Lược sử hội họa cổ điển của Tây phương

LƯỢC SỬ HỘI HỌA CỔ ĐIỂN CỦA TÂY PHƯƠNG  
(Phan Thượng Hải)  
Cho đến thời Phục Hưng, Họa sĩ theo hình thức Tự Nhiên (Naturalism) nghĩa là Họa hình đối  
tượng có thật (hiện tại hay quá khứ) trong trạng thái tự nhiên của nó. Nó khác với hình thức  
Tượng Trưng (Symbolism), nghĩa là Họa hình thể nào đó để bày tỏ ý tưởng và cảm xúc của họa  
sĩ. Hình thức Tự Nhiên tiếp tục cho tới cuối thế kỷ 19. Bắt đầu thế kỷ 20, Hội Họa bắt đầu có  
thêm Hình thức Tượng Trưng.  
Hội Họa khác với Họa khi kết cấu của bức họa có "3 chiều" (3-dimensional).  
Để cho bức họa có có "3 chiều", họa sĩ dùng những phương pháp ghép Phối Cảnh (Perspective)  
và để rõ hơn còn dùng thêm Kỹ thuật "Chiaroscuro" (Kỹ thuật Đậm-Nhạt). Phối Cảnh là phương  
pháp Hội Họa thể hiện không gian của đối tượng trên mặt tranh. Phương pháp Phối Cảnh có  
nhiều thay đổi theo thời gian.  
Đối tượng trong một bức họa có thể là nhân vật hay phong cảnh.  
Hình của nhân vật (đại đa số là con người) trong bức họa gồm có khuôn mặt, thân thể và  
trang phục. Chân dung là trong bức họa chỉ có 1 nhân vật thường là khuôn mặt. Hình của nhân  
vật có khi biểu lộ cảm xúc (bắt đầu từ thời Phục Hưng).  
Hình của phong cảnh trong bức họa có thể là tập hợp (nhiều) nhân vật (kiểu Gothic) hay  
thành phố hay thiên nhiên.  
Hội Họa Tự Nhiên giữ độc quyền trong suốt lịch sử Hội Họa cổ điển của Tây Phương (thế kỷ 14  
cho tới hết thế kỷ 19) gồm: Phục Hưng, Baroque, Rococo, Tân Cổ Điển, Lãng Mạn, Ấn Tượng  
và Hậu Ấn Tượng.  
PHỤC HƯNG Ở Ý (ITALIAN RENAISSANCE)  
Thời Phục Hưng bắt đầu từ thế kỷ 14 cho đến thế kỷ 17.  
Đề tài của bức họa là từ Thánh Kinh, Thần thoại Hy Lạp, lịch sử thời Trung Cổ và quí tộc đương  
thời; rất hiếm khi từ người thường. Hình nhân vật là thông thường nhứt. Hiếm khi có hình  
phong cảnh, thường là gồm nhiều nhân vật như trận chiến...  
Với nước sơn cũ, họa sĩ ở Florence, Rome và Parma thường chú trọng đến "vẽ" nhưng từ khi  
sáng chế ra nước sơn dầu, họa sĩ ở Venice chú trọng về "sơn" hơn là "vẽ".  
1) Florence  
*
Nền Hội Họa ở Florence khởi đầu cho thời Phục Hưng, nó bắt đầu từ Giotto. Giotto cố gắng tạo  
ra "3 chiều" trong bức họa, khác với thầy mình là Cimabue. Tuy có tiến bộ nhưng ông chưa  
thành công. Giotto là họa sĩ bắt đầu vẽ hình nhân vật biểu lộ tình cảm. Các họa sĩ ở Florence  
trong thời Phục Hưng chỉ chú trọng đến "vẽ".  
Masaccio và Uccello bắt đầu dùng Phối Cảnh Đường Thẳng (Linear Perspective) và riêng  
Masaccio còn sáng tạo ra Chiaroscuro (kỹ thuật Đậm-Nhạt). Đặc tính "3 chiều" của bức họa giữ  
độc tôn trong ngành Hội Họa cho đến đầu thế kỷ 20 khi có phái Lập Thể (Cubism) của Picasso.  
(Madonna and Child enthroned with six angels/Cimabue): Hình "2 chiều" 1270  
(The Battle of San Romano/Uccello): Hình "3 chiều" với Phối Cảnh Đường Thẳng 1432  
Masaccio cũng nâng cao kỹ thuật vẽ hình khuôn mặt, thân thể con người và trang phục cho các  
họa sĩ Florence về sau.  
Tu sĩ Fra Angelico, Tu sĩ Fra Filipo Lippi và Mantegna cũng như Uccello chỉ dùng Phối Cảnh  
Đường Thẳng (cũng đủ tạo ra hình có "3 chiều" cho 1 bức họa). Tu sĩ Fra Filipo Lippi vẽ khuôn  
mặt người rất tế nhị. Mantegna vẽ hình thân thể con người vững chắc hơn, như hình những bức  
tượng điêu khắc.  
Từ Piero della Francesca và môn đệ là Gozzoli, các họa sĩ ở Florence đều dùng cả 2: Phối Cảnh  
Đường Thẳng và Chiaroscuro.  
Cimabue (1240-1302)  
Giotto di Bondone (1267-1337)  
Masaccio tên thật là Tommaso di Ser Giovani di Mone (1401-1428)  
Fra Angelico tên thật là Guido di Pietro (1395-1455)  
Paolo Uccello tên thật là Paolo di Dono (1397-1475)  
Fra Filippo Lippi (1406-1469)  
Piero della Francesca tên thật là Pieri dei Benedetto Franceschi (1422-1492)  
Benozzo Gozzoli (1421-1497)  
Andrea Mantegna (1430-1506)  
(St Sebastian/Mantegna) 1459  
*
Verrocchio tiến bộ hơn Mantegna trong "vẽ" hình thân thể con người, khởi đầu cho những bức  
họa "cơ thể học" của Michelangelo sau nầy. Verrocchio có 3 môn đệ là Ghirlandaio, Botticelli  
và Leonardo da Vinci.  
Ghirlandaio vẽ không khác Verrocchio nhưng Đề tài của ông là "Người ngoài đời" trong giới quí  
tộc không phải từ Thánh Kinh hay Thần thoại Hy Lạp. Ông đặc biệt có những bức họa Chân  
Dung cũng như Tu sĩ Fra Filipo Lippi.  
Botticelli cũng vẽ hình người (thân thể) vững chắc như Mantegna (và Masaccio) nhưng ông chú  
trọng tới nét vẽ rõ ràng (ở chu vi) và có khuynh hướng Cầu Kỳ (Mannerism).  
Leonardo da Vinci không khác Verrocchio nhưng ông sáng tạo ra Phối Cảnh Không Gian (Aerial  
Perspective) và đi ngược với Botticelli: không dùng nét vẽ rõ ràng khi vẽ hình nhân vật (đó là kỹ  
thuật Sfumato được sáng tạo từ Leonardo). Phối Cảnh Không Gian khi nước sơn dầu ra đời thay  
thế Phối Cảnh Đường Thẳng.  
(The Birth of Venus / Botticelli) 1485  
(Mona Lisa / Leonardo da Vinci) 1503-1506  
Sau những họa sĩ trên, Bronzino ở Florence nhưng lại vẽ giống Michelangelo (ở Roma). Từ Tu  
sĩ Fra Bartolommeo, sau khi có nước sơn dầu, các họa sĩ Florence đổi qua chú trọng về "sơn"  
thay vì chú trọng về "vẽ".  
Andrea del Verrocchio tên thật là Andrea di Cioni (1435-1488)  
Domenico Ghirlandaio (1448-1494)  
Sandro Botticelli tên thật là Alesandro di Maciano (1444-1510)  
Leonardo da Vinci (1452-1519)  
Fra Bartolommeo tên thật là Baccio della Porta (1472-1517)  
Bronzino tên thật là Agnolo di Cosimo (1503-1572)  
2) Roma  
Hội Họa ở Roma bắt đầu sau Florence. Nó có 3 họa sĩ nổi danh là Raphael, Michelangelo và  
Piombo. Tất cả đều "vẽ" như họa sĩ cùng thời ở Florence.  
Michelangelo dùng Phối Cảnh Đường Thẳng và Chiaroscuro như Masaccio của Florence để vẽ  
hình nhân vật ở Sistine Chapel nhưng hình "cơ thể học" của ông về thân thể là đặc sắc nhất.  
Khuynh hướng Cầu Kỳ cũng thấy trong những bức họa nhân vật nầy của Michelangelo.  
Cũng dùng Phối Cảnh Đường Thẳng nhưng Raphael đổi Chiaroscuro của Masaccio thành ra kỹ  
thuật Chiaroscuro của riêng mình, khéo léo hơn (gọi là Raphael's subtle Chiaroscuro).  
Piombo là họa sĩ hàng đầu ở Roma sau khi Raphael qua đời. Ông chú trọng nhiều về vẽ chân  
dung như Ghirlandaio ở Florence.  
Michelangelo Buonarroti (1475-1564)  
Raphael tên thật là Raffaello Saurio (1483-1520)  
Sebastiano del Piombo (1485-1547)  
(The Marriage of the Virgin / Raphael) 1504  
3) Parma  
Những họa sĩ nổi danh ở Parma cũng chuyên về "vẽ" trong thời Phục Hưng như Florence và  
Roma với 2 kỹ thuật Phối Cảnh như Masaccio (Phối Cảnh Đường Thẳng và Chiaroscuro).  
Corregio vẽ hình nhân vật với thân thể vững chắc như Mantegna và Michelangelo nhưng có lộ  
vẻ "dâm đãng" (erotic).  
Parmigianino, chịu ảnh hưởng từ những bức họa hình nhân vật của Botticelli (Venus) và  
Michelangelo (Sistine Chapel) chính thức thành lập Kiểu Cầu Kỳ của Hội Họa (Mannerism)  
trong hình nhân vật.  
Kiểu Cầu Kỳ là một kiểu chủ trương tạo ra những đối tượng đẹp nhứt trong sự tao nhã (elegance)  
bất cần thực tế. Hình thể của kiểu Cầu Kỳ "thấy" dài ra hơn bình thường.  
Corregio tên thật là Antonio Allegri ((1489-1534)  
Parmigianino tên thật là Girolamo Francesco Mazzola (1503-1540)  
(Madonna of the long neck / Parmigianino) 1535  
4) Venice  
*
Hội Họa thời Phục Hưng ở Venice bắt đầu với Bellini và dùng nước sơn dầu. Nước sơn truyền  
thống cũ gọi là Tempera là thuốc màu trộn với hồ và lòng trắng trứng (được dùng ở Florence,  
Roma và Parma). Nước sơn dầu có màu sống động và giúp cho họa sĩ có thể "sơn" lâu hơn (nên  
"họa" lâu hơn). Có thể nói Bellini là cha đẻ của Hội Họa Venice. Ông có anh rể là Mantegna (ở  
Florence) và có môn đệ ở Venice là Giorgione và Titian.  
Khác với các họa sĩ nổi danh kể trên ở Florence, Roma và Parma đều "vẽ" với nước sơn truyền  
thống cũ; các họa sĩ ở Venice đều bắt đầu "sơn" bằng nước sơn dầu. Dĩ nhiên hình "sơn" thì  
khác hình "vẽ": chú trọng diễn tả Hình của bức họa bằng màu sắc thay vì bằng nét vẽ.  
Giorgione cũng gần giống như Bellini nhưng ông chuyển hướng đề tài, dùng những người quí  
tộc trong thế tục. Từ Giorgione, họa sĩ Venice biết dùng "sơn" để diễn tả tình cảm của nhân vật  
(trong hình).  
Giovanni Bellini (1436-1516)  
Giorgione tên thật là Giorgio da Castelfranco hay Giorgio Barbarelli (1452-1519)  
*
Hội Họa Venice hoàn hảo với Titian, Veronese và Tintoretto. Titian và môn đồ là Tintoretto  
dùng màu sắc nhẹ nhàng và tự do kết liên những hình thể. Trái lại Veronese "sơn" rất nhẹ, dùng  
màu sắc để phân biệt hình thể. Tintoretto còn sáng tạo ra Phối Cảnh "off-balanced" làm bức họa  
mờ ảo hơn.  
(The rape of Europa / Titian) 1560  
El Greco là môn đệ và họa giống như Tintoretto nhưng sang ở Toledo của Spain. El Greco có  
thêm Kiểu Cầu Kỳ và là họa sĩ độc nhất thời Phục Hưng dùng bức họa để biểu lộ cảm xúc tâm  
linh của chính mình.  
Titian tên thật là Tiziano Vecellio (1485-1576)  
Paolo Veronese tên thật là Paolo Caliari (1528-1588)  
Tintoretto Jacopo Robusti (1519-1594)  
El Greco tên thật là Domenikos Theotocopoulos (1541-1614)  
5) Căn bản Kỹ thuật Hội Họa từ Thời Phục Hưng  
*
Phối Cảnh là phương pháp Hội Họa (vẽ và sơn) thể hiện không gian của đối tượng trên mặt  
tranh. Bức họa nhìn giống như có "3 chiều" mặc dù được trình bày trên mặt phẳng "2 chiều" của  
bức tranh. Họa sĩ đã thử ghép Phối Cảnh từ trước nhưng chỉ có Họa sĩ thời Phục Hưng mới hoàn  
chỉnh: "Họa" mới thành "Hội Họa". Kết quả là bức tranh càng giống như thực (Duy  
Thực/Realism).  2 Phối Cảnh dùng cho hình Nhân Vật và Phong Cảnh.  
Trong Phối Cảnh Đường Thẳng (Linear Perspective), tất cả đường thẳng đều gặp nhau ở  
chân trời. Gọi đó là Tiêu Điểm (Vanishing point). Phối Cảnh Đường Thẳng dựa trên cách sắp  
đặt của các hình thể trong không gian như cách họa đồ kiến trúc của Brunelleschi. Brunelleschi  
(bạn của Masaccio) là Kiến trúc sư của nhà thờ Florence.  
Trong Phối Cảnh Không Gian (Aerial Perspective), những đối tượng tùy khoảng cách sẽ  
được thay đổi bằng ánh sáng hay bộ phận trong không khí. Phối Cảnh Không Gian dựa trên hiệu  
quả không khí của Màu và Sắc nên nó còn được gọi là Phối Cảnh Không Khí (Atmospheric  
Perspective)  
(Phối Cảnh Đường Thẳng)  
(Phối Cảnh Không Gian)  
Để cho bức họa trông càng "3 chiều" hơn nữa, Họa sĩ còn dùng một kỹ thuật tên là Chiaroscuro.  
Chiaroscuro làm dịu những bờ (hình của những đối tượng) bằng cách dùng Ánh sáng và Bóng tối  
thay vì vẽ đường chu vi rõ rệt để phân biệt những đối tượng. Theo tiếng Ý, "Chiaro" có nghĩa là  
"rõ hay nhạt (lạt)" còn "oscuro" có nghĩa là "đậm (sậm)". "Chiaroscuro" có nghĩa là "Đậm-  
Nhạt". Nó dựa trên kỹ thuật dùng sự tương phản của màu sắc giữa Đậm và Nhạt (light and dark)  
để làm thành hình thể "3 chiều". Chiaroscuro tạo thêm cảm xúc cho Hội Họa.  
(Chiaroscuro cho hình Nhân Vật)  
(Chiaroscuro cho hình Phong Cảnh)  
*
Như vậy, từ thời Phục Hưng ở Ý, Họa trở thành Hội Họa nhờ có phương pháp Phối Cảnh và kỹ  
thuật Chiaroscuro (Đậm-Nhạt). Masaccio chính thức mở đầu Hội Họa thời Phục Hưng bằng  
cách sáng tạo ra Chiaroscuro. Masccio và Uccello sáng tạo ra Phối Cảnh Đường Thẳng. Kỹ  
thuật Chiaroscuro về sau được Raphael thay đổi là tế nhị hơn gọi là "subtle Chiaroscuro" của  
Raphael. Tuy nhiên Chiaroscuro của Masacchio vẫn thông dụng nhứt.  
Về sau Leonardo sáng tạo ra Phối Cảnh Không Gian thông dụng hơn Phối Cảnh Đường Thẳng.  
Điển hình của Phối Cảnh Không Gian là bức họa Mona Lisa.  
Phối Cảnh "off-balance" của Tintoretto không thông dụng và ít được biết đến.  
*
Phương pháp Phối Cảnh và Chiaroscuro áp dụng cho cả một bức họa Nhân Vật hay Phong Cảnh.  
Bức họa chỉ có khuôn mặt của một Nhân Vật thì gọi là Chân Dung. Bức họa Nhân Vật diễn tả  
Thân thể (kể cả Khuôn mặt) và Trang phục.  
Bức họa Phong Cảnh có 3 loại:  
Phong Cảnh tập họp rất nhiều nhân vật;  
Phong Cảnh gồm có Nhân Vật và phong cảnh (thường là thiên nhiên);  
Phong Cảnh mà thôi (phong cảnh thiên nhiên/Landscape hoặc phong cảnh Thành  
Phố/Cityscape).  
Thời Phục Hưng đa số gồm có những bức họa Nhân Vật và thiểu số là những bức họa về Phong  
Cảnh tập họp nhiều nhân vật như một trận chiến...  
*
"Họa" Nhân Vật hay Phong Cảnh gồm có "vẽ" và "sơn". Lúc đầu với nước sơn truyền thống  
Tempora, họa sĩ chú trọng về "vẽ" như ở Florence, Roma và Parma. Từ khi có nước sơn dầu,  
họa sĩ ở Venice chú trọng về "sơn".  
Khi "vẽ" hình Nhân Vật, Masaccio từ lúc đầu thời Phục Hưng đã thành công "vẽ" trang phục và  
nhứt là thân thể vững chắc. Mantegna rồi Verrocchio càng vững chắc hơn cho đến hoàn chỉnh  
như hình "cơ thể học" như Michelangelo. Botticelli dùng nét vẽ đậm và rõ hơn (nhứt là ở chu  
vi). Trái ngược lại, Leonardo dùng nét vẽ mờ hơn với kỹ thuật gọi là Sfumato. Kiểu Cầu Kỳ khi  
vẽ hình thể bắt đầu dùng từ Botticelli và Michelangelo rồi chính thức thành lập bởi Parmigianino  
ở Parma và El Greco ở Spain. Hình thể của kiểu Cầu Kỳ "thấy" dài ra hơn bình thường.  
Họa sĩ "vẽ" điển hình của thời Phục Hưng ở Ý là Leonardo với Phối Cảnh Không Gian và  
Sfumato cho hình Nhân Vật. Leonardo được nhiều họa sĩ về sau bắt chước.  
Một số ít họa sĩ "vẽ" Chân Dung là Fra Fillippi Lippi, Ghirlandaio và Piombo.  
Một số ít họa sĩ "vẽ" Phong Cảnh tập họp nhiều nhân vật là Ucello và Gozzoli thường dùng Phối  
Cảnh Đường Thẳng  
Họa sĩ chú trọng về "sơn" đều dùng để "họa" Nhân Vật mà thôi bắt đầu với Bellini rồi Giorgione.  
Sau đó có 2 kiểu "sơn": Titian và Tintoretto "sơn" mỏng, nhẹ nhàng và tự do. Veronese "sơn"  
còn nhẹ hơn như bay bỗng (airy).  
*
Đề tài của thời Phục Hưng tùy theo những bảo trợ là Giáo Hội và quí tộc nên là từ Thánh Kinh,  
Thần thoại Hy Lạp, lịch sử thời Trung Cổ và quí tộc (không thấy có trưởng giả hay bình dân).  
Đối tượng Nhân Vật và phong cảnh ở ngoài đời đã là trong quá khứ nên họa sĩ phải dựa trên lý  
thuyết sách vở đề họa thành đối tượng trong bức họa.  
PHỤC HƯNG Ở BẮC ÂU (NORTHERN RENAISSANCE)  
Đối tượng Nhân Vật trong bức họa của các họa sĩ ở Bắc Âu khác với các họa sĩ ở Ý: dùng hình  
của những người có thật đương thời đại diện cho những Nhân Vật trong Thánh Kinh hay thần  
thoại Hy Lạp thay vì tạo hình dựa trên lý thuyết.  
Họa sĩ "họa" Nhân Vật của Bắc Âu có 2 phái: "sơn" và "vẽ". "Sơn" như họa sĩ Venice nhưng  
dầy hơn. "Vẽ" theo Leonardo. Chân Dung có nhiều hơn.  
Họa sĩ "họa" Phong Cảnh: Thiên nhiên và Nhân vật trong bức họa và cũng có 2 phái: "sơn" và  
"vẽ".  
1) Hình Nhân Vật  
*
Ở Hòa Lan có Van Eyck và Van Weyden và người nối nghiệp là Memling đều dùng nước sơn  
dầu để "sơn" như các họa sĩ ở Venice và cũng áp dụng Chiaroscuro của Masaccio.  
Kỹ thuật "sơn" hình Nhân Vật của họ tiến bộ hơn: chú trọng tới chi tiết rõ ràng và dùng nhiều  
nước sơn dầu hơn nữa (sơn nhiều lớp và dầy hơn). Hình trong bức họa của Van Eyck rất sống  
động, của Van Weyden mang nhiều tình cảm và của Memling rất cân đối.  
Grunewald ở Đức cũng "sơn", giống như 3 họa sĩ trên đây, nhưng có đề tài khác: Nhân Vật thời  
Trung Cổ.  
Jan Van Eyck (1395-1441)  
Roger Van Der Weyden (1399-1464)  
Hans Memling (1430-1494)  
Matthias Grunewald tên thật là Mathis Gothardt Neithardt (1470-1528)  
(The descent from the Cross / Van Weyden) 1435  
*
Tuy cùng có hình về Nhân Vật (và Chân Dung), các họa sĩ chỗ khác lại có những khuynh hướng  
khác. Massys ở Antwerp, Jean Fouquet ở Pháp, Durer và người thừa kế là Holbein the Youger ở  
Đức lại "vẽ" hình với kỹ thuật giống như Leonardo, dùng Phối Cảnh Không Gian và Sfumato.  
Bức họa "Portrait of man" của Massys coi như hình "Mona Lisa" trong dạng đàn ông. Hình "vẽ"  
của Fouquet còn vững chắc như tượng điêu khắc. Durer còn in bức họa của mình ra nhiều bản  
(1st massed-market artist).  
Clouet học từ Hòa Lan nhưng chuyển sang Pháp là họa sĩ trong triều đình của vua Francis I.  
Ông cũng "vẽ" như Leonardo nhưng còn thêm Kiểu Cầu Kỳ (Mannerism).  
(Feast of the Rose Garlands / Durer) 1506  
Quentin Massys (1465-1530)  
Jean Fouquet (1420-1481)  
Albrecht Durer (1471-1528)  
Hans Holbein the Younger (1497-1543)  
Francois Clouet (1510-1572)  
2) Hình Phong Cảnh (và Nhân Vật)  
*
Thời Phục Hưng ở Bắc Âu có Altdorfer và Cranach the Elder của Đức và Bruegel của Antwerp  
chuyên về Phong Cảnh.  
Altdorfer và Cranach the Elder dùng Phối Cảnh Đường Thẳng. Altdorfer "vẽ" những Cảnh gồm  
nhiều nhân vật như Gozzoli của Florence. Ngoài ra Altdorfer và Cranach the Elder thuộc về  
trường phái Danube nên vẽ Phong Cảnh Thiên Nhiên của nước Đức. Trong những bức họa  
phong cảnh, Cranach the Elder còn vẽ thêm hình Nhân Vật (thần thoại Hy Lạp) theo kiểu Cầu  
Kỳ và có tính các dâm đãng.  
Bruegel "sơn" những Phong Cảnh Thiên Nhiên (Landscape) của Antwerp có những nông dân với  
Phối Cảnh Không Gian và Chiaroscuro (dùng ánh sáng).  
Như vậy họa sĩ Phong Cảnh Thiên Nhiên của thời Phục Hưng không hoàn toàn vẽ Cảnh Thiên  
Nhiên mà còn có vẽ Nhân Vật trong bức họa.  
*
Trong thời Phục Hưng với "3 chiều", Bosch trở lại thời Trung Cổ kiểu Gothic. Ông "vẽ" những  
bức họa Phong cảnh rộng lớn gồm rất nhiều Nhân Vật (với không gian 2 chiều).  
Albrecht Altdorfer (1480-1538)  
Lucas Cranach the Elder (1472-1553)  
Peter Bruegel the Elder (1525-1569)  
Hieronymus Bosch tên thật là Jeroen Van Aken (1450-1516)  
BAROQUE  
Baroque là thời kỳ Hội Họa (vào thế kỷ 17) lập ra từ Caravaggio và Carracci ở Ý với Hình Nhân  
Vật vững chắc và biểu lộ tình cảm rất mạnh.  
1) Hình Nhân Vật  
*
Caravaggio ở Roma bắt đầu những bức Hình Nhân Vật nầy kèm theo với kỹ thuật Phối Cảnh  
"Bold Chiaroscuro" bằng cách dùng hiệu quả của bóng tối làm cho đối tượng như "phát ra" từ  
bóng tối. Kỹ thuật "vẽ" Hình và Phối Cảnh của Caravaggio nầy gọi chung là Kiểu  
Caravaggesque. Hình "vẽ" của Caravaggio có đường nét rất đậm.  
Đối tượng trong Hình của Caravaggio là những nhân vật nổi tiếng trong Thánh Kinh hay Thần  
thoại Hy Lạp hay trong giới quí tộc (cũng như trong Thời Phục Hưng) nhưng ông dùng người  
thường làm mẫu.  
Artemesia Gentileschi ở Roma là nữ họa sĩ nổi tiếng đầu tiên, là môn đồ của Caravaggio và  
giống hệt như thầy mình.  
Carracci ở Bologna hoàn toàn giống như Caravaggio với Kiểu Caravaggesque. Tuy nhiên ông  
vẽ hình thân thể vững chắc như Michelangelo. Ngoài vẽ Nhân Vật, Carracci còn vẽ phong cảnh  
thiên nhiên lý tưởng trong Thần thoại Hy Lạp. Từ ông mới có trường phái chuyên về họa Cảnh  
Thiên Nhiên khác với họa Nhân Vật (và Chân Dung).  
Ở Bologna, Carracci có môn đồ là Reni và Reni có môn đồ là Guercino. Cả hai Reni và  
Guercino đều theo giống như Carraci nhưng có thêm kiểu Cầu Kỳ trong Hình vẽ Nhân Vật.  
Ở Naples có Rosa với hình họa như Carracci.  
Michelangelo Merisi de Caravaggio (1571-1610)  
Artemesia Gentilleschi (1593-1653)  
Annibale Carracci (1560-1609)  
Guido Reni (1575-1642)  
Guercino tên thật là Giovanni Francesco Barbieri (1591-1666)  
Salvator Rosa (1615-1673)  
(The Young Bacchus / Caravaggio) 1596. "Kiểu Caravaggesque"  
*
Các họa sĩ Baroque ở Hòa Lan dùng kỹ thuật Caravaggesque cho Hình Nhân Vật và Phối Cảnh  
nhưng Rubens, Hals, Rembrandt và Vermeer "sơn" như Titian của Venice hay Van Eyck của  
Hòa Lan trong thời Phục Hưng chứ không "vẽ" như Caravaggio và Carracci. Mặc dù nét vẽ  
không cần rõ, Rubens, Hals và Vermeer dùng những lớp sơn dầy nên Hình Nhân Vật cũng vững  
chắc như những họa sĩ Baroque ở Ý chú trọng về "vẽ". Rubens có một kỹ thuật sơn dầy gọi là  
Impasto. Hình Nhân Vật của Hals còn đôi khi biểu lộ tình cảm nhất thời (a snap shot of  
emotion). Trái lại, Hình Nhân Vật của Rembrandt thì nhẹ nhàng với sự hiểu biết tâm lý của  
người họa sĩ.  
Rubens thường có những bức họa lớn ở nhà thờ và bảo trợ của tôn giáo. Hals, Rembrandt và  
Vermeer chỉ có những bức họa nhỏ về chân dung hay về đời sống thường dân trong nhà.  
Van Dyck là phụ tá chánh của Rubens nhưng sau đó sang ở Anh và là họa sĩ làm đẹp cho giới  
quí tộc. Tenier the Younger cũng "sơn" giống như Rubens, trở thành họa sĩ ở triều đình Flemish.  
Ruysch ở Hòa Lan dùng phương pháp Caravaggesque để họa Tĩnh Vật (Still Life).  
(Descent from the Cross/Rubens) 1618  
(Anatomy lesson of Dr Nicolaes Tulp / Rembrandt) 1632  
Sir Peter Paul Rubens (1577-1640)  
Frans Hals (1581-1566)  
Rembrandt Harmensz Van Rijn ((1606-1669)  
Jan Vermeer (1632-1675)  
Sir Anthony Van Dyck (1599-1641)  
David Teniers the Younger (1610-1690)  
Rachel Ruysch (1664-1750)  
*
Ở Spain (Seville) có 3 họa sĩ Baroque Caravaggesque và họa Hình Nhân Vật. Zubaran còn "vẽ"  
hình Tĩnh vật. Zubaran và Murrillo thì "sơn" giống như Rubens nhưng Velazquez lại sơn theo  
kiểu Rembrandt, nhẹ nhàng hơn nên nổi tiếng nhứt trong 3 người.  
(La Meninas / Velazquez) 1656  
Francisco Zubarán (1598-1664)  
Bartolomé Estaban Murillo (1617-1682)  
Diego Rodriguez de Silva y Velázquez (1599-1660)  
*
Như vậy các Họa sĩ họa Nhân Vật của Baroque gồm có: "vẽ" từ Ý và "sơn" từ Hòa Lan và Spain.  
Hình thể của Nhân Vật được "vẽ" vững chắc từ Caravaggio và "sơn" cũng vững chắc từ Rubens  
(sơn dầy) như các họa sĩ "vẽ" thời Phục Hưng ở Ý. Tất cả đều dùng Phối Cảnh Caravaggio và  
Hình Nhân Vật mang rất nhiều tình cảm. Đó là những đặc điểm của Hội Họa Baroque. Thực tế  
nó có kiểu "vẽ" Caravaggio (Caravaggesque) và kiểu "sơn" Rubens là tiêu biểu.  
Về Đề tài, ngoài Thánh Kinh, Thần thoại Hy Lạp và giới quí tộc còn có Trưởng giả và người  
bình dân. Đối tượng trong hình đều là người thật như thời Phục Hưng ở Bắc Âu và đặc biệt bắt  
đầu có dùng nhiều người ngồi làm mẫu. Caravaggio vẽ Tửu Thần Bacchus nhưng dùng 1 đĩ đực  
làm người mẫu trong bức họa nổi tiếng "The Young Bacchus" (1596).  
2) Hình Phong Cảnh  
Trong thời kỳ Baroque có các họa sĩ "sơn" Phong Cảnh hoàn toàn Thiên Nhiên (khác với thời kỳ  
Phục Hưng), dùng Phối Cảnh Không Gian và Chiaroscuro.  
Từ Carracci, có những họa sĩ:  
Poussin ở Pháp cũng như Carracci với những Phong Cảnh Thiên Nhiên tưởng tượng đúng như từ  
Thần thoại Hy Lạp  
Claude ở Roma với những Phong Cảnh Thiên Nhiên của Ý và bờ biển Amalfi (của Ý). Bức họa  
của ông có vẻ phóng đại (với không gian cao rộng và ánh sáng mù mờ).  
Both ở Hòa Lan với những Phong Cảnh Thiên nhiên hổn hợp của Ý (Roman campagna) và Hòa  
Lan. Bức họa của ông luôn trung thực với cảnh vật làm mẫu.  
Van Ruysdaele, Jan Van Goyen và Cuyp ở Hòa Lan cũng họa Cảnh đẹp và yên bình của Hòa  
Lan một cách trung thực như Both.  
(The four season: summer or Ruth and Boaz / Poussin) 1660  
(Seaport at Sunset / Claude) 1639  
(Southern landscape with a ruin / Both)  
Nicolas Poussin (1594-1665)  
Claude Lorrain tên thật là Claude Gallée (1600-1682)  
Jan Both (1618-1658)  
Salomon Van Ruysdaele (1600-1670)  
Aelbert Cuyp (1620-1691)  
ROCOCO  
Hội Họa chuyển sang một hướng, kiểu và bản chất mới: phù phiếm (frivolous) và có khi có thêm  
dâm đãng (erotic) để thỏa mãn giới trưởng giả lúc bấy giờ. Đó là Rococo, nó muốn tách ra khỏi  
giáo luật của Hội Thánh và chú trọng tới cá nhân Con người . Nó chính thức bắt đầu từ triều  
đình của vua Louis XV với họa sĩ Watteau và Boucher cho đến cuối thế kỷ 18.  
1) Hình Nhân Vật  
*
(Madame de Pompadour / Boucher) 1756  
Bức họa Rococo có Hình Nhân Vật mang đặc tính phù phiếm xa hoa trong cách trang sức và  
trang hoàng và còn thêm "dâm đãng" (riêng với Boucher và môn đồ là Fragonard ở Pháp và  
Ricci và ở Ý). Họa sĩ Rococo đều "sơn" và theo giống như kỹ thuật của Baroque.  
Watteau, Boucher và Fragonard ở Pháp và Gainsborough và Sir Reynolds ở Anh "sơn" dầy theo  
kỹ thuật Baroque của Rubens. Đối tượng là Người trong giới trưởng giả.  
Ricci và Tiepolo ở Ý theo kỹ thuật Baroque nhưng "sơn" nhẹ nhàng, tự do như Titian và rất nhẹ  
như Veronese. Đối tượng của họ là nhân vật trong Thần thoại Hy Lạp.  
West ở Mỹ dùng Rococo để "sơn" Nhân Vật trong lịch sử Hiệp Chủng Quốc.  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 33 trang yennguyen 22/04/2022 860
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Lược sử hội họa cổ điển của Tây phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfluoc_su_hoi_hoa_co_dien_cua_tay_phuong.pdf