến năm 476 trước Công nguyên); là một khách phong
lưu văn mặc, có ngón đàn thất huyền cầm nổi tiếng đương thời.
Bá Nha kết bạn với Chung Tử Kỳ, trở thành đôi bạn âm nhạctri kỷ. Dân gian tổng kết : “Bá Nha chơi đàn tuyệt
hay, Chung Tử Kỳ nghe đàn càng giỏi”, chỉ có Tử Kỳ mới hiểu được tiếng đàn của Bá Nha.
12
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Quốc sĩ vô song” (Tướng tài chi có một,,
quốc sĩ không có hai). Hình ảnh được chạm
là một tướng phía sau hương án như một
ẩn sĩ, phía trước hương án là một đoàn
quan quân đang vác biển, dắt ngựa đến bái
yết, phía dưới vị tướng có cảnh săn hươu.
Người trong hai bức chạm nhân vật được
rải ra, không che khuất nhau, có người cao
to, có người thấp nhỏ theo vị trí xã hội. Các
cảnh được chạm phối hợp với các góc độ
khác nhau: nhìn ngang, nhìn trên xuống,
nhìn chếch..., tạo cho hình sinh động và
các chi tiết hiện lên rõ ràng (Huyện ủy, Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện
Hoài Đức, 2012, trang...).
được giới thiệu trong bài viết này mang
những đặc trưng chung của đình làng
vùng Bắc Bộ cuối thế kỷ XVII về phương
diện điêu khắc mà nét nổi bật là hình ảnh
con người nổi lên là trung tâm, một điểm
nhấn độc đáo. Khác với trong điêu khắc
đình làng thời Mạc, hình ảnh con người
trong kiến trúc đình làng cuối thế kỷ XVII
không những phong phú về chủ đề, ý
tưởng mà còn đa dạng về thủ pháp nghệ
thuật diễn đạt. Về nội dung thể hiện, có
thể chia hình ảnh con người trong các bức
chạm thành hai nhóm chính:
- Con người mang yếu tố thần
thoại, ước lệ, thể hiện ở những mảng
chạm khắc theo các chủ đề nam cưỡi hổ,
nữ cưỡi voi, cô gái cưỡi rồng (đình Kim
Hoàng), hai chú bé cưỡi đầu rồng, các
con rồng và tiên nữ cùng múa, các võ sĩ
ngồi trên lưng voi đấu kiếm (đình Giang
Xá). Đặc biệt ở đình Mậu Hòa có cảnh
các cụ già chơi cờ cùng những người
hầu xung quanh, vừa mang tính ước lệ,
theo điển tích, là rất đời thường.
3. Một vài nhận xét
Cuối thế kỷ XVII, sau khi cuộc phân
tranh Trịnh - Nguyễn, Đàng Trong - Đàng
Ngoài tạm thời lắng xuống, các làng xã ở
Bắc Bộ có điều kiện để phát triển, mở ra
một trang mới cho việc xây dựng, tôn tạo,
nâng cấp các công trình thờ cúng, trong
đó có đình làng - yếu tố vật chất lớn nhất
trong văn hóa làng. Đình không chỉ được
xây dựng đồng loạt ở nhiều làng, mà còn
được khoác một diện mạo mới, cả về quy
mô kiến trúc, chức năng thờ cúng, đặc
biệt là về nghệ thuật điêu khắc. Đây chính
là giai đoạn phát triển đỉnh cao của nghệ
thuật điêu khắc đình làng Việt, thể hiện
qua nhiều ngôi đình nổi tiếng ở tất cả bốn
trấn (Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây và
Sơn Nam) bao quanh Thăng Long.
- Con người gắn với đời sống văn hóa
- xã hội thực tại của làng quê đương thời,
thể hiện ở các cảnh người đấu vật, người
bắn cung, người đâm đinh ba, người đứng
thổi sáo, người đi dự hội làng (đình Kim
Hoàng), cảnh các cụ già đánh cờ, chơi đàn
nguyệt, uống trà (đình Mậu Hòa).
Những nội dung trên đây của các
bức chạm tại ba ngôi đình phản ánh cuộc
sống thực tế của làng quê Việt nửa sau thế
kỷ XVII. Đây là thời điểm khởi đầu cho
giai đoạn đi lên và thịnh vượng của Nhà
nước phong kiến nước Đại Việt già nửa
thế kỷ (đến cuối những năm 20 của thế kỷ
XVIII), được sử cũ ghi nhận là “Kỷ cương
thì chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm
túc mà công minh, phần nhiều các công
khanh đều xứng đáng với chức vụ, trăm
quan kinh giữ phép tắc chế độ, nhân dân
Ba ngôi đình được giới thiệu trong
bài viết này tiêu biểu cho 14 ngôi đình
được dựng vào cuối thế kỷ XVII (gồm 9
đình hiện tồn những dáng nét cơ bản và 5
đình không còn đã được tu bổ nhiều lần
nên không còn giữ được đường nét cũ)
của huyện Hoài Đức ngày nay, vào thời
Lê thuộc trấn Sơn Tây - Xứ Đoài, vùng
đất được dân gian đúc kết là tiêu biểu cho
hệ thống đình (Đình Đoài). Ba ngôi đình
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
13
được yên nghiệp làm ăn” (Ngô Cao Lãng,
1975, trang 62), tạo điều kiện để xây dựng
đình, chùa, đền miếu. Đời sống vật chất
ổn định đem lại những thay đổi lớn về tinh
thần. Các cảnh đi săn, đánh vật, dự hội,
chơi cờ... chính là sự phản ánh cuộc sống
yên bình và những đổi thay của người dân
quê giai đoạn này. Bên cạnh những rất đời
thực, bình dị của người nông dân, còn có
các cảnh “cao sang”, tao nhã được coi là
của tầng lớp “thượng lưu”, như các bậc
kỳ lão chơi cờ, đoàn quan quân, tướng đi
săn... Đấy là khát vọng của người dân quê
không chỉ có một cuộc sống thanh bình,
dung dị, mà còn hướng tới những điều tốt
lành hơn.
ước được trả lại những giá trị về xã hội
dân chủ, bình đẳng thuở xưa đã bị mất,
và người thợ mộc - những nghệ nhân dân
gian đã thay mặt người dân quê thể hiện
ước vọng đó qua các bức chạm. Bức chạm
những phụ nữ mặc yếm xuềnh xoàng, có
cô đứng tốc cả váy bên cạnh người đàn ông
ăn mặc lịch sự ở đình Kim Hoàng phản
ánh tư tưởng nam nữ bình quyền, không
chấp nhận thái độ coi thường phụ nữ, coi
thường người lao động của tư tưởng, đạo
đức phong kiến mà việc ngăn cấm phụ nữ,
hạn chế người nghèo vào đình là tục lệ
ngặt nghèo. Đặc biệt, các bức chạm cảnh
cô gái cưỡi rồng thể hiện sự phủ nhận của
quyền lực vua quan, của chế độ quân chủ.
Trong các bức chạm của ba ngôi
đình có sự hiện diện và kết hợp của hình
ảnh người, thú, hoa lá, cỏ cây, song con
người vẫn nổi bật, là trung tâm trên mặt
bằng của mỗi bức. Người thợ mộc - nghệ
nhân dân gian muốn gửi với người đời
sau từ các bức chạm này thông điệp: con
người sống trong môi trường tự nhiên, dù
luôn có khát vọng chiếm lĩnh thiên nhiên
(cảnh người cưỡi hổ, cưỡi voi), song vẫn
phải hòa đồng với thiên nhiên, môi trường
(các bức chạm thú, người, cỏ cây hoa lá
hòa vào trong một tổng thể).
Nét đặc sắc của chạm khắc về đề tài
người trong đình làng cuối thế kỷ XVII ở
huyện Hoài Đức còn ở thủ pháp thể hiện.
Hình tượng người trong các bức chạm vừa
mang tính thiêng, vừa mang tính trần tục.
Tính thiêng thể hiện tính ước lệ, qua hình
ảnh các nhân vật thần tiên, tức các tiên nữ,
nhạc công thiên thần, “thiên thần bé nhỏ”,
vừa ẩn vừa hiện, điển hình là bức chạm
tiên nữ trong tư thế ngồi, gấp quặp chân về
phía trước ở phần trước của cùi voi, giữa
cổ và đầu voi trong đình Giang Xá, dáng
người mềm mại, ngực nở, bụng thon, cánh
tay dài với những ngón tay búp măng. Tính
trần tục thể hiện ở những con người của
đời thường, những bức chạm mô tả người
đàn ông trong các cảnh đấu vật, đi săn có
đặc điểm đầu tròn, to, cạo trọc, thân hình
vạm vỡ, ngực nở, đôi khi các cơ bắp được
phóng đại lên hơn mức bình thường; còn
phụ nữ thì thường có khuôn mặt đầy đặn,
phúc hậu, để tóc dài, xoã hoặc búi thành
búi lớn trên đỉnh. Có thể nói, người thợ
mộc đã kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa
Sự hồi phục và phát triển của làng
quê Việt sau những cuộc tranh chấp của
các tập đoàn phong kiến qua gần 150 năm
(1533 - 1672)§ đã củng cố thêm những
quan điểm, tư tưởng của người dân quê
về một xã hội bình đẳng hình thành từ rất
sớm, nhưng đã bị giai cấp phong kiến phủ
đè lên, đặc biệt nặng nề từ thời vua Lê
Thánh Tông (1460 - 1497). Chính vì thế,
khi ngọn lửa nội chiến vừa tắt, thôn xóm
bình yên trở lại, người dân quê đã mong
§ Nội chiến Nam Bắc triều (Lê - Mạc phân tranh, 1533 - 1593); Trịnh Nguyễn phân tranh hay Đàng
Trong - Đàng Ngoài, 1627 - 1672).
14
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Tài liệu tham khảo:
cách tả thực và cách điệu. Ngay trong một
hình chạm tiên nữ, cũng có thể thấy được
sự kết hợp này.
[1]. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con
người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống
Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
4. Kết luận
Những ngôi đình làng thế kỷ XVII
của huyện Hoài Đức được giới thiệu trong
bài viết nằm trong khung cảnh chung của
đình làng Bắc Bộ cùng thời, được dựng
khi đất nước không còn nội chiến, làng
xã phát triển và hoàn thiện về cơ cấu tổ
chức, lệ tục. Lấy con người là trung tâm,
điêu khắc đình làng một mặt thể hiện
trung thực, sống động nhiều mặt sinh
hoạt của đời sống làng quê đang vươn lên
trong không khí đất nước hòa bình; mặt
khác cũng phản ánh sự phản kháng của
người nông dân đối với những bất công
của sự phân chia đẳng cấp vua - quan -
dân, phân biệt nam nữ của chế độ quân
chủ, vươn tới khát vọng được sống trong
một xã hội dân chủ, bình đẳng. Bên cạnh
đó có các bức chạm về hình tượng con
người thể hiện ước mơ chinh phục, chế
ngự thiên nhiên (người cưỡi hổ, người
cưỡi rồng), những bức chạm có cả các
yếu tố huyền thoại, thần tiên. Dù phản
ánh hiện thực cuộc sống hay phản ánh
ước mơ, khát vọng của người nông dân
đương thời, chỉ bằng vài nét đục đường
chạm sơ phác những người thợ chạm
khắc gỗ thế kỷ XVII đã vượt ra khỏi sự gò
bó về quan niệm nghệ thuật, thẩm mỹ, để
tạo ra những tác phẩm điêu khắc dân giã
nhưng có hồn, sống động, cởi mở. Có thể
nói, đời sống phong phú, của người dân
quê làm nền cho nghệ thuật điêu khắc,
ngược lại, nghệ thuật điêu khắc(cùng với
kiến trúc) lại là tấm gương phản ánh, tôn
thêm sự sống động cuộc sống của người
dân. Đó là giá trị nổi bật của điêu khắ c
đình làng thế kỷ XVII - đỉnh cao cua điêu
khắc đình làng Việt Nam./.
[2]. Hồ sơ di tích đình Giang Xá (1991), bản
đánh máy, lưu tại đình Giang Xá, thị trấn
Trạm Trôi.
[3]. Hồ sơ di tích đình Kim Hoàng (1991), bản
đánh máy, lưu tại đình Kim Hoàng, xã Vân
Canh.
[4]. Hồ sơ di tích đình Mậu Hòa (1991), bản
đánh máy, lưu tại đình Mậu Hòa, xã Minh
Khai.
[5]. Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân huyện Hoài Đức (2012), Hoài Đức,
một vùng văn hóa dân gian, Nxb. Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
[6]. Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân huyện Hoài Đức (2018), Địa chí
Hoài Đức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7]. Ngô Cao Lãng, Lịch triều tạp kỷ, bản dịch,
Nxb. Khao học xã hội, Hà Nội, 1975, tập II.
[8]. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng, Mỹ
thuật của người Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội,
1989.
[9]. Hà Văn Tấn (Chủ biên, 1994), Đình Việt
Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
[10].Trần Đình Tuấn (2012), “Hình tượng con
người trong nghệ thuật chạm khắc đình làng”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 12 (342).
Địa chỉ tác giả: Viện Dân tộc học, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Email: buixuandinh.dth@gmail.com
Bạn đang xem tài liệu "Hình tượng người trong điêu khắc của một số đình làng ở huyện Hoài Đức (Thành phố Hà Nội)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- hinh_tuong_nguoi_trong_dieu_khac_cua_mot_so_dinh_lang_o_huye.pdf