Nghệ thuật đồ họa trên gốm Phùng Nguyên ở Phú Thọ

Tp chí Khoa hc - Trường Đại hc MHà Ni 66 (4/2020) 55-63  
55  
NGHỆ THUẬT ĐỒ HỌA TRÊN GỐM PHÙNG NGUYÊN Ở  
PHÚ THỌ  
GRAPHIC ART ON PHUNG NGUYEN POTTERY IN PHU THO  
Nguyn Quang Hưng*  
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/10/2019  
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/04/2020  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/04/2020  
Tóm tt: Nghthut đồ ha đã góp phn quan trng to nên din mo trên gm Phùng  
Nguyên. Qua đc đim vthpháp đồ ha cho thy tính nguyên sơ ca kthut to hình luôn  
song hành cùng ni dung chủ đề. Nó được truyn ti vào đi tượng nhm đm bo nguyên  
tc thng nht trên đồ gm. Dưới bàn tay tài hoa ca mình, người thPhùng Nguyên đã to  
ra vẻ đẹp cho gm khiến chúng n cha smô phng ca vn vt thiên nhiên, biến chúng trở  
thành nhng tác phm nghthut đẹp đẽ, đc đáo và có giá trthm m.  
Tkhóa: Đồ ha, gm Phùng Nguyên, đặc đim, to hình  
Abstract: Graphic art has contributed signicantly to create alook on Phung Nguyen  
pottery. Through the characteristics of graphic tactics, it shows that the originality of forming  
techniques is always in line with the content of the topic. It is conveyed to the object to ensure  
uniformity on the pottery. With the Phung Nguyen craftsman talent, they create the beauty  
for the pottery, making it hidden the simulations of all natural things, making them beautiful,  
unique and aesthetic works of art  
Keywords: Graphics, pottery Phung Nguyen, characteristics, Shaping  
1. Đặt vấn đề  
khả năng chế tác đồ đá, đồ gốm đạt đến  
đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật, được  
phân bố ở các địa điểm: Phú Thọ, Vĩnh  
Phúc, Hà Tây (cũ) (nay thuộc Hà Nội),  
Bắc Ninh... nhưng tập trung nhiều nhất ở  
lưu vực sông Đà, sông Hồng. Nhiều công  
trình nghiên cứu về gốm Phùng Nguyên  
đã được công bố, khẳng định gốm thời kỳ  
này có giá trị đặc sắc về kỹ thuật và nghệ  
thuật. Trong những đánh giá đó, ta thấy  
các di vật gốm có giá trị tạo hình và trang  
Việt Nam là một quốc gia có nền  
văn hóa gốm đặc sắc, có truyền thống lâu  
đời. Đồ gốm đóng vai trò quan trọng trong  
mọi lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần  
của người Việt, với rất nhiều nền văn hóa  
gốm thời Tiền sơ sử như: Hoa Lộc, Phùng  
Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Bàu Tró...  
Trong những nền văn hóa đó, văn hóa gốm  
Phùng Nguyên được coi là nổi bật bởi  
* Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ  
56  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
trí nổi bật. Vậy dưới góc độ nghệ thuật  
đồ họa, gốm Phùng Nguyên thể hiện đặc  
trưng như thế nào? Chúng có giá trị gì đặc  
biệt để các thời kỳ gốm sau học tập, kế  
thừa và phát huy?. Với bài viết này, tác giả  
muốn tìm hiểu nghệ thuật đồ họa trên gốm  
Phùng Nguyên, dựa trên một số hiện vật  
còn nguyên vẹn đến nay (chúng hin được  
lưu gitrong Bo tàng quc gia Vit Nam,  
Bo tàng Hùng Vương) để lý giải và làm  
sáng tỏ cho những câu hỏi trên.  
gia cầm dễ thuần hóa như: chó, bò, lợn,  
gà... Trong quá trình sinh kế, song song  
với việc trồng cấy, hái lượm thì nghề chế  
tác gốm luôn được người Phùng Nguyên  
quan tâm. Nghề này phát triển khá cao,  
đạt trình độ kỹ thuật khéo léo trong tạo  
dáng và trang trí. Do ở ven sông có nhiều  
thuận lợi về nguyên liệu đất sét nên các  
sản phẩm gốm được họ làm ra hết sức đa  
dạng, chế tác đẹp, cân đối, tinh xảo và cầu  
kỳ. Vì vậy nhà nghiên cứu Lê Tượng nhận  
định “...Đặc trưng nht ca các đồ gm  
thường là: loi dùng để đựng chia làm 3  
phn: ming rng, thân thng hơi phình,  
phn đáy thường có hình nón ct để làm  
đế cho chc, loi để nu ming thu li,  
thân phình ra, đế tròn li... các hin vt đồ  
gm Phùng Nguyên có tlhp lý gim độ  
cao ca 3 phn ở đồ đựng, độ phình phù  
hp phn thân và thu nhỏ ở phn ming,  
kết hp tlệ độ cao và độ cong ở đáy ca  
đồ gm để nu. Vdáng xinh xn ca các  
đồ gm cũng là đc đim ni bt ca nghệ  
thut to dáng đồ gm Phùng Nguyên” [8;  
tr.99].  
2. Nội dung  
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở  
Wikipedia thì: “Văn hóa Phùng Nguyên là  
mt nn văn hóa thuc sơ kthi đi đồ  
đng, cui thi đi đồ đá mi, cách đây  
chng 4.000 năm đến 3.500 năm. Phùng  
Nguyên là mt làng xã Kinh K, huyn  
Lâm Thao, tnh Phú Th, nơi đu tiên tìm  
ra các di chca nn văn hóa này. Di chỉ  
văn hóa Phùng Nguyên đã được phát hin  
Phú Th, Bc Ninh, Ninh Bình, Hà Ni,  
Hi Phòng và mt vài nơi khác trong lưu  
vc sông Hng.” Giai đoạn Phùng Nguyên  
tồn tại vào khoảng nửa đầu thiên niên kỷ  
II trước công nguyên thuộc sơ kỳ thời đại  
đồng thau.  
2.1. Đặc trưng nghthut đồ ha  
trên gm Phùng Nguyên  
Theo Từ đin thut ngMthut  
phthông thì nghệ thuật đồ họa: “là một  
ngành vẽ, trong đó người ta sử dụng kỹ  
thuật in ấn để thể hiện tác phẩm, sản xuất  
hàng loạt để phổ biến rộng rãi” [6; tr.67].  
Trong Các thloi và loi hình mthut,  
tác giả Nguyễn Trân đã đề cập: “Đặc trưng  
của đồ họa là dựa vào nét, chấm, vạch,  
mảng bẹt đen trắng để dựng nên hình  
tượng” [5; tr.86]. Còn theo Nguyễn Quân  
trong cuốn Con mắt nhìn cái đẹp nhận xét  
“Mới đầu là các đường nét khắc vạch tên  
các đồ gốm, đồ đá, đồ đồng thí dụ như trên  
trống đồng Đông Sơn. Người ta cũng vẽ  
Văn hóa Phùng Nguyên phát triển  
song song cùng các nền văn hóa khác như  
Mai Pha, Hà Giang, Hạ Long, Hoa Lộc  
và các nhóm di tích Gò Con Lợn, Gò Mả  
Đống, Cồn Chân Tiên... tiếp đó là sự kết  
nối của các nền văn hóa Đồng Đậu, Gò  
Mun và Đông Sơn.  
Những cư dân Phùng Nguyên  
thường chọn nơi sinh sống trên các sườn  
đồi, gò thoải, chạy dọc theo hai bên mạn  
sông Hồng, sông Lô và sông Thao, họ chủ  
yếu làm nông nghiệp, trồng lúa nước. Cùng  
với trồng trọt, họ còn chăn nuôi gia súc,  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
57  
lên vách đá, vách đất, vải, da làm áo quần,  
thậm chí trên thân người... Các tranh nét  
còn gọi là đồ họa độc bản [7; tr.78]. Như  
vậy, ta có thể nhận định, nghệ thuật đồ  
họa là hoạt động sử dụng cách vẽ thủ công  
hoặc công nghệ máy tính nhằm tạo nên  
các bản mẫu với mục đích nhân bản bằng  
phương pháp in ấn thông qua ngôn ngữ  
của mỹ thuật.  
sắp xếp bố cục theo lối đối xứng gương  
thường tạo được sự vững chãi, chắc chắn,  
cảm giác tĩnh. Người thợ Phùng Nguyên  
tuân thủ một cách chặt chẽ các quy tắc đối  
xứng gương nên hầu hết các hình chạm  
khắc trên gốm đều giống nhau. Chính vì  
vậy, từ những hình đối xứng đơn giản như  
những hoa văn khắc vạch hình chiếc lá  
đến những hình đối xứng phức tạp như  
hình tam giác đều được thực hiện một  
cách tỉ mỉ, kỹ càng. Những đồ án được  
bố cục theo lối đối xứng trục thường gây  
một cảm giác động, linh hoạt, vui vẻ rộn  
ràng, sôi nổi. Ta thấy rất ít họa tiết được bố  
trí ở phần chân đế. Các hình họa tiết đều  
mềm mại, hoàn chỉnh, khối hình không  
nằm trong những khuôn hình tĩnh tại mà  
nó chuyển động co lại, doãi ra liên tục, có  
khi tách ra thành dải vòng quanh diện gốm  
chia gốm thành 2 phần riêng biệt: miệng  
cổ và thân đế. Bất chấp là diện lớn hay  
bé, nhiều hay ít nhưng dưới bàn tay tài  
hoa của “nghệ nhân” khối hình của nó vẫn  
rất đẹp. Việc trang trí hoa văn tập trung  
ở phần thân và cổ đồ gốm là một nét đặc  
trưng của gốm Phùng Nguyên.  
Đặc trưng nổi bật của gốm Phùng  
Nguyên là đường nét, chấm điểm, khắc  
vạch và bố cục sinh động thể hiện rõ nét  
ngôn ngữ của nghệ thuật đồ họa. Chúng ta  
có thể phân tích nhận định chúng ở một số  
điểm cơ bản sau:  
2.1.1. Vbcc  
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Sĩ  
Toản trong bài Hoa văn đồ gm Phùng  
Nguyên - ngun sliu đc đáo đề cập:  
Tư duy nghthut trong trang trí hoa  
văn gm Phùng Nguyên thhin rõ ở  
nghthut sp đt, ý nim đi xng  
qua bcc trang trí và skết hp tài tình  
gia hàng trăm ha tiết và nhng đồ án  
trang trí khác nhau trên đồ gm Phùng  
Nguyên...” Tùy theo từng thể loại gốm mà  
người thợ gốm Phùng Nguyên lại có hình  
thức bố cục khác nhau, có đồ vật được bố  
cục theo lối tự do phóng khoáng, có cái lại  
rất nghiêm cẩn, tỉ mỉ. Nó được biến điệu  
theo từng diện tích bề mặt cần trang trí.  
Hoa văn trang trí được áp dụng hài hòa,  
thống nhất với kiểu dáng đồ gốm. Họa tiết  
không quá to khiến cho diện bề mặt chật  
chội, cũng không quá nhỏ khiến cho bố  
cục lỏng lẻo mà nó được bố trí cân đối  
thuận mắt. Những đồ gốm bụng nở, miệng  
loe cong, chân đế hoặc đáy bằng thì hoa  
văn được sắp xếp bố cục ở các vị trí như:  
vai, cổ miệng. Những đồ án trang trí được  
2.1.2. Vngôn ngữ đồ ha trên gm  
Phùng Nguyên  
2.1.2.1. Đường nét, điểm, chấm, vạch  
Đường nét, chấm, điểm, họa tiết,  
màu sắc, không gian... là những yếu tố  
đặc trưng của ngôn ngữ đồ họa trên gốm  
Phùng Nguyên. Trong đó, đường nét chính  
là phần quan trọng tạo nên sự đặc sắc, vẻ  
đẹp của gốm Phùng Nguyên.  
Đặc đim ca đường nét  
Qua khảo sát trên đồ gốm Phùng  
Nguyên, có thể chia làm bốn loại: Một là  
nét thẳng ngang. Hai là nét thẳng có chút  
biến hóa. Ba là nét thẳng chéo biến hóa  
58  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
tương đối nhiều. Bốn là nét cong với sự  
biến hóa đa dạng đổi hướng.  
đường thẳng, đường cong song song nhau  
kiểu khuông nhạc, các lỗ thủng có hình hạt  
đậu, hình tròn, hình chữ nhật được chạm  
khắc đường nét khá tinh tế. Và với gốm  
Hà Giang, thì đường nét trên gốm Phùng  
Nguyên đã khá thanh thoát, thuần thục,  
họa tiết bố trí mạch lạc, có ý tứ rõ ràng  
hơn. Các họa tiết chữ S có đầu lõm ta bắt  
gặp giống hoa văn gốm Phùng Nguyên.  
Ngoài ra, hoa văn khắc vạch của gốm  
Phùng Nguyên xuất hiện khá phổ biến trên  
gốm Hạ Long, nhưng đường khắc vạch có  
những điểm tương đối khác, họa tiết chữ S  
không được chau chuốt, cầu kỳ như trên đồ  
gốm Phùng Nguyên.  
Đường nét có quan hệ chặt chẽ với  
chuyển động, trong quá trình chuyển động  
của bất kỳ vật thể nào cũng sẽ gắn kết với  
đường nét. Tùy thuộc vào quy luật trọng  
lực, khi thăng bằng của các nét thẳng, khi  
mất thăng bằng của các nét chéo. Nét đơn  
giản nhất được vạch ra, tùy theo lực mạnh  
hay yếu sẽ gợi ra sự nhẹ nhàng lả lướt hay  
mạnh bạo, cứng cỏi. Nét thể hiện có thể  
rõ, có thể mờ hoặc có phần rõ mờ nhưng  
khi nó được kết hợp bởi bốn loại nét trên  
thì sẽ tạo ra sự biến đổi từ dạng tĩnh sang  
dạng chuyển động, tạo được không gian  
trên mặt nền gốm.  
Nếu quan sát kỹ, so sánh đường nét  
trên với một số gốm Đồng Đậu, Gò Mun,  
và Đông Sơn thuộc giai đoạn sau, sẽ thấy  
đường nét trên gốm Phùng Nguyên vẫn  
chưa thực sự tinh tế, nuột nét, nguyên nhân  
một phần do kỹ thuật sử dụng que để vạch  
tạo nét, một phần do trình độ tạo hình của  
người thợ gốm thể hiện nên chúng thường  
có sự khác biệt.  
Về hình thức, đường nét trên gốm  
Phùng Nguyên có độ dài chạy đều đặn, có  
vẻ thô và tương đối đơn giản, cấu trúc rõ  
ràng. Một đường nét bao ngoài cũng có  
thể tạo ra hình thể, và đường viền là cái  
giới hạn của hình thể đó. Những đường nét  
căng, mảnh, thẳng, sắc cạnh có xu hướng  
nổi rõ lên phía trên. Những đường nét đứt  
đoạn, cong có xu hướng chìm xuống dưới.  
Nó lập nên các chỉ dấu tạo hình nhằm thể  
hiện rõ sự sắp xếp trên một bề mặt cụ thể.  
Chúng ít biến đổi về hướng và độ to nhỏ,  
chủ yếu được tạo ra bởi hai phương pháp:  
vẽ tay hoặc in ấn.  
Thủ pháp tạo nét của người Phùng  
Nguyên là những dụng cụ như que nhọn  
hoặc tù đầu để phác lên các bộ phận trên  
gốm yếu tố nét đối lập như: cứng - mềm,  
thẳng - cong, dài - ngắn... Trên diện cong  
của gốm, thủ pháp tạo nét khó có được  
những mảng giá trị để phân định về độ  
dầy, mảnh, do đó phải cần tới những nét  
gạch. Những nét này cho phép gợi ý hiệu  
quả về sự thay đổi kết cấu của bề mặt cũng  
như hình diện. Các đường nét khắc vạch  
được đơn giản trong một chủ thể tạo hình  
duy nhất (một khối dáng gốm) rất mạch  
lạc, ẩn chứa sự cầu kỳ kỹ tính bên trong,  
bởi chúng được đặt vào những phần quan  
trọng nhất của hình khối đó. Để hình thể  
được rõ ràng, chính xác, hình vẽ nét phù  
Về so sánh đường nét hoa văn với các  
nền văn hóa gốm cùng đồng đại như Mai  
Pha, Hà Giang, Nà Hin, Hạ Long, thông  
qua quan sát, ta có thể nhận thấy chúng có  
những đặc điểm sau: hoa văn gốm Mai Pha  
và hoa văn gốm Phùng Nguyên có một số  
điểm tương đồng, được thể hiện trên các  
họa tiết hoa văn khắc vạch kết hợp với  
chấm dải mịn, đi cùng nó là các băng dải  
cuống rạ. Chúng được tạo bởi hai hay ba  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
59  
hợp một cách hoàn hảo với mặt phẳng  
diện gốm, người Phùng Nguyên đã bỏ  
qua chiều sâu của không gian. Mỗi đường  
vạch, khắc đều sát mép viền, vừa độ, ranh  
giới đậm nhạt rõ ràng, nghiêng vát, thẳng,  
cong đều đặn. Chúng tạo ra sự vận động  
mạnh mẽ của hình thể, nhịp điệu, khẳng  
định một phong cách tạo hình riêng biệt.  
giác nhàm chán nên người thợ gốm đưa  
họa tiết chữ S mềm mại vào giữa nhằm  
làm cho dải họa tiết trở nên sống động,  
kích thích thị giác hơn.  
NgườiPhùngNguyênsdngđường  
nét tạo mảng hoa văn rất linh hoạt bằng  
nét chải, khắc, vạch vì thế các nét thường  
không đều bằng nhau, có độ nặng, nhẹ,  
có nét to, nét nhỏ, nét dài, nét ngắn khác  
nhau. Các nét chồng lên nhau được kiểm  
soát thay đổi liên tục tạo cảm giác luôn  
chuyển động trong không gian. Những nét  
sau chồng lên nét trước đã hình thành nên  
hoa văn răng lược. Thông thường sự đối  
lập giữa những hoa văn đứng bố trí trong  
đường ngang tổ chức theo dạng hình học  
và vuông góc với nhau tạo hiệu quả tĩnh  
tại trong một trật tự được nhấn mạnh và  
ổn định về mặt thị giác. Nó thỏa mãn nhu  
cầu tinh thần và tạo cảm giác bình yên cho  
đối tượng.  
Đường nét được thể hiện trên gốm  
Phùng Nguyên là ngôn ngữ, là phương tiện  
thông dụng để cho một ý tưởng chuyển  
thể thành những hình thể, thực hiện nhiều  
thay đổi, biến hóa về một chủ đề, theo óc  
quan sát, trí tưởng tượng, nắm bắt trạng  
thái tự nhiên hay cấu trúc của không gian.  
Vì vậy người thợ gốm thường áp dụng sáu  
hướng nét chính để tạo nên các hình, các  
mảng họa tiết, hoa văn đó là: nét hướng  
lên trên, nét hướng xuống dưới, nét qua  
trái, nét qua phải, nét hướng vào trung  
tâm, nét hướng ra ngoại biên. Nó được thể  
hiện ở số điểm sau:  
Đường nét dùng để định hình ha  
tiết, hoa văn  
Đường nét dùng để to mng  
Trên gốm Phùng Nguyên, với phần  
họa tiết, những đường cong xiên khác với  
đường chéo góc ở chỗ nó tạo ra sự không  
cân bằng hay thay đổi nhịp điệu. Những  
đường cong họa tiết gây cảm giác mềm  
mại, hài hòa, đặc biệt các đường cong  
hình chữ S. Khi nó kết hợp với đường  
cong ngược khác sẽ tạo ra sự chuyển động  
mềm mại.  
Với lối sắp xếp những hoa văn dải  
đai được chấm những chấm nhỏ li ti, hình  
tam giác, hình chữ S ở giữa nối tiếp nhau  
liên tục bằng những nét rạch đơn được  
sáng tạo rất phổ biến. Nó được tạo hình  
đơn giản bởi sự khống chế của đường  
viền toàn phần bao ngoài. Chính sự đơn  
giản hóa các đường nét hoa văn ít nhiều  
góp phần làm nổi bật đặc trưng chủ yếu  
của chủ thể (Đây là những kiểu hoa văn  
được người Đồng Đậu tiếp thu bổ sung,  
có những thay đổi đáng kể như vạch được  
nhiều lớp, tạo ra làn sóng hay hình con  
sâu, thêm hình xoáy ốc và hình rẻ quạt...  
phong phú, đa dạng). (H2)  
Những đường nét họa tiết khắc vạch  
chéo đi lên, điểm đầu từ góc dưới bên  
trái đi lên góc trên vạch bên phải gợi ra ý  
tưởng về sự thăng thiên, năng động hướng  
về một đích. Các đường hướng họa tiết  
khắc vạch nằm ngang tạo nên sự cân bằng  
yên tĩnh, thanh thản. Tuy nhiên nếu chỉ là  
những đường nằm ngang thì sẽ gây cảm  
Tính chất định hình hoa văn còn  
được thể hiện rõ nét thông qua 2 đường  
60  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
thẳng được “bo” ở trên và dưới đường  
diềm, phần giữa là các họa tiết chữ S biến  
hóa kết hợp khéo léo với mảng đặc rỗng  
xen kẽ liên tục làm cho dải hoa văn trở  
nên thanh thoát. Chính sự phối hợp hai  
đường thẳng định hướng (đường thẳng,  
thể hiện sự bình lặng) với đường lượn ở  
trong (chữ S, đường uốn lượn, thể hiện  
sự vận động) đạt hiệu quả về việc đóng  
khung họa tiết, một mặt nó giữ chữ S  
không vượt phá khỏi khung, mặt khác nó  
làm cân bằng giữa cong mềm với thẳng,  
cứng. Đường viền chữ S được khắc vạch  
nét liên tục, bởi chức năng của nó là biểu  
tượng, tượng trưng nên đường viền rõ nét  
bao quanh để dễ phân giải với các họa  
tiết phụ xung quanh. Nhờ sự gắn kết chặt  
chẽ của đường nét bao quanh họa tiết này  
mà tạo ra hiệu ứng bất ngờ cuốn hút về  
thị giác.Trái với đường rõ nét định hình  
họa tiết chính, những đường viền mờ  
nhạt bao quanh họa tiết phụ lại tạo cảm  
giác yêm dịu, hiền hòa, nó gợi nên sự nhẹ  
nhàng của các đường cong không có sự  
đối chọi gay gắt.  
đường đi của nét chính họa tiết, tuy nhiên  
khi chắp nối với nhau nó tạo ra những  
khoảng rỗng bên trong để hình thành nên  
hình tưởng tượng. Nếu ta quan sát kỹ thì  
chính những khoảng trống ảo giác ấy lại  
tạo ra một thể loại họa tiết mới mềm mại  
hơn, quyến rũ hơn. (H1)  
Khi quan sát dải đường diềm trang  
trí trên gốm, ta có thể dễ dàng tách hình  
với nền thông qua việc định xác định họa  
tiết chính và họa tiết phụ, nó được chỉ dấu  
bằng nét và chấm điểm bên trong nó, còn  
phần rỗng trong lòng của họa tiết nếu bóc  
tách sẽ tạo ra một dạng hoa văn ảo khiến  
cho cái nhìn phải làm việc nhiều hơn mức  
bình thường. Nếu quan sát kỹ ta sẽ bị điều  
khiển bởi sự chuyển động di chuyển điểm  
nhìn tập trung vào các họa tiết hoa văn,  
nhận biết hình ảnh và cố gắng phân định  
được trạng thái hình và nền một cách rõ  
ràng, khi đó hiệu ứng ảo của thị giác sẽ  
dần khai mở ra một dải hoa văn mới lạ,  
đẹp đẽ.  
Dưới góc độ nghệ thuật đồ họa, có  
thể thấy rằng, người Phùng Nguyên đã biết  
quy giản các nét rườm rà, vụn vặt thành hệ  
thống đường nét hoàn chỉnh, có trật tự.  
Đường nét to ra o giác thgiác  
2.1.2.2. Đặc điểm chấm, điểm  
Trong nghệ thuật đồ họa người ta  
gọi cách thức này là nghệ thuật ảo thị (Op  
art), nghệ thuật này khai thác triệt để cảm  
nhận quy trình thị giác cùng với hiệu ứng  
xảy ra khi nhận thức của thị giác bị phân  
tán trong suy nghĩ cái nào là hình, cái  
nào là nền. Trong trang trí đường diềm,  
với các họa tiết hoa văn, việc tạo ra sự ảo  
giác sẽ hấp dẫn đối tượng hơn. Trên gốm  
Phùng Nguyên, trạng thái hình, nền được  
vận dụng một cách khôn khéo nhằm làm  
cho thị giác phải bối rối phân biệt. Các  
họa tiết được lắp ghép chuyển động từ bên  
trái sang bên phải, lên, xuống tạo ra nhiều  
hoạt động giữa hình với nền trong không  
gian định sẵn. Thị giác luôn hướng theo  
Đây là những dấu vết với chức năng  
chủ yếu đóng vai trò là họa tiết phụ. Các  
điểm, chấm, to, nhỏ được kết nhóm hoặc  
co cụm lại một cách tự do không tạo ra  
hướng khi thay đổi, di chuyển vị trí của  
nó trên nền gốm. Những chấm, điểm này  
với sự phân bố tỉ lệ và khoảng cách trong  
dải đường diềm hoặc trong hoa văn gợi ý  
về sự năng động trên bề mặt. Chúng tạo  
cho bề mặt xao động, thay đổi về chất  
(phô bày xù xì, thô nhám đối lập với trơn  
nhẵn của nền). Nó làm mất đi vẻ tĩnh tại  
của dải hoa văn. Trên dải đường diềm, nơi  
nào những điểm chấm tập trung lại thì nơi  
đó sẽ tạo ra sự mạnh mẽ về năng lượng,  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
61  
nơi nào các điểm, chấm tản mạn thì nơi  
đó năng lượng có vẻ bị phân rã và yếu đi.  
Các điểm chấm càng gần nhau thì lực tác  
động có vẻ càng nhanh hơn, mạnh hơn,  
kết nối với nhau rõ ràng hơn. Ngược lại  
các điểm chấm tản mạn trong dải hoa văn  
gốm lan rộng hơn sẽ làm phần đó trở nên  
khó đoán định về hướng và sự quy tụ. Các  
chấm tròn tạo ra sự vô hướng. Nếu so sánh  
với gốm Hà Giang thì ta thấy có xuất hiện  
hoa văn khắc vạch kết hợp với chấm giống  
kiểu trang trí trên gốm Phùng Nguyên, tuy  
nhiên nó không được thanh thoát bằng.  
Còn họa tiết hoa văn trên đồ gốm Nà Hin  
(Sơn La) có những đặc điểm trang trí hoa  
văn tương đối giống với hoa văn gốm  
Phùng Nguyên với chấm in hình vuông,  
đường nét khắc vạch chấm dải hình chữ  
S là chủ yếu. Nhưng gốm Nà Hin yếu về  
mặt sắp xếp bố cục và không gian trên  
diện gốm. Gốm Tràng Kênh (Hải Phòng)  
được trang trí hoa văn ở phần thân với văn  
thừng mịn và khắc vạch chữ S, kết hợp  
với chấm dải, vạch ngắn phía trong hoàn  
toàn giống hoa văn đặc trưng gốm Phùng  
Nguyên.  
dải đường diềm trang trí so với tổng thể  
đồ gốm tuân theo nguyên tắc chia 5, hoặc  
chia 3 tùy theo từng thể loại đồ vật. Nếu  
tính từ miệng xuống đến chân đế gốm, các  
dải đường diềm trang trí thường chiếm 2/5,  
3/5 tổng thể diện gốm. Đây là tỉ lệ tương  
đối lý tưởng trong trang trí, nó không làm  
mất đi vẻ đẹp của hình dáng, thậm chí nó  
còn tôn lên giá trị thẩm mỹ của gốm. Tuy  
nhiên, cá biệt trường hợp thố gốm hoặc  
bình dạng trống lại được trang trí gần như  
kín hết bề mặt.  
2.1.3.2. Đặc đim không gian  
Với bất kỳ đồ vật nào, khi vẽ, thiết  
kế, tạo tác, nặn thì người nghệ sĩ đều phải  
suy nghĩ để xử lý không gian một cách  
hoàn hảo nhất cho dù ít hay nhiều. Không  
gian là một phạm trù cơ bản của nghệ thuật  
thị giác, theo dạng hai chiều hay ba chiều.  
Không gian trên gốm trước hết là một bề  
mặt phẳng hai chiều. Ngay khi người thợ  
vạch một chỉ dấu nào đó lên bề mặt trống  
diện gốm như một đường cong, một vòng  
tròn hay một nét thẳng thì sẽ xuất hiện một  
cấu trúc mới về mặt không gian. Chính yếu  
tố thêm nét vạch vào đó đã giúp thị giác  
phân biệt được nó với không gian bao bọc  
nó. Vì vậy, việc tổ chức không gian trên  
diện gốm Phùng Nguyên được người thợ  
gốm tính toán tỉ lệ hợp lý. Chúng được thể  
hiện thông qua sự bố trí định hình các họa  
tiết kết hợp với những đường khắc vạch  
tạo ra tổng thể hài hòa. Đó là những vết  
khắc to đậm nổi rõ, nét khắc mảnh nhìn  
mờ hơn. Chúng di chuyển theo một hướng  
bất kỳ nhằm tạo ra một đường ranh giới  
phân chia không gian hai chiều trên mặt  
phẳng (nằm ngang, thẳng đứng hay chéo).  
Nó chiếm lĩnh và phân định ra ranh giới  
khu vực, xác lập vị trí lẫn hình dạng trên  
những khoảng trống.  
2.1.3. Đặc đim tl, không gian,  
bmt  
2.1.3.1. Đặc điểm về tỉ lệ  
Tỉ lệ có vị trí quan trọng trong đồ  
họa, là nhân tố thể hiện rõ rệt trên tác phẩm,  
nó giúp người xem tóm bắt được cái tổng  
thể hình thể mà người thể hiện đưa ra.  
Trong trang trí họa tiết trên bề mặt  
gốm Phùng Nguyên, yêu cầu về tỉ lệ là  
điều bắt buộc, vì nó tạo ra điểm tương  
quan hài hòa với tổng thể. Tỉ lệ thể hiện  
thông qua mối quan hệ mật thiết giữa  
chiều cao và chiều dài của họa tiết, nhiều  
ít tương ứng của dải đường diềm, mức độ  
cao, thấp, dài, ngắn của đường diềm họa  
tiết so với thân gốm, so với tổng thể bình  
gốm. Qua quan sát, ta nhận thấy, tỉ lệ giữa  
Những khoảng không gian trống trên  
bề mặt gốm khi xuất hiện các nét vẽ thì bắt  
62  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
đầu hình thành những hình thù khác nhau,  
nó tạo nên sự thay đổi theo hướng ngang,  
dọc. Không gian trên bề mặt gốm do hình  
dạng quyết định, được lấp đầy bởi các dải  
đường diềm hình hoa văn. Những không  
gian khác không hình bên ngoài của dải  
đường diềm thực hiện chức năng là chất  
dung môi bao quanh làm cho đường diềm  
nổi bật. Về mặt không gian trên diện gốm  
Phùng Nguyên có nét tương đồng với  
không gian trên gốm Nà Hin, Mai Pha, Hà  
Giang và Hạ Long ở chỗ chúng đều được  
khai thác từ ba vị trí chính là miệng cổ,  
ngang thân và phần đáy đế. Những họa tiết  
trọng tâm tạo điểm nhấn thì đều xuất hiện  
trên thân gốm, và chính điều này giúp cho  
chúng ta dễ phân biệt và nhìn ra niên đại  
các thời kỳ gốm mà không bị nhầm lẫn.  
đều khiến cho chúng ta nhớ lâu. Kết quả là  
sản phẩm sẽ trở nên sống động về mặt tạo  
hình. Bề mặt gốm Phùng Nguyên thường  
có đặc điểm mịn và nhẵn giúp người thợ  
diễn đạt đúng và tỉ mỉ về hình bằng đường  
nét. Yếu tố nền trên gốm tượng trưng cho  
toàn bộ cấu trúc hình được đặt vào, do đó  
hình sẽ đóng vai trò là trung tâm, là điểm  
nhấn trên sản phẩm.  
2.2. So sánh mi quan hgia  
nghthut đồ ha trên gm Phùng  
Nguyên vi mt snn nghthut gm  
trong khu vc  
Về so sánh với khu vực vùng Đông  
Nam Á, qua nghiên cứu, có thể nhận thấy,  
hoa văn chữ S trên gốm Phùng Nguyên có  
những điểm tương đồng với hoa văn chữ  
S ở đồ gốm Đại Văn Khẩu, gốm Hà Mẫu  
Độ, gốm Lương Chử (Trung Quốc). Tại  
di chỉ Khê Đầu (Đài Loan), vùng lan tỏa  
của văn hóa Đàm Thạch Sơn cũng có dạng  
hoa văn chữ S. Hoa văn chữ S còn xuất  
hiện trên gốm thời tiền sử thuộc văn hoá  
Ngưỡng Thiều (Bán Pha,Tây An, Thiểm  
Tây - Trung Quốc). Những hoa văn gốm  
Ngưỡng Thiều này đều mượn hình ảnh  
thái cực đồ làm khung xương để biến hoá  
thành hình chữ S với hàm ý về sự thống  
nhất đối lập của vạn vật như thiên địa,  
nam nữ, nhật nguyệt, thượng hạ... Ngoài  
ra hoa văn khắc vạch, chấm dải trên gốm  
Phùng Nguyên về hình dạng cũng có sự  
gần gũi với hoa văn khắc vạch trên gốm  
New Caledoni (Thái Bình Dương) và gốm  
Lapita (đảo Fiji). Nghiên cứu so sánh trên  
cho thấy hoa văn trang trí trên gốm Phùng  
Nguyên có mối liên hệ với hoa văn trên  
gốm ở vùng Phúc Kiến, Quảng Đông, Đài  
Loan...  
Như vậy, có thể thấy, người thợ gốm  
Phùng Nguyên đã coi không gian là một yếu  
tố tạo hình, nó đóng vai trò quan trọng bên  
ngoài vị trí đường diềm. Nó là môi trường  
làm nền cho lối diễn hình được bộc lộ.  
Người Phùng Nguyên đã biết khai thác yếu  
tố không gian nền là bề mặt hai chiều của  
gốm để trên đó thể hiện những dấu vết tạo  
hình, cho phép nó chiếm chỗ và định dạng.  
2.1.3.3. Đặc đim bmt (nn)  
Quan hệ hình và nền là yếu tố quan  
trọng cấu thành nên sản phẩm gốm. Sự  
nhạy cảm của người thợ đối với kết cấu  
nền một đồ gốm tùy thuộc vào sự liên hệ  
giữa nhận thức và xúc giác của họ. Nó  
sần sùi, thô nhám hay trơn nhẵn, láng mịn  
đều được người thợ gốm nhận biết bằng  
thị giác và xúc giác. Vấn đề đặt ra là làm  
thế nào cho các dải đường diềm hoa văn  
họa tiết được trang trí trên bề mặt của gốm  
Phùng Nguyên mang lại cảm giác về xúc  
giác (biểu cảm) và tri giác (cảm xúc). Nó  
cần có sự kích thích được va chạm vào bề  
mặt, với các vết vạch, vẽ trên nền gốm: gồ  
ghề hay trơn tru, thô êm hay nhám ráp...  
Như vậy, thông qua nghệ thuật đồ  
họa trên hoa văn gốm, ta biết rằng mối giao  
lưu văn hoá giữa cư dân Phùng Nguyên  
với các bộ tộc miền núi Hà Giang, Sơn La,  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
63  
Tài liu tham kho:  
với cư dân ven biển Hạ Long, Hải Phòng,  
thậm chí với các vùng Đông Nam Á tương  
đối chặt chẽ.  
1. Trần Lâm Biền “Trang trí trong mỹ thuật  
truyền thống của người Việt”, Nxb Văn hóa  
Dân tộc, 2001.  
3. Kết luận  
Nghệ thuật đồ họa tạo hình hoa văn  
đã góp phần quan trọng tạo nên diện mạo  
trên gốm Phùng Nguyên. Qua đặc điểm về  
nghệ thuật đồ họa cho thấy tính nguyên  
sơ của kỹ thuật tạo hình luôn song hành  
cùng nội dung chủ đề được truyền tải  
vào đối tượng nhằm đảm bảo nguyên tắc  
thống nhất trên đồ gốm. Dưới bàn tay tài  
hoa của mình, người nguyên thủy đã thổi  
hồn cho gốm khiến chúng ẩn chứa sự mô  
phỏng của vạn vật thiên nhiên, biến chúng  
trở thành những tác phẩm nghệ thuật.  
Những di vật gốm có hoa văn xuất hiện dù  
ít hay nhiều đã làm cho cuộc sống văn hóa  
tinh thần của người Phùng Nguyên thêm  
phong phú, đa dạng. Chúng phản ánh rõ  
nét đời sống văn hoá thẩm mỹ của người  
Phùng Nguyên.  
2. Bùi Thị Thu Phương, “Đồ gốm văn hóa  
Phùng Nguyên”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà  
Nội, 2015.  
4. Hán Văn Khẩn, “Xóm Rền, một di tịch  
khảo cổ đặc biệt quan trọng của thời đại đồ  
đồng Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà  
Nội, 2009.  
5. Nguyễn Trân, “Các thể loại và loại hình mỹ  
thuật”, Nxb Mỹ thuật, 2005.  
6. Đặng Bích Ngân “Từ điển thuật ngữ Mĩ  
thuật phổ thông”, Nxb Giáo dục, 2002.  
7. Nguyễn Quân “Con mắt nhìn cái đẹp” Nxb  
Mỹ thuật, 2005.  
8. Viện khảo cổ học, Sở văn hóa thông tin  
thể thao Phú Thọ “Tìm hiểu văn hóa Phùng  
Nguyên” Sở VHTT-TT Phú Thọ xuất bản,  
2001.  
Những họa tiết hoa văn được khắc  
vẽ trên gốm là pho sử liệu rất quý giá và  
rất cần thiết cho những người ham mê đồ  
gốm nghiên cứu tìm hiểu sự đặc biệt trong  
kỹ thuật tạo dáng cũng như nghệ thuật đồ  
họa trên gốm của cha ông xưa. Sự phát  
triển của những quan điểm thẩm mỹ trên  
gốm Phùng Nguyên gắn liền với sự phát  
triển của tư duy khoa học, thông qua nghệ  
thuật đồ họa thể hiện hoa văn đối xứng  
gương, đối xứng trục và đối xứng tịnh tiến  
cũng như số lần lặp lại của các họa tiết  
phức tạp đã cho phép chúng ta xác định về  
trình độ tạo hình của người Phùng Nguyên  
đối với những vật dụng mà họ làm ra, nó  
không chỉ nhằm thỏa mãn công năng sử  
dụng mà còn được nâng cao hơn thành  
một vật phẩm trang trí đẹp đẽ, độc đáo,  
góp phần quan trọng trong dòng chảy mỹ  
thuật Việt Nam./.  
Hình 1. Ha tiết hoa văn cách điu cao  
kiu đi xng gương  
Hình 2. Ha tiết hoa văn cách điu cao  
kiu đi xng gương  
Địa chtác gi: Khoa Nghthut và Thể  
dc ththao, Trường Đại hc Hùng Vương  
- Phú Thọ  
Email: nguyenquanghung77dhhv@gmail.com  
pdf 9 trang yennguyen 22/04/2022 580
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật đồ họa trên gốm Phùng Nguyên ở Phú Thọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_do_hoa_tren_gom_phung_nguyen_o_phu_tho.pdf