Kiểm định chất lượng giáo dục và tự chủ đại học

VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
Original Article  
Higher Education Accreditation and University Autonomy  
Dang Ung Van1, Ta Thi Thu Hien2,*  
1Hoa Binh University, 8 Bui Xuan Phai, My Dinh 2, Nam Tu Liem, Hanoi, Vietnam  
2VNU Centre for Education Accreditation, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam  
Received 22 December 2018  
Revised 25 December 2018; Accepted 27 December 2018  
Abstract: University autonomy is regarded as the necessary condition to implement  
advanced university governance practices to improve and enhance the quality of higher  
education. Accreditation is one of the approaches in education management for higher  
education institutions to ensure their quality, while ensuring accountability for their  
quality to society. This paper focuses on the relationship between university autonomy  
and accreditation. First, the study presents practical issues regarding university autonomy,  
including a literature review of university autonomy across the world and in Vietnam.  
Second, the paper analyses the relationship of university autonomy with the affirmation  
of higher education institutions’ academic prestige. Third, the study analyses the  
accountability of higher education institutions, in which accreditation is implemented by  
institutions as a means for their accountability. Finally, the paper proposes four groups of  
recommendations for the state management organisations, accreditation agencies and  
higher education institutions to effectively implement university autonomy linked with  
Vietnamese  
higher  
education  
institutions’  
accountability  
for  
education  
quality accreditation.  
Keywords: Higher education institutions, accreditation, university autonomy, accountability.  
*
_______  
* Corresponding author.  
E-mail address: tahien@vnu.edu.vn  
84  
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
Kiểm định chất lượng giáo dục và tự chủ đại học  
Đặng Ứng Vận1, Tạ Thị Thu Hiền2,*  
1Trường Đại học Hòa Bình, số 8 Bùi Xuân Phái,  
Khu đô thị Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam  
2Trung tâm Kiểm định Chất lượng Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội,  
Tầng 7, Nhà C1T, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận ngày 22 tháng 12 năm 2018  
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 12 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 27 tháng 12 năm 2018  
Tóm tắt: Tự chủ đại học được coi là điều kiện cần thiết để triển khai các phương thức  
quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng giáo dục. Kiểm định chất  
lượng giáo dục là một trong những cách tiếp cận trong quản lý giáo dục để cơ sở giáo dục  
vừa đảm bảo chất lượng, vừa đảm bảo trách nhiệm giải trình về chất lượng của mình đối  
với xã hội. Bài viết này trình bày về mối quan hệ giữa nền đại học tự chủ và việc kiểm  
định chất lượng giáo dục, trước hết, các vấn đề thực tiễn về tự chủ đại học, trong đó có  
nghiên cứu tổng hợp kinh nghiệm về tự chủ đại học trên thế giới và thực tiễn Việt Nam.  
Sau đó, bài viết phân tích mối quan hệ về tự chủ đại học với việc khẳng định về uy tín học  
thuật của cơ sở giáo dục, về năng lực giải trình và chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục,  
trong đó kiểm định chất lượng giáo dục như là một phương thức để cơ sở giáo dục thực  
hiện việc giải trình và chịu trách nhiệm. Cuối cùng, bài viết đưa ra bốn nhóm khuyến  
nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức kiểm định chất lượng và cơ sở giáo dục  
để triển khai hiệu quả tự chủ đại học với trách nhiệm kiểm định chất lượng giáo dục của  
các cơ sở giáo dục ở Việt Nam.  
Từ khóa: Cơ sở giáo dục đại học, kiểm định chất lượng giáo dục, tự chủ đại học, trách  
nhiệm giải trình.  
1. Đặt vấn đề*  
luận sôi nổi trên các diễn đàn, cũng như trên  
các phương tiện thông tin đại chúng của Việt  
Nam. Chính phủ Việt Nam cũng đã có chủ  
trương triển khai thí điểm tự chủ đại học ở một  
số trường đại học công lập mạnh. Một số vấn đề  
về tự chủ và quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đã  
được đề cập trong một số điều khoản của Luật  
số 34/2018/QH14 ngày 19 tháng 11 năm 2018  
Tự chủ (autonomy) đại học đã được đề cập  
đến từ lâu ở Việt Nam và đã có nhiều công trình  
nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo những tranh  
_______  
* Tác giả liên hệ.  
Địa chỉ email: tahien@vnu.edu.vn  
85  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
86  
các trường đại học châu Âu đã đánh giá mức độ  
tự chủ của 29 hệ thống giáo dục đại học của các  
nước thành viên [2]. Từ kết quả nghiên cứu của  
tổ chức này chúng ta có thể hình dung một bức  
tranh khái quát về tự chủ ở các hệ thống giáo  
dục đại học (mỗi nước có một hoặc vài hệ  
thống giáo dục đại học) của lục địa này. Nhận  
xét chung là mức độ tự chủ trong cả 4 lĩnh vực:  
tổ chức, tài chính, nhân sự và học thuật là  
không giống nhau trong các hệ thống giáo dục  
đại học khác nhau. Mỗi nước lựa chọn một tổ  
hợp xác định các quyền tự chủ cho các trường  
đại học của họ. Không phải các nước tiên tiến  
nào cũng trao tối đa quyền tự chủ cho các  
trường đại học của họ trong cả lĩnh vực truyền  
thống cũng như tự chủ học thuật [1].  
Vậy tự chủ đại học Việt Nam đang ở đâu?  
Nếu đối chiếu theo thang điểm của Hiệp hội các  
trường đại học châu Âu, tự chủ của các trường  
đại học công của Việt Nam nhìn chung là ở  
mức thấp hoặc trung bình thấp tương ứng với  
nhóm các nước sau:  
- Về tổ chức nằm trong nhóm trung bình  
thấp bao gồm: Brandenburg, Cyprus, the Czech  
Republic, France, Greece, Hungary, Iceland,  
Italy, Slovakia, Spain, Sweden and Switzerland.  
- Về tài chính nằm trong nhóm thấp bao  
gồm: Cyprus, Greece and Hesse.  
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của  
Luật Giáo dục đại học, trong đó đáng lưu ý là  
việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học đối  
với cơ sở giáo dục là bắt buộc. Một câu hỏi  
quan trọng được đặt ra là kiểm định chất lượng  
giáo dục có phải là một cách hạn chế tự chủ  
của các trường đại học hay không? Vì thế, việc  
nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự chủ và kiểm  
định chất lượng giáo dục đại học của các nước  
trên thế giới; về sự phát triển của hệ thống giáo  
dục đại học của các nước phát triển để rút ra bài  
học cho Việt Nam là một vấn đề cần được quan  
tâm nghiên cứu. Tuy vậy, một số nội dung, khái  
niệm cơ bản vẫn còn chưa được thống nhất từ  
trong cơ sở giáo dục đến xã hội và những người  
hoạch định chính sách, đặc biệt là về việc giải  
trình và chịu trách nhiệm (accountability) cũng  
như nguồn lực (resource) cho các cơ sở giáo  
dục tự chủ. Câu hỏi nghiên cứu được đặt ra là:  
Kiểm định và công nhận chất lượng giáo dục có  
vai trò gì trong việc xây dựng nền đại học tự  
chủ? Phương pháp nghiên cứu là hồi cứu các tài  
liệu học thuật và phỏng vấn chuyên gia các vấn  
đề liên quan đến khái niệm tự chủ, giải trình và  
trách nhiệm, các thông tin liên quan đến tự chủ  
đại học của 20 nước Châu Âu có nền giáo dục  
đại học phát triển (có trường đại học được đứng  
trong top 500 thế giới trong nhiều năm) và tham  
chiếu với Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu các  
văn bản chính sách về kiểm định chất lượng  
giáo dục và thực tiễn kiểm định chất lượng giáo  
dục đối với 117 cơ sở giáo dục trong cả nước  
theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở  
giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo.  
- Về nhân sự nằm trong nhóm trung bình  
thấp bao gồm: Brandenburg, Cyprus, France,  
Italy, Slovakia, Spain and Turkey.  
- Về học thuật nằm trong nhóm trung bình  
thấp bao gồm: Czech Republic, Denmark,  
Hungary, Italy, Latvia, Lithuania, the  
Netherlands,  
and Turkey.  
Portugal,  
Slovakia,  
Spain  
Thực tiễn tự chủ các trường đại học đã dẫn  
tới những vấn đề về mặt lý luận khiến chúng ta  
có thể thảo luận bất tận . Quyền tự chủ vẫn là  
một trong những vấn đề quan trọng nhất ảnh  
hưởng đến các trường đại học. Cụ thể là:  
1. Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đã  
đáp ứng việc quốc tế hóa việc học tập ở mức  
độ nào?  
2. Quyền tự chủ cho phép cơ sở giáo dục  
triển khai thực hiện các sáng kiến khác mà họ  
muốn thực hiện thế nào?. Trong bối cảnh quy  
giáo dục ngày càng tăng, giáo dục ngày  
2. Về thực tiễn tự chủ đại học  
Có nhiều cách phân loại các nội dung tự  
chủ đại học. Theo Hiệp hội các trường đại học  
Châu Âu (EUA), có thể xác định 4 lĩnh vực tự  
chủ: tổ chức, tài chính, nhân sự và học thuật  
[2]. Bốn lĩnh vực tự chủ này được đánh giá theo  
thang điểm gồm 38 tiêu chí, trong đó tự chủ tổ  
chức có 7 tiêu chí, tài chính có 11, nhân sự có 8  
và học thuật có 12. Các tiêu chí có những trọng  
số khác nhau. Dựa trên 38 tiêu chí này Hiệp hội  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
87  
càng phát triển và đổi mới thì mô hình quản lý  
kiểu “cầm tay chỉ việc” ngày càng tỏ ra kém  
hiệu quả. Tự chủ sẽ tạo điều kiện cho các  
trường “trăm hoa đua nở” để từ đó phát hiện,  
nhân rộng, lan tỏa các mô hình quản lý hiệu  
quả hơn.  
tình hình chiến lược dài hạn của các tổ chức  
giáo dục đại học.  
6. Cuối cùng là, các trường đại học giành có  
được quyền tự chủ thì trên thực tế đang rơi vào  
một vòng kim cô mới của thị trường cạnh tranh  
khắc nghiệt hơn.  
3. Tự chủ, tuy vậy, vẫn bị ảnh hưởng bởi  
quyền sở hữu cơ sở giáo dục theo: i) công hoặc  
tư hoặc một tổ hợp công tư nào đó, ví dụ các  
trường phi lợi nhuận; ii) hoặc bởi chế độ quản  
trị của họ: nội bộ cơ sở giáo dục hoặc từ bên  
ngoài hoặc một tổ hợp nội bộ và bên ngoài  
nào đó.  
4. Tự chủ cũng bị ảnh hưởng bởi nền tài  
chính phụ thuộc: nguồn đơn phương hoặc đa  
phương, và các quỹ tài trợ tư nhân hoặc công  
cộng được phân bố như thế nào, ví dụ, thông  
qua khoản tài trợ hoặc cho SV vay (mà không  
cho cơ sở giáo dục) hoặc phân bổ trọn gói hoặc  
phân bổ theo đơn và mức độ chặt chẽ của việc  
quản lý chi tiêu của cơ sở giáo dục theo ý định  
của nhà tài trợ. Đặc biệt là với ngân sách Nhà  
nước mà thực chất là tiền thuế của dân vốn  
không thể chi tiêu tùy tiện được.  
3. Về mối quan hệ giữa tự chủ và mức độ uy  
tín học thuật  
Về mối quan hệ giữa tự chủ và mức độ uy  
tín học thuật của các trường đại học trên thế  
giới là không rõ ràng. Nếu sử dụng Bảng xếp  
hạng của đại học Giao thông Thượng Hải (được  
công nhận rộng rãi) là chỉ số uy tín học thuật  
của một trường đại học và mức độ tự chủ của  
các trường đại học thuộc khối các nước Cộng  
đồng Châu Âu (theo đánh giá của Hiệp hội các  
trường đại học Châu Âu) thì dễ thấy rằng,  
không có mối tương quan nào giữa mức độ tự  
chủ, cho dù là tự chủ tài chính, tổ chức, nhân  
sự, học thuật hay cả 4 nội dung tự chủ với số  
trường lọt top 500 thế giới (xem Bảng 1).  
5. Thực tế cho thấy, cơ sở giáo dục luôn  
phải có các mục tiêu ưu tiên trong quá trình  
phát triển. Có 2 loại ưu tiên: ưu tiên cơ sở giáo  
dục và ưu tiên xã hội. Ưu tiên cơ sở giáo dục là  
hướng tới sự gia tăng uy tín, nguồn lực, tài sản  
và vị trí trong các bảng xếp hạng. Ưu tiên xã  
hội là sự đáp ứng kỳ vọng của các bên liên quan  
khi họ hoặc con em họ nhập học, của cộng đồng  
và rộng hơn là xã hội về hiệu quả kinh tế xã hội  
có được từ sự hoạt động của cơ sở giáo dục, về  
chất lượng nhân lực mà cơ sở giáo dục cung  
cấp cho họ và về nhân cách mà những công dân  
có được sau khi rời ghế nhà trường, v.v…  
Những ưu tiên đối với cơ sở giáo dục và ưu tiên  
xã hội như thế không phải lúc nào cũng đồng  
nhất, đặc biệt trong quá trình xây dựng chiến  
lược, chính sách và trong quá trình quản trị. Vì  
thế, các mục tiêu quốc gia có thể áp đặt và tạo  
ra những kỳ vọng mà các trường đại học không  
mong đợi, áp đặt những mục tiêu về học thuật  
cho các cơ sở giáo dục là không khả thi vì nó  
vốn phụ thuộc đáng kể, theo từng quốc gia, vào  
Để có thể xác định được mối liên hệ giữa tự  
chủ đại học, nguồn lực và sự phát triển của hệ  
thống các trường đại học của một quốc gia,  
chúng tôi đã sử dụng các dữ liệu: i) Số trường  
nằm trong top 500 theo bảng xếp hạng SJTU  
(Đại học Giao thông Thượng Hải) (N500); ii)  
Đầu tư trực tiếp công và tư (Direct  
Expenditure-DE) cho hệ thống giáo dục đại  
học. Chúng tôi đã tìm được mối tương quan  
tuyến tính giữa DE và N500 (Hình 1).  
Theo đó các nước Anh, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ  
là những nước có đầu tư trực tiếp công và tư  
cho giáo dục đại học cao tương đối so với các  
nước Đức, Ý, Thụy Điển khi tham chiếu đến số  
trường đạt top 500 thế giới. Mặt khác, để phân  
tích hiệu quả đầu tư cho trình độ học thuật của  
nền giáo dục đại học các nước này, chúng tôi  
cũng đã xác định mối tương quan giữa DES -  
suất đầu tư trực tiếp công và tư cho 1 sinh viên  
quy đổi (Direct Expenditure per Student) và  
N500 (Hình 2).  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
88  
j
Bng 1. Mức độ tchủ đi hc, uy tín hc thut  
và đầu tư trc tiếp của 20 nước Châu Âu năm 2010 và 2016  
Đầu tư trc  
tiếp công và  
tư (DE) cho  
toàn hệ  
Mức độ tch(%)  
DE/1  
sinh  
viên  
Ssinh  
viên quy  
USD năm đổi 2015  
Số  
trường  
GDP (tỉ  
Quc gia  
Tài  
Nhân  
Hc  
thut  
thng giáo quy đi  
top  
Tchc  
2015)  
(ngàn  
chính  
sự  
500a  
dc ĐH (tỉ  
USD năm  
2015)c  
(ngàn  
USD)  
người)b  
2864.903  
3371.003  
2381.2  
3668.0  
51.444  
40.363  
21.605  
11.004  
100/100 89/89 96/96 83/89  
42/37  
40/39  
Anh  
82/77  
58/44 63/63 69/88  
Đức*  
2422.649  
1819.047  
750.782  
2431.8  
2208.1  
919.8  
36.284  
18.216  
12.755  
14.921  
8.250  
59/59  
56/65  
69/69  
45/45 43/43 37/37  
70/70 44/44 57/56  
77/77 73/73 48/48  
23/22  
22/20  
12/12  
Pháp  
Ý
13.868  
Hà Lan  
483.724  
492.6  
8.427  
17.107  
55/61  
56/56 95/97 66/66  
11/11  
Sweden  
1199.715  
676.979  
372.606  
230.685  
1801.3  
340.3  
442.5  
354.0  
15.508  
8.050  
6.408  
4.175  
8.610  
23.654  
14.484  
11.795  
55/55  
55/55  
78/78  
93/93  
55/55 48/48 57/57  
65/65 95/95 72/72  
59/59 73/73 72/72  
56/67 92/92 90/90  
9/13  
8/7  
7/6  
6/6  
Span  
Thụy sĩ  
Áo  
Phn Lan  
291.043  
325.6  
5.122  
15.732  
94/94  
69/69 86/86 56/75  
4/5  
Denmark  
397.590  
227.498  
192.980  
297.0  
220.6  
728.7  
6.185  
3.405  
2.728  
20.829  
15.433  
3.743  
78/78  
81/73  
43  
42/42 63/63 83/83  
66/63 72/43 89/89  
4/3  
3/3  
2/2  
Na Uy  
Ai len  
36  
14  
40  
Hy lp+  
111.849  
481.235  
197.510  
340.3  
1963.4  
413.4  
1.582  
6.679  
2.788  
4.650  
3.402  
6.743  
59/56  
67/67  
80/80  
71/39 66/50 47/58  
54/54 78/84 63/68  
70/70 62/62 54/54  
2/2  
2/2  
2/3  
Hung  
Ba Lan  
Portugal  
182.462  
722.219  
45.427  
485.75  
4349.0  
88.0  
2.407  
12.204  
0.513  
4.955  
2.806  
5.833  
54  
33  
65  
46  
45  
57  
95  
60  
44  
52  
46  
44  
1/1  
1/1  
1/1  
Tip+  
Turkey+  
Slovenia+  
a: số trường top 500 lần lượt tại các năm 2008/2015  
* Điểm tự chủ cao nhất trong mỗi lĩnh vực của 3 bang: Branderburg, Hess và North Rhine - Westphalia.  
+ Không có số liệu tự chủ cho năm 2016  
b: Nguồn: Eurostat (online data code: educ-uoe-enrt01; Converted Coefficients  
of Bachelor, Master, Ph. D program students are 1.0, 1.5 and 2.0 respectively  
Và: IES NCES Digest of Education Statistics Table 605.20 https://nces.ed.gov/programs/digest/d16/tables/dt16-  
605.20.asp. USA is 2.6%  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
89  
g
theo các mô hình của các nước có nguồn lực xã  
hội cao như Anh, Đức hoặc thậm chí Trung  
Quốc. Vai trò tổ chức hệ thống chắc chắn tác  
động không nhỏ đến chất lượng học thuật của  
giáo dục đại học.  
4. Trách nhiệm giải trình (accountability)  
Tự chủ đại học luôn đi kèm với tăng cường  
năng lực giải trình và chịu trách nhiệm của cơ  
sở giáo dục đại học (mà không phải là năng lực  
thực hiện tự chủ). Nhìn từ góc độ lịch sử,  
trường đại học luôn luôn phải chịu một số loại  
điều khiển và đều đã phải trải qua những cải  
cách định kỳ và thủ tục này không nghi ngờ gì  
một hình thức “trách nhiêm giải trình”. Trong  
khi “autonomy” là một tính năng vốn có của  
các khái niệm truyền thống của cơ sở giáo dục  
thì “accountability” là một nguyên tắc liên quan  
đến việc đổi mới. Xác định hai vấn đề này có  
thể được hóa giải như thế nào vì những lợi ích  
to lớn hơn của các trường đại học và các quá  
trình quan trọng của sự phát triển quốc gia và  
quốc tế, là một thử thách đáng kể đối với thế  
giới học thuật đương đại.  
Hình 1. Quan hệ DE - N500.  
Khi đã có một nhu cầu thực sự sử dụng hiệu  
quả công quỹ (với trường công) và học phí mà  
hội đầu tư cho con em học tập (cũng cả đối  
với các trường đại học tư nhân để đáp ứng nhu  
cầu của xã hội chứ không chỉ là của những  
người trong nhóm cổ đông của họ),  
accountability” trở thành một yêu cầu liên  
quan đến đánh giá và đo lường hiệu suất, và  
theo dõi tất cả các chức năng của một trường  
đại học. Theo đúng ý nghĩa kỹ thuật,  
accountability” có nghĩa là nộp những báo cáo  
kết toán không phải với ý nghĩa ghi sổ sách mà  
còn với sự tham chiếu đến các mối quan hệ  
giữa các mục tiêu và các phương tiện, phù hợp  
với nhu cầu của xã hội và của chính các trường  
đại học.  
Hình 2. Quan hệ DES và N500.  
Dễ thấy rằng suất đầu tư trên 1 sinh viên  
thấp nhất không phải là ở những nước có số  
trường top 500 cao nhất. Nhóm các nước Hy  
Lạp, Hungary, Ba Lan, Tiệp, Thổ Nhĩ Kỳ có  
suất đầu tư thấp nhất, chỉ dưới 5000  
USD/năm/sinh viên; trong khi đó nhóm các  
nước Anh, Thụy Sỹ, Na Uy có suất đầu tư trên  
20.000 USD/năm/sinh viên. Mặt khác, trong khi  
Châu Âu cần trung bình 86 tỷ USD GDP để có  
1 trường top 500 thì trong số 20 nước được  
khảo sát, Hungary chỉ có 111.849 USD GDP để  
có 2 trường và Slovenia chỉ có 45.427 tỷ USD  
GDP để có 01 trường top 500. Điều này cho  
thấy, Việt Nam muốn nâng cao trình độ học  
thuật của nền giáo dục đại học thì rất nên tìm  
hiểu kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học  
của 2 nước này cũng như của nhóm các nước có  
suất đầu tư thấp dưới 5000 USD mà chưa nên  
Lâu nay Việt Nam chúng ta cũng đã bàn về  
nội dung này và đôi khi còn bị lúng túng trong  
từ ngữ khi phải dịch làm sao cho rõ nghĩa từ  
tiếng Anh “accountability”. Trên diễn đàn thế  
giới cũng như thực tiễn của các trường đại học  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
90  
có thể rút ra một nhận xét chung là: ở mỗi quốc  
phí, việc làm và thu nhập của cựu sinh viên ...  
được xem là minh chứng thứ hai cho  
accountability. Việc này cần có sự hỗ trợ từ các  
tổ chức phi lợi nhuận, các hiệp hội nghề nghiệp  
với sự trợ giúp của Chính phủ trong việc xây  
dựng hệ dữ liệu toàn quốc là việc cần làm để  
đảm bảo cho nghĩa vụ giải trình và chịu trách  
nhiệm của trường đại học được thực hiện tốt.  
Ba là, minh bạch về tài chính bao gồm toàn  
bộ các khoản thu và chi đều thông qua tài  
khoản ngân hàng là yếu tố chịu trách nhiệm và  
giải trình thứ ba. Ngoài việc giúp xác nhận tính  
chất phi lợi nhuận của các trường đại học và  
công tác kiểm toán, việc thu chi qua tài khoản  
còn hỗ trợ cho những giải pháp chống tham  
nhũng trong trường học.  
Bốn là, hỗ trợ tài chính cho người học: Các  
trường có thể tăng học phí và bảo lãnh cho sinh  
viên vay vốn để học tập nhưng cơ sở giáo dục  
cần minh bạch thông tin về việc sinh viên hoàn  
trả vốn và lãi vay sau khi tốt nghiệp. Điều này  
cũng có ý nghĩa như là một sự giải trình thuyết  
phục cho xã hội trong việc đầu tư vào học tại  
trường mình. Ngân hàng có thể từ chối cho sinh  
viên các trường vay nếu trong quá khứ sinh  
viên tốt nghiệp trường này không kiếm được  
việc làm có mức lương đủ để trả nợ khi đi học  
sau một mốc thời gian xác định.  
Bảng 2 trình bày để làm ví dụ một số nội  
dung cụ thể và công cụ giải trình trong từng  
lĩnh vực quản lý của Hệ thống các trường đại  
học Wisconsin Hoa Kỳ [4]. Đây không thể xem  
là tất cả. Ở mỗi quốc gia, mỗi trường đại học có  
những đòi hỏi bổ sung hoặc điều chỉnh khác  
nhau [5]. Điểm cần nhấn mạnh ở đây là trong  
khi các nước đang phát triển nói và bàn nhiều  
về tự chủ đại học thì ở các nước phát triển  
người ta lại bàn nhiều về nghĩa vụ giải trình và  
chịu trách nhiệm của trường đại học (Bảng 2).  
Tại trang web của Trường Đại học Oregon  
đã ghi rõ: Trang web này tập hợp dữ liệu và báo  
cáo toàn diện về Trường Đại học Oregon (UO),  
thể hiện cam kết của chúng tôi với tư cách là  
một trường công về tính minh bạch và trách  
nhiệm. Đây là nơi để sinh viên, nhân viên và  
công dân dễ dàng đánh giá trường đại học và  
việc tiến tới đạt được mục tiêu của chúng tôi.  
gia quan niệm “accountability” có thể được cụ  
thể hóa theo những nội dung khác nhau. Điều  
này hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển  
kinh tế xã hội, chính sách phát triển giáo dục  
đại học cũng như văn hóa tuân thủ của mỗi  
nước, thậm chí chính sách phát triển của từng  
trường đại học trong bối cảnh tự chủ đại học.  
Theo Robert Kelchen [3] “Khi mà thẻ ghi  
giá tiền của giáo dục đại học tiếp tục tăng lên,  
các trường cao đẳng và đại học trên toàn quốc  
đang chịu áp lực gia tăng để chứng minh giá trị  
của họ xứng với đồng tiền bỏ ra. Các trường đại  
học được phân loại theo nhiều thước đo, bao  
gồm cả chi phí và khả năng chuẩn bị cho sinh  
viên tham gia thị trường việc làm nên phải đáp  
ứng các yêu cầu từ nhiều bên liên quan. Chính  
quyền tiểu bang và liên bang đòi hỏi năng lực  
giải trình và trách nhiệm cao hơn. Tổ chức và  
nhà tài trợ tư nhân, cũng như phụ huynh và sinh  
viên ngày nay, tiếp cận giáo dục với sự nhạy  
cảm của người tiêu dùng. Các trường đại học có  
thể điều hướng những áp lực này như thế nào  
trong khi cố gắng giữ đúng sứ mệnh và giá trị  
của họ?”.  
Nhìn chung, cơ sở giáo dục có nghĩa vụ giải  
trình và chịu trách nhiệm về 4 lĩnh vực hoạt  
động chính: i) Chất lượng giảng day; ii) Minh  
bạch về đầu ra; iii) Minh bạch về tài chính và  
iv) Hỗ trợ tài chính cho sinh viên.  
Một là, về chất lượng giảng dạy rất cần phải  
nêu một nhận xét của Chủ tịch MIT Rafael Reif  
năm 2013 tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở  
Davos, “Chúng tôi có các nhà nghiên cứu kỳ  
diệu [tại MIT] họ là những giáo viên tệ hại”  
(We have spectacular researchers [at MIT]  
who are lousy teachers). Theo John Ebersole  
thì 80% giảng viên đại học Mỹ không được đào  
tạo về phương pháp giảng dạy sáng tạo. Việc  
thiết lập bộ phận khảo thí độc lập được trang bị  
những phương tiện và kỹ thuật đánh giá hiện  
đại, giúp cho việc đánh giá kết quả phù hợp,  
minh bạch và công bằng và giảng viên chịu  
trách nhiệm về công việc giảng dạy của mình  
cũng là một công cụ cho “accountability.  
Hai là, minh bạch đầu ra bao gồm: tỷ lệ tốt  
nghiệp, thời gian thực hoàn thành khóa học, chi  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
91  
h
Bảng 2. Lĩnh vực, nội dung và công cụ giải trình công khai và chịu trách nhiệm  
Lĩnh vực  
Ni dung  
Công cụ  
Lành mnh tài chính tng thCFI (chsố tài chính đa hợp)1  
Tlký qu2  
Qun lý tài chính  
Chi phí hành chính3  
% chi tiêu hành chính trong schi phí vn hành chung  
Tín dng hc tp (Credits to Tín dng trung bình phải có đối vi những người nhn  
Qun lý hành chính degree)  
Khả  
hc vcnhân  
năng  
chi  
trả Phí và lệ phí được công btính theo % thu nhp ca  
một gia đình trung lưu.  
(Affordability)  
Tltt nghip  
Tlssinh viên tt nghip/số sinh viên năm 1  
Tltt nghip hoc chuyn Tlssinh viên tt nghip hoc chuyển sang trường  
trường (với các trường cao 4 năm/số sinh viên năm 1  
đẳng).  
Hiu sut giáo  
dc/chất lượng  
Khong cách gia tltt nghiệp sau 6 năm của sinh  
Khong cách công bng  
Hc vị  
viên không phi nhóm chu thit thòi và các sinh viên  
chu thit thòi (dân tc thiu số, vùng sâu, vùng xa …)  
Shc vị (cao đẳng, cnhân, thc s, tiến sỹ) đã cấp  
trong năm.  
Đầu tư cho nghiên cứu bao gm các hoạt động được tổ  
chức riêng để to ra kết qunghiên cứu và được đặt  
hàng bi một cơ quan hoặc bên ngoài trường hoc  
được cp ngân sách riêng bi mt đơn vị trong trường.  
Chi phí cho dch vcông bao gm các hoạt động được  
tiến hành chyếu để cung cp các dch vphi giáo dc  
có lợi cho các cá nhân và các nhóm bên ngoài trường.  
Tl% các hc vị được cp cho các khi ngành Khoa  
hc tnhiên, Công ngh- Kthut, Khoa hc xã hi  
nhân văn và nghệ thut  
Tài trnghiên cu và phc  
vcộng đồng  
Nghiên cu và phát  
trin kinh tế  
Các hc vị  
Tlsinh viên tt nghip li thành phố nơi CSGD  
ta lc  
Cư trú ca cu sinh viên  
Dliu vic làm ca sinh viên tt nghiệp thu được từ  
nhiu ngun khác nhau ngay sau khi tt nghip và sau  
mt khong thời gian xác định.  
Nghnghip vic làm ca  
sinh viên tt nghip  
u
_______  
1 Chỉ số tài chính tổng hợp (CFI) là thước đo hiệu suất tài chính tổng thể dựa trên bốn tỷ lệ tài chính cốt lõi, mỗi tỷ lệ đại diện  
cho một lĩnh vực hoạt động tài chính cụ thể: i) tỷ lệ dự trữ chính, cho thấy sự sung túc nguồn lực; ii) tỷ lệ khả thi như một  
thước đo quản lý nợ; iii) tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản ròng để theo dõi hiệu suất tài sản tài chính; và iv) tỷ lệ doanh thu hoạt  
động ròng đo lường kết quả hoạt động. Các tỷ lệ này sau đó được chuẩn hóa, trọng số và kết hợp thành một chỉ số duy nhất,  
CFI, để chỉ ra tình trạng tài chính của tổ chức. Nếu CFI là 1,1 hoặc cao hơn là dấu hiệu của sức khỏe tài chính tốt. CFI được  
xác định bởi các chuyên gia ngoài trường.  
2 Tỷ lệ ký quỹ là một thước đo về sức khỏe tài chính tổng thể liên quan đến nhiệm vụ giảng dạy của một trường. Nó so sánh  
doanh thu của một trường với chi phí của nó. Tỷ lệ lớn hơn 1.0 cho thấy doanh thu vượt quá chi phí, trong khi tỷ lệ dưới 1.0  
cho biết chi tiêu thâm hụt.  
3 Chi phí hành chính là Chi tiêu cho “Hỗ trợ thể chế” bao gồm quản lý toàn hệ thống và lập kế hoạch dài hạn, hoạt động tài  
chính, tin học hóa hành chính, quản lý không gian, quản lý nhân sự và các chức năng quản trị liên quan.  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
92  
k
Những nội dung mà Trường Đại học  
trừu tượng của xã hội mà không phải của một  
nhóm quyền lực đặc biệt trong xã hội. Mặt  
khác, bản thân cơ sở giáo dục cũng cần có một  
công cụ quản lý chất lượng hiệu quả cho các  
hoạt động trí tuệ và nhân văn rất đa dạng,  
phong phú (như một bức tranh rực rỡ muôn  
u) trong một môi trường cạnh tranh ngày  
càng gay gắt tạo nên bởi cơ chế thị trường.  
Trong bối cảnh đó, về phía xã hội, kiểm  
định và công nhận chất lượng (accreditation)  
bởi một tổ chức độc lập trở thành một lựa chọn  
để thực hiện chức năng quản lý và kiểm soát  
việc giải trình và trách nhiệm của cơ sở giáo  
dục. Đồng thời, về phía nội bộ cơ sở giáo dục,  
kiểm định và công nhận chất lượng thúc đẩy  
các trường đại học phải xây dựng một hệ thống  
đảm bảo chất lượng nội bộ hiệu quả và bao phủ  
toàn bộ các hoạt động và các bên liên quan  
trong cơ sở giáo dục (Hình 3).  
Oregon đưa lên trang web gồm có 4 lĩnh vực:  
hoạt động tài chính, về phí và giá, về quần thể  
sinh viên, về nghiên cứu, về giảng viên và nhân  
viên và về lưu trữ công (public records). Trong  
mỗi lĩnh vực lại có một số nội dung và công cụ  
cần thiết. Ví dụ trong lĩnh vực tài chính cơ sở  
giáo dục sẽ trình bày về thu nhập và đầu tư, báo  
cáo tài chính, báo cáo ngân sách (budget), thông  
tin tài chính thể thao, quá trình ngân sách và lập  
kế hoạch, chính sách tài chính. Về phí và giá cơ  
sở giáo dục sẽ trình bày về phí và lệ phí; giá  
giáo dục; quyền sinh viên được biết về các họat  
động như: học phí, phí bắt buộc, giá nhà đất,  
lịch hoàn trả và các khoản phí đặc biệt và tiền  
phạt. Về quần thể sinh viên cơ sở giáo dục có  
báo cáo chi tiết về sinh viên nhập học, về tốt  
nghiệp và lưu ban, về các thước đo thành tựu  
của sinh viên, báo cáo về sự bình đẳng giới và  
chủng tộc, tỷ lệ giảng viên/sinh viên, và môi  
trường học tập tại các khuôn viên bao gồm cả  
vấn đề bạo lực tình dục hoặc quấy rối tình dục.  
Nói cách khác, thông tin về hầu hết các hoạt  
động của cơ sở giáo dục đều có thể tìm thấy  
trên trang web với một cách trình bày trực quan  
và tường minh. Việc công khai minh bạch  
những thông tin khá chi tiết trên trang web về  
các hoạt động và trách nhiệm của cơ sở giáo  
dục (mà trước tiên là các thông tin về tài chính)  
là phổ biến ở các trường đại học của Hoa Kỳ  
[6], Canada và những nước phát triển khác [7].  
Hình 3. Hệ đảm bảo chất lượng trường đại học.  
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về chất  
lượng và quản lý chất lượng giáo dục, nhiều tổ  
chức trên thế giới, trong khu vực và ở Việt Nam  
đã triển khai việc kiểm định chất lượng cơ sở  
giáo dục cũng như các chương trình giáo dục  
đại học. Những quan điểm cơ bản của mô hình  
đảm bảo chất lượng có thể tóm tắt trong một số  
điểm sau đây:  
1. Có áp lực trên toàn thế giới lên giáo dục  
đại học về việc phải chịu trách nhiệm về chất  
lượng của nó. Cơ sở giáo dục phải đảm bảo chất  
lượng và phải thể hiện cho các bên liên quan,  
rằng nó có thể cung cấp sản phẩm có chất lượng  
như dự kiến. Vấn đề là các bên liên quan không  
phải lúc nào cũng nói cùng một ngôn ngữ khi  
họ nói về chất lượng. Không có định nghĩa  
khách quan về chất lượng, cũng không có tiêu  
5. Kiểm định chất lượng giáo dục như là một  
phương thức để cơ sở giáo dục thực hiện  
nghĩa vụ giải trình và chịu trách nhiệm  
Như đã trình bày ở trên, nhu cầu có một  
hình thức kiểm soát của xã hội đối với hoạt  
động của các trường đại học tự chủ ngày càng  
gia tăng và các trường đại học cũng tự giác  
minh bạch hóa thông tin và trách nhiệm của cơ  
sở giáo dục trên trang web với những cơ cấu  
khác nhau của các báo cáo của họ. Câu hỏi đặt  
ra là ai trong xã hội có điều kiện, khả năng để  
đọc, phân tích và phán xét về các báo cáo này,  
tức là ai có thể thực hiện chức năng kiểm soát  
này theo một cách đáp ứng có hiệu quả nhu cầu  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
93  
chuẩn khách quan về chất lượng. Tiêu chuẩn đo  
lường chất lượng cần một sự thống nhất giữa  
nhà trường và các bên liên quan. Các cơ sở giáo  
dục vẫn phải đối phó với vấn đề này. Cách tốt  
nhất để nói về chất lượng là chia sẻ một quan  
niệm chung. Một quan niệm khả thi là: chất  
lượng đạt được mục tiêu và mong đợi do trường  
đại học đặt ra, với giả định rằng các mục tiêu và  
mong đợi này được xây dựng thông qua đối  
thoại và thảo luận và tạo sự thống nhất với tất  
cả các bên liên quan.  
có mô hình nào phù hợp với tất cả. Chính là các  
trường đại học cần quyết định mô hình phù hợp  
nhất với nó. Tuy nhiên, có một số điều kiện cơ  
bản phải được đáp ứng, có một số kinh nghiệm  
tại các trường đại học khác cũng nên được sử  
dụng trong việc phát triển một hệ thống IQA  
được trang bị bằng các yếu tố cơ bản để theo  
dõi, phán đoán mức độ hoàn thiện và cải tiến  
(xem Hình 3). Ít nhất hệ thống IQA phải bao  
gồm chu trình Deming: lập kế hoạch, thực hiện,  
kiểm tra và cải tiến (PDCA). Những gì xã hội  
chứng kiến và biết được về kiểm định và công  
nhận chất lượng chỉ là phần nổi của một tảng  
băng chìm hệ thống đảm bảo chất lượng và là  
giai đoạn cuối của quy trình đảm bảo chất  
lượng giáo dục đại học.  
5. Chuyển sang khâu đảm bảo chất lượng  
bên ngoài sẽ nảy sinh một mâu thuẫn giữa việc  
lập chuẩn và tính tự chủ, sáng tạo của các  
trường đại học và sự phân kỳ của hệ thống  
trong giáo dục 4.04. Rõ ràng là cần thiết phải có  
các tiêu chuẩn và tiêu chí để có thể đánh giá hệ  
thống đảm bảo chất lượng. Một trường đại học  
sẽ thiết lập các tiêu chuẩn riêng của mình (xem  
các báo cáo tự chủ của một số trường đại học đã  
trích dẫn ở trên), nhưng làm như vậy, họ phải  
tính đến các tiêu chí và tiêu chuẩn được đặt ra ở  
thế giới bên ngoài khi họ muốn mở rộng quy  
mô và tầm hoạt động của cơ sở giáo dục. Mặt  
khác, hệ thống chuẩn cũng phải chuyển từ đánh  
giá tổng kết (summative) sang đánh giá quá  
trình (formative) để thích hợp với đặc điểm của  
giáo dục 4.05.  
2. Chất lượng như sự đáp ứng với mục tiêu  
(fitness for purpose). Với khái niệm về chất  
lượng này, câu hỏi cơ bản là liệu trường đại học  
có thể đạt được các mục tiêu đã được xây dựng  
của nó? Nó liên quan đến chất lượng của các  
quy trình. Khái niệm chất lượng này được cải  
thiện theo định hướng của nhà trường. Tuy  
nhiên, một tổ chức có thể đặt mục tiêu quá thấp,  
do đó có thể dễ dàng đạt được mục tiêu đề ra.  
Điều này có nghĩa rằng chúng ta không chỉ phải  
thảo luận về sự đáp ứng với mục tiêu, mà còn là  
sự phù hợp của mục tiêu (fitness of purpose).  
3. Trên thực tế, chúng ta phải kết luận rằng,  
chất lượng là một khái niệm rất phức tạp.  
Chúng ta không thể nói về “Chất lượng  
(THE quality - số ít)”, chúng ta cần nói về  
“qualities - số nhiều”. Để mục tiêu của một  
trường đại học được xem là phù hợp thì mỗi  
trường đại học phải phân biệt và đáp ứng các  
yêu cầu chất lượng rất đa dạng và nhiều chiều  
do sinh viên, do thế giới học thuật, do thị  
trường lao động (người sử dụng lao động)/xã  
hội, và do Chính phủ đặt ra. Chúng ta cần một  
cái nhìn tổng thể (holistic) về chất lượng nhưng  
chúng ta lại chỉ có thể xác định chất lượng khi  
xem xét các yếu tố cụ thể.  
Phân tích những đặc điểm cơ bản của Bộ  
tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục  
đại học cũ do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành  
năm 2007 với 10 tiêu chuẩn, 61 tiêu chí  
(có hiệu lực đến hết tháng 6 năm 2018) cho  
_______  
4
4. Chất lượng chủ yếu là trách nhiệm của  
chính trường đại học. Mặc dù ở nhiều quốc gia,  
Chính phủ có một trách nhiệm đặc biệt liên  
quan đến đảm bảo chất lượng, nhưng chính là  
trường đại học (và đặc biệt là cán bộ, giảng  
viên, nhân viên và sinh viên) chịu trách nhiệm  
cung cấp và đảm bảo chất lượng. Do đó, điều  
quan trọng là mỗi trường đại học phát triển một  
hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong  
(Internal Quality Assurance) hiệu quả. Không  
Theo chuyên gia của INTELITEK Giáo dục 4.0 chính là  
nền giáo dục “may đo” (TailorED) có 4 đặc điểm chính:  
1. Quá trình học tập được thiết kế cho từng người học  
(tailor made); 2. Đánh giá kết quả học tập phải là đánh giá  
quá trình; 3. Giáo viên phải là người thông thái (mentors).  
4. Phân kỳ (deligence) và đa nguyên (pluralism) là  
phổ biến.  
5
Điều này thể hiện rõ nếu chúng ta so sánh hai bộ chuẩn  
đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục của Việt Nam. Bộ  
chuẩn mới ban hành theo Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT  
ngày 19/5/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã  
được xây dựng theo hướng này.  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
94  
thấy, bộ tiêu chuẩn này thiên về định hướng  
đánh giá tổng kết hoạt động của một trường ĐH  
trong 5 năm, trong khi Bộ tiêu chuẩn mới vi  
25 tiêu chun, 111 tiêu chí ban hành theo  
Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT ngày 19/5/2017  
đang được triển khai đã chú trọng nhiều hơn  
đến đánh giá quá trình thông qua việc sử dụng  
chu trình PDCA cho 3 cấp đảm bảo chất lượng  
trong cơ sở giáo dục: chiến lược, hệ thống và  
chức năng (21/25 tiêu chuẩn). Theo Bộ tiêu  
chuẩn mới, các trường đại học cho dù có quyền  
tự chủ cao thì vẫn phải chấp nhận một “luật  
chơi chung” có tính khuôn khổ mà các bên liên  
quan bao gồm cả xã hội và Nhà nước đã xây  
dựng và công nhận. Ban hành một chuẩn có  
tính khung như thế không những không hạn chế  
tính chủ động của hệ thống giáo dục đại học mà  
còn đòi hỏi các trường luôn sáng tạo và đổi mới  
trong chiến lược, cấu trúc hệ thống và chức  
năng để thu được những kết quả ngày càng tốt  
hơn. Điều bất biến mà Bộ tiêu chuẩn đòi hỏi  
chính là ở kết quả phải gia tăng ở cả 4 khâu:  
đào tạo, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng  
đồng và hoạt động tài chính. Điều vạn biến  
chính là ở sự sáng tạo trong công tác quản trị  
của mỗi cơ sở giáo dục và việc xây dựng mô  
hình phát triển mà cơ sở giáo dục theo đuổi.  
6. Cuối cùng là công tác kiểm định và công  
nhận. Khi đã có những chuẩn khung thì việc  
đánh giá ngoài phải dựa vào những tổ chức  
chuyên nghiệp, những chuyên gia có năng lực  
và am hiểu về giáo dục đại học để thẩm định,  
đánh giá và phán xét sự đáp ứng các tiêu chuẩn  
chất lượng qua các báo cáo tự đánh giá của cơ  
sở giáo dục cũng như những thông tin mà họ  
cung cấp trong các báo cáo giải trình và trách  
nhim và thu được khi khảo sát trực tiếp.  
trường đại học. kiểm định chất lượng giáo dục  
là một phương thức giám sát của Nhà nước và  
xã hội đối với việc thực hiện quyền tự chủ và  
việc giải trình của cơ sở giáo dục, đồng thời là  
công cụ quản lý hiệu quả của một trường đại  
học đáp ứng các yêu cầu đa dạng, đa phương từ  
Nhà nước và xã hội trên cơ sở xây dựng một  
mô hình đảm bảo chất lượng bên trong thích  
hợp và hiệu quả.  
6. Kết luận, khuyến nghị  
Từ những phân tích nêu trên, chúng tôi có  
một số kết luận và khuyến nghị sau đây:  
Thứ nhất, để thúc đẩy sự phát triển trong  
tương lai của hệ thống giáo dục đại học thì việc  
trao quyền tự chủ cho các trường và đòi hỏi giải  
trình và trách nhiệm của họ bao gồm cả tự chủ  
tổ chức, tài chính, nhân sự và học thuật là cần  
thiết. Nước ta nên cố gắng trao cho các trường  
đại học quyền tự chủ tương đương với mức  
trung bình của 20 nước Châu Âu có chất lượng  
học thuật cao (có trường đại học top 500 thế  
giới theo Bảng xếp hạng đại học Giao thông  
Thượng Hải). Những cải cách trong tương lai  
nên tập trung vào tự chủ học thuật giảm bớt các  
từ “theo quy định” trong lĩnh vực này. Cụ thể là  
nên tạo cho các trường đại học tự do hơn trong  
việc đưa ra các tiêu chuẩn nhập học riêng, mở  
ngành mới để đáp ứng những biến động của thị  
trường nhân lực và việc làm.  
Thứ hai, cần phải khẳng định, cơ sở giáo  
dục có quyền tự chủ càng cao thì yêu cầu về  
giải trình và trách nhiệm càng phải cao. Nói  
cách khác, giải trình và trách nhiệm tỷ lệ thuận  
với mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục. Báo cáo  
giải trình và trách nhiệm của cơ sở giáo dục  
phải được công khai, chi tiết và đầy đủ bao phủ  
toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của cơ sở giáo  
dục cũng như của mỗi cán bộ, giảng viên và  
nhân viên. Bên cạnh đó, cơ sở giáo dục tự chủ  
cần được sự trợ giúp nâng cao năng lực quản trị  
ở tầm tương ứng.  
Cuối cùng, từ việc phân tích những nội  
dung cơ bản của khái niệm tự chủ, khái niệm  
giải trình và chịu trách nhiệm của một trường  
đại học - một khái niệm không thể tách rời với  
khái niệm tự chủ cả về lý luận và thực tiễn; và  
những quan điểm cơ bản của mô hình đảm bảo  
chất lượng đang được triển khai trong khu vực  
và ở nước ta chúng ta đã có cơ sở để trả lời câu  
hỏi nghiên cứu: Kiểm định chất lượng giáo dục  
không phải là một cách hạn chế tự chủ của các  
Thứ ba, không phải tự chủ là cây đũa thần  
và chìa khóa vạn năng để phát triển giáo dục đại  
học. Nguồn lực cho giáo dục đại học là hết sức  
quan trọng. Chỉ trông chờ vào nguồn thu học  
phí thì không thể bứt phá về chất lượng được.  
D.U. Van, T.T.T. Hien / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 84-95  
95  
Scorecard,  
Belgium, 2011.  
[3] R. Kelchen, Higher Education Accountability  
Johns Hopkins University Press, 2018, ISBN:  
9781421424736.  
European University Association.  
Việc đầu tư phát triển khoa học và công nghệ  
của Nhà nước cho các trường đại học cần được  
thực hiện theo các chương trình tài trợ  
cạnh tranh.  
Thứ tư, hoạt động kiểm định (và công  
nhận) chất lượng, khâu cuối trong quy trình  
đảm bảo chất lượng cần được xem là công cụ  
của Nhà nước và xã hội giám sát việc thực hiện  
quyền tự chủ và trách nhiệm của các trường đại  
học. Mặt khác, việc kiểm định chất lượng, trên  
thực tế sẽ buộc các trường đại học phải xây  
dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong,  
giúp cho các trường đại học dần nâng cao năng  
lực tự chủ và ý thức trách nhiệm để có thể tự  
quyết định và chịu trách nhiệm cuối cùng về  
các quyết định này trong các hoạt động đào tạo,  
nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng và tài  
chính. Được như vậy, Nhà nước có thể chuyển  
từ Nhà nước cai quản sang Nhà nước giám sát  
(nhà nước hành chính sang nhà nước pháp  
quyền) và giảm tối thiểu việc ban hành các định  
chế (deregulation) mà lâu nay vẫn  
thực hiện.  
[4] University of Wisconson System, UW System  
Accountability  
Dashboard  
truy  
cập ngày 10/12/2018.  
[5] University of Oregon, University Overview:  
cập ngày 10/12/2018.  
[6] The University of Iowa, Accountability to Donors,  
Alumni,  
and  
the  
Public.  
University of California. Accountability Report 2018.  
University  
University of Victoria. Accountability.  
of  
Waterloo.  
Accountability.  
Texas A&M University. Accountability Measuring  
the  
Academic Planning and Institutional Research.  
Accountability Report.  
Pursuit  
of  
Excellence.  
Tài liệu tham khảo  
[7] Council of Ontario Universities. University  
Accountability.  
[1] Đặng Ứng Vận, Nguyễn Thị Huyền Trang, Tự  
chủ đại học Việt Nam: nội dung, nguồn lực và  
trách nhiệm, Tạp chí Khoa học Giáo dục. số 141  
tháng 6 (2017) 5-8.  
[2] Thomas Estermann, Terhi Nokkala, Monika  
Steinel, University Autonomy in Europe II The  
University College Cork, Ireland. Accountability.  
pdf 12 trang yennguyen 16/04/2022 4180
Bạn đang xem tài liệu "Kiểm định chất lượng giáo dục và tự chủ đại học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkiem_dinh_chat_luong_giao_duc_va_tu_chu_dai_hoc.pdf