Kết quả đo độ thấm bằng nhiều phương pháp khác nhau cho vỉa Turbidite mỏ Hải Thạch, bể Nam Côn Sơn

PETROVIETNAM  
TẠP CHÍ DẦU KHÍ  
Số 2 - 2019, trang 35 - 44  
ISSN-0866-854X  
KẾT QUẢ ĐO ĐỘ THẤM BẰNG NHIỀU PHƯƠNG PHÁP KHÁC NHAU  
CHO VỈA TURBIDITE MỎ HẢI THẠCH, BỂ NAM CÔN SƠN  
Phạm Hoàng Duy, Hoàng Kỳ Sơn, Trần Ngọc Thế Hùng, Trần Vũ Tùng  
Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông  
Email: duyph@biendongpoc.vn  
Tóm tắt  
Giá trị độ thấm vỉa và quy luật phân bố của độ thấm là thông số rất quan trọng trong công tác phát triển và quản lý mỏ. Độ thấm có  
thể được xác định bằng nhiều phương pháp tuy nhiên kết quả thu được có thể có độ chênh lệch cao, nhất là tại những giếng có sản lượng  
thấp. Bài báo đưa ra kết quả thu được từ 4 phương pháp xác định độ thấm đã được áp dụng cho 4 giếng tại vỉa turbidite (Sand30) của mỏ  
Hải Thạch, bể Nam Côn Sơn, trong đó có 3 giếng khai thác (HT-C, HT-H và HT-I) và 1 giếng thăm dò (HT-X). Do khả năng cho dòng của các  
giếng khác nhau nên việc xác định chính xác giá trị độ thấm vỉa và quy luật phân bố độ thấm cho Sand30 là cơ sở quan trọng để khai thác  
hiệu quả vỉa turbidite này. Đồng thời, các yếu tố có thể dẫn tới sự chêch lệch về giá trị độ thấm giữa 4 phương pháp cũng được nhóm tác  
giả phân tích chi tiết.  
Từ khóa: Độ lưu động, độ rỗng, độ thấm, mẫu lõi, PTA, mỏ Hải Thạch.  
1. Giới thiệu  
Sand30 là 1 vỉa lớn của mỏ Hải Thạch với trữ lượng  
định độ thấm từ dữ liệu đo áp suất trong khi khoan và (iv)  
xác định độ thấm sử dụng phương pháp phân tích PTA.  
Kết quả cho thấy giá trị độ thấm được xác định thông qua  
phân tích PTA thấp hơn rất nhiều so với độ thấm được xác  
định bằng 3 phương pháp còn lại, tương tự như kết quả  
của một số nghiên cứu trước đây [1].  
tại chỗ ước tính hơn 210 tỷ ft3 khí tiêu chuẩn và hơn 26  
triệu thùng condensate. Vỉa turbidite này được phát hiện  
bởi giếng thăm dò HT-X và được khai thác bởi 3 giếng  
khai thác là HT-C, HT-H và HT-I. Tài liệu thu được từ 4  
giếng khoan trên cho thấy, vỉa Sand30 là một tập cát kết  
khá tương đồng, hạt mịn đến rất mịn, ở độ sâu khoảng  
3.500m, tuổi Miocene giữa, có độ dày từ 25 - 50m tại  
giếng, độ rỗng trung bình 14 - 17%. Hàm lượng sét trong  
cát kết quan sát được tại cả 4 giếng là tương đối thấp, thấp  
hơn 20%, với thành phần chủ yếu là sét chlorite và sét illite  
từ tài liệu phân tích mẫu lõi.  
2. Kết quả xác định độ thấm từ mẫu lõi  
2.1. Độ thấm tuyệt đối  
Vỉa Sand30 có 4 giếng, trong đó có 2 giếng lấy mẫu lõi  
là giếng HT-H (35m) và HT-X (34m). Do mẫu lõi thu được từ  
2 giếng này gần như toàn bộ vỉa Sand30 nên các thông số  
phân tích mẫu lõi có tính đại diện cao. Hàm phân bố giá trị  
độ thấm của giếng HT-X và HT-H được thể hiện trên Hình  
1, với giá trị trung bình lần lượt là 9mD và 24mD.  
Trong 3 giếng khai thác, giếng HT-H có khả năng cho  
dòng tốt, có thể lên tới 15 triệu ft3 khí tiêu chuẩn/ngày.  
Trong khi đó, giếng HT-C và HT-I khả năng cho dòng thấp  
hơn nhiều, với lưu lượng ổn định chỉ 2 - 3 triệu ft3 khí tiêu  
chuẩn/ngày. Do khả năng cho dòng của các giếng khác  
nhau nên việc xác định chính xác giá trị độ thấm vỉa và  
quy luật phân bố độ thấm cho Sand30 là rất quan trọng  
để khai thác hiệu quả vỉa này.  
2.2. Độ thấm hữu dụng  
Độ thấm hữu dụng đã được đo tại điều kiện nước dư  
(Hình 2). Từ Hình 2 có thể thấy độ thấm hữu dụng rất gần  
với độ thấm tuyệt đối. Do đó, có thể thấy độ thấm khí  
trung bình của vỉa Sand30 tại vị trí giếng HT-X và HT-H là  
xấp xỉ 9mD và 24mD.  
Độ thấm của các giếng tại vỉa Sand30 được xác định  
bằng 4 phương pháp, bao gồm: (i) xác định độ thấm từ  
mẫu lõi, (ii) xác định độ thấm từ dữ liệu độ rỗng, (iii) xác  
3. Kết quả xác định độ thấm từ dữ liệu độ rỗng  
3.1. Phương pháp tính toán  
Từ các phân tích địa vật lý giếng khoan, vỉa Sand30 có  
thể được chia ra làm 2 loại thạch học chính: cát và cát sét  
Ngày nhận bài: 1/11/2018. Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 1 - 6/11/2018.  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 23/1/2019.  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
35  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
với ranh giới phân chia là thành phần sét chiếm 20%  
thể tích. Hai loại thạch học này tuân theo 2 quy luật  
rỗng - thấm khác nhau (Hình 3).  
HT-X, độ thấm trung bình 9 mD  
Tần số Tích lũy  
50  
45  
40  
35  
30  
25  
20  
15  
10  
5
100%  
90%  
80%  
70%  
60%  
50%  
40%  
30%  
20%  
10%  
0%  
3.2. Kết quả  
Kết quả tính độ thấm từ dữ liệu độ rỗng cho 4  
giếng HT-C, HT-H, HT-X và HT-I được thể hiện bằng  
đường nét liền màu cam trên Hình 4. Các điểm đo màu  
đỏ trên Hình 4b và 4c là độ thấm đo từ mẫu lõi. Kết quả  
cho thấy độ thấm tính từ độ rỗng tương đồng với kết  
quả đo trực tiếp từ mẫu lõi.  
0
0,1 0,3 0,5  
1
3
5
10  
30 Cao  
hơn  
Độ thấm (mD)  
(a)  
HT-H, độ thấm trung bình 24 mD  
Tần số Tích lũy  
4. Kết quả xác định độ thấm từ dữ liệu đo áp suất vỉa  
trong khi khoan  
50  
45  
40  
35  
30  
25  
20  
15  
10  
5
100%  
90%  
80%  
70%  
60%  
50%  
40%  
30%  
20%  
10%  
0%  
Một thông số quan trọng thu được khi đo áp suất  
vỉa trong khi khoan là độ lưu động. Độ lưu động là tỷ  
lệ giữa độ thấm và độ nhớt, do đó sẽ tỷ lệ thuận với độ  
thấm khi độ nhớt không thay đổi nhiều (Hình 5). Mối  
quan hệ này đã được sử dụng để xác định độ thấm từ  
dữ liệu đo áp suất vỉa của giếng HT-C, được thể hiện  
bằng các điểm đo màu đỏ trên Hình 4a. Các kết quả đều  
tương đồng với độ thấm tính từ quan hệ rỗng - thấm.  
0
0,1 0,3 0,5  
1
3
5
10  
30 Cao  
hơn  
Độ thấm (mD)  
(b)  
5. Kết quả xác định độ thấm bằng phương pháp  
phân tích PTA  
Hình 1. Độ thấm đo từ mẫu lõi của giếng HT-X (a); Độ thấm đo từ mẫu lõi của giếng HT-H (b)  
90  
80  
70  
5.1. Phương pháp phân tích PTA  
Ngoài giá trị độ thấm trung bình của vỉa, phương  
pháp phân tích PTA cung cấp thêm một số thông tin  
quan trọng như: phân bố của độ thấm xung quanh  
giếng khoan, hệ số nhiễm bẩn và sự thay đổi của hệ  
số này theo thời gian, diện tích và hình dạng của khu  
vực khai thác cũng như sự tồn tại của các đứt gãy trong  
khu vực này. Phương pháp phân tích PTA truyền thống  
chỉ tập trung phân tích 1 giai đoạn đóng giếng tiêu  
biểu và dùng các kết quả thu được từ giai đoạn đó làm  
thông số đại diện cho giếng. Tuy nhiên đối với các vỉa  
khí ngưng tụ như mỏ Hải Thạch thì phương pháp này  
không thể phân tách được độ thấm vỉa và ảnh hưởng  
của hiện tượng ngưng tụ condensate trong vỉa. Do đó,  
trong nghiên cứu này việc phân tích PTA được thực  
hiện trên toàn bộ lịch sử khai thác với nhiều giai đoạn  
đóng giếng để xác định được độ thấm thực sự của vỉa.  
Ảnh hưởng của hiện tượng ngưng tụ condensate trong  
vỉa được thể hiện ở sự thay đổi của hệ số nhiễm bẩn.  
Ngoài ra, để tăng độ tin cậy của kết quả phân tích, các  
thông số như hệ số nhiễm bẩn và độ chứa của giếng  
được xác định bằng các phân tích độc lập trước khi  
được sử dụng làm đầu vào cho PTA. Các tài liệu phụ  
60  
y = 0,9385x  
R² = 0,9992  
50  
40  
30  
20  
10  
0
0
20  
40  
60  
80  
100  
Độ thấm tuyệtđối (mD)  
Hình 2. Đồ thị so sánh độ thấm hữu dụng và độ thấm tuyệt đối  
Cát:  
log10(K) = 8,40 × log10(PHI) + 7,727  
R2 = 0,902  
Cát:  
log10(K) = 11,083 × log10(PHI) + 8,843  
R2 = 0,79  
Hình 3. Đồ thị biểu diễn độ thấm và độ rỗng từ mẫu lõi cho 2 loại thạch học cát và cát sét  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
36  
PETROVIETNAM  
(a)  
(b)  
(c)  
(d)  
Hình 4. Kết quả độ thấm giếng HT-C (a), giếng HT-H (b), giếng HT-X (c), giếng HT-I (d)  
đáy giếng, sự biến thiên của hệ số nhiễm bẩn sẽ  
cho biết thời gian hình thành cũng như mức độ  
nghiêm trọng của condensate bank.  
2000  
1500  
y = 5,595936x  
Trong trường hợp mô hình vỉa đồng nhất và  
không có đứt gãy không khớp với dữ liệu khai  
thác, các tài liệu phụ trợ như bản đồ địa chấn sẽ  
được sử dụng để tìm ra mô hình thích hợp. Một  
trong những mô hình này có thể là mô hình vỉa  
phức hợp đồng tâm (radial composite), không  
có đứt gãy. Nếu mô hình này khớp với dữ liệu  
khai thác thì giá trị độ thấm trung bình trong và  
ngoài cũng như bán kính vùng quanh giếng sẽ  
được xác định. Sau đó những giá trị này sẽ được  
giữ nguyên để xác định sự biến thiên của hệ số  
nhiễm bẩn.  
1000  
500  
0
0
50  
100  
150  
200  
250  
300  
350  
400  
Độ lưu động (mD/cP)  
Hình 5. Đồ thị liên hệ độ lưu động và độ thấm  
Trong trường hợp mô hình vỉa phức hợp  
đồng tâm, không có đứt gãy vẫn không thể khớp  
với dữ liệu khai thác, các mô hình đứt gãy khác  
nhau sẽ được thử nghiệm để tìm ra mô hình thích  
hợp nhất. Mô hình này cũng được kiểm chứng  
với các tài liệu phụ trợ như bản đồ địa chấn và tài  
liệu FMI/FMS.  
trợ như bản đồ địa chấn và tài liệu FMI/FMS cũng được sử dụng để  
kiểm chứng sự hợp lý của kết quả PTA [2]. Sơ đồ quy trình cho phân  
tích PTA được tóm tắt trong Hình 6.  
Bước đầu tiên của quy trình phân tích PTA là kiểm tra đồ thị lịch  
sử khai thác xem áp suất có sụt giảm không. Nếu áp suất giảm ít thì  
trữ lượng của vỉa là rất lớn so với thời gian khai thác. Do đó có thể  
thử nghiệm mô hình vỉa đồng nhất và không có đứt gãy. Nếu mô  
hình này khớp với dữ liệu khai thác thì sẽ thu được giá trị độ thấm  
trung bình của vỉa. Giá trị độ thấm trung bình của vỉa là không đổi  
cho tất cả các giai đoạn đóng giếng. Do đó độ biến thiên của hệ số  
nhiễm bẩn có thể được xác định thông qua việc khớp với lịch sử  
khai thác. Nếu có hiện tượng ngưng tụ condensate trong vùng cận  
Nếu bước kiểm tra đồ thị lịch sử khai thác chỉ  
ra áp suất giảm dần trong thời gian khai thác thì  
mô hình vỉa có giới hạn sẽ được sử dụng. Trong  
trường hợp này, có 2 sự lựa chọn về mô hình giới  
hạn là mô hình giới hạn hình tròn và mô hình giới  
hạn hình chữ nhật. Phân tích được bắt đầu từ mô  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
37  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Kiểm tra áp suất  
và sản lượng  
(lịch sử khai thác)  
Áp suất  
giảm không  
đáng kể  
ĐÚNG  
Áp dụng mô hình  
SAI  
Áp dụng mô hình  
vỉa đồng nhất  
+
vỉa đồng nhất  
+
không có đứt gãy  
Giới hạn hình tròn  
THÀNH  
CÔNG  
THÀNH  
CÔNG  
ĐÚNG  
SAI  
Kiểm tra bản đồ  
địa chấn  
SAI  
Độ thấm trung bình  
Sự biến thiên  
của hệ số nhiễm bẩn  
Áp dụng mô hình  
vỉa đồng nhất  
+
Giới hạn hình chữ  
nhật  
Áp dụng mô hình  
vỉa phức hợp đồng tâm  
+
ĐÚNG  
Không có đứt gãy  
Độ thấm trung bình  
Sự biến thiên của  
hệ số nhiễm bẩn  
Hình dạng và kích  
thước của vùng  
khai thác  
THÀNH  
CÔNG  
SAI  
ĐÚNG  
Áp dụng mô hình  
vỉa đồng nhất  
+
Độ thấm trung bình  
Sự biến thiên  
của hệ số nhiễm bẩn  
Những mô hình đứt gãy  
khác nhau  
Độ thấm  
trung bình  
Hình 6. Sơ đồ quy trình phân tích PTA  
Hình 7. Đồ thị lịch sử khai thác của giếng HT-C  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
38  
PETROVIETNAM  
hình giới hạn đơn giản hơn là giới  
hạn hình tròn, nếu không thành  
công thì chuyển sang mô hình  
còn lại.  
Phương pháp phân tích PTA  
đã được áp dụng cho 4 giếng tại  
vỉa Sand30. Tuy mỗi giếng đều có  
động thái khai thác khác nhau  
nhưng công việc phân tích PTA  
cho từng giếng đều tuân theo  
quy trình đã đưa ra ở trên.  
5.2. Kết quả cho giếng HT-C  
Có thể thấy được trên đồ thị  
lịch sử khai thác (Hình 7), trong  
khoảng thời gian 22 tháng, áp  
suất suy giảm không đáng kể. Do  
đó có thể thử nghiệm mô hình  
vỉa đồng nhất và không có đứt  
gãy.  
Hình 8. Kết quả khớp dữ liệu khai thác của giếng HT-C sử dụng mô hình vỉa đồng nhất và không có đứt gãy  
8
7
6
5
4
3
2
7,2  
7,1  
7
6,7  
6,5  
Độ thấm trung bình của vỉa  
được xác định sau khi mô hình đã  
khớp với dữ liệu khai thác và có  
giá trị bằng 0,22mD (Hình 8). Giá  
trị độ thấm trung bình này thấp  
hơn rất nhiều so với độ thấm tính  
từ độ rỗng và độ lưu động ở Hình  
4a.  
3,75  
1,5  
#2  
1,5  
5 tháng  
#4  
1
0
Sự biến thiên của hệ số  
nhiễm bẩn được thể hiện trong  
Hình 9. Kết quả cho thấy giếng  
HT-C bị ảnh hưởng bởi hiện  
tượng ngưng tụ condensate  
trong vỉa và 5 tháng là thời gian  
để hình thành condensate bank.  
#3  
#5  
#6  
#7  
#8  
#9  
Giai đoạn đóng giếng  
Hình 9. Đồ thị biểu diễn sự tăng dần của hệ số nhiễm bẩn của giếng HT-C theo thời gian  
5.3. Kết quả cho giếng HT-I  
Áp suất tại giếng HT-I sụt  
giảm không đáng kể trong  
khoảng 15 tháng (Hình 10),  
tương tự giếng HT-C. Tuy nhiên,  
mô hình vỉa đồng nhất và không  
có đứt gãy không thể khớp với  
dữ liệu khai thác (Hình 11).  
Do mô hình vỉa đồng nhất  
và không có đứt gãy không  
khớp với dữ liệu khai thác, các  
Hình 10. Đồ thị lịch sử khai thác của giếng HT-I  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
39  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
tài liệu phụ trợ như bản đồ địa chấn đã được  
sử dụng để tìm ra mô hình thích hợp. Từ trên  
bản đồ địa chấn (Hình 12) có thể thấy được  
một diện tích nhỏ xung quanh giếng có dấu  
hiệu tốt hơn về thạch học. Vì vậy, mô hình vỉa  
phức hợp đồng tâm và không có đứt gãy đã  
được thử nghiệm và khớp với dữ liệu khai thác  
khá tốt (Hình 13). Kết quả khớp dữ liệu khai  
thác cho thấy khu vực có thạch học tốt hơn  
có bán kính khoảng 400ft (122m) và độ thấm  
trung bình 0,53mD, cao hơn độ thấm tại khu  
vực còn lại của vỉa là 0,3mD. Sự biến thiên của  
hệ số nhiễm bẩn được thể hiện trong Hình 14.  
Kết quả cho thấy giếng HT-I bị ảnh hưởng bởi  
hiện tượng ngưng tụ condensate trong vỉa  
và thời gian để hình thành condensate bank  
cũng là 5 tháng.  
Hình 11. Mô hình vỉa đồng nhất, không có đứt gãy chưa khớp được lịch sử khai thác cho giếng HT-I  
5.4. Kết quả cho giếng HT-H  
Tại giếng HT-H, áp suất đáy giếng giảm  
đáng kể trong khoảng 29 tháng (Hình 15).  
Trong trường hợp này, có 2 lựa chọn về mô  
hình giới hạn là hình tròn và hình chữ nhật. Mô  
hình vỉa đồng nhất với giới hạn hình tròn đã  
được thử nghiệm trước để xác định giá trị của  
độ thấm. Tuy nhiên, mô hình này không khớp  
được lịch sử khai thác (Hình 16).  
Do đó, mô hình vỉa đồng nhất với giới hạn  
hình chữ nhật đã được áp dụng cho giếng HT-  
H. Giá trị của hệ số nhiễm bẩn được xác định  
trong khoảng 15 - 20. Kết quả khớp dữ liệu khai  
thác cho 2 biên của hệ số nhiễm bẩn được thể  
hiện trong Hình 17 và 18. Kết quả này cho thấy  
giá trị độ thấm trung bình nằm trong khoảng  
7 - 8,5mD. Kích thước và vị trí của khu vực khai  
thác được tổng hợp trong Bảng 1.  
Hình 12. Bản đồ địa chấn vỉa Sand30  
5.5. Kết quả cho giếng HT-X  
Khác với 3 giếng khai thác (HT-C, HT-I và HT-  
H), HT-X là giếng thăm dò và do đó có khoảng  
thời gian phân tích ngắn chỉ gồm 1 giai đoạn  
đóng giếng sau khi thử vỉa. Do thời gian thử vỉa  
ngắn nên không cần áp dụng các mô hình có  
giới hạn cho giếng HT-X.  
Do đường đạo hàm Bourdet có xu hướng  
tăng dần nên mô hình vỉa đồng nhất và không  
có đứt gãy là không phù hợp. Bước tiếp theo  
trong quy trình phân tích PTA là thử nghiệm  
Hình 13. Kết quả khớp dữ liệu khai thác của giếng HT-I sử dụng mô hình vỉa phức hợp đồng tâm  
và không có đứt gãy  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
40  
PETROVIETNAM  
mô hình vỉa phức hợp đồng tâm và  
không có đứt gãy (Hình 19). Kết quả cho  
thấy cần có khu vực nhỏ với bán kính  
24ft xung quanh giếng với độ thấm cao  
gấp 5,1 lần độ thấm trung bình của vỉa.  
Tuy nhiên, kết quả này không hợp lý về  
mặt địa chất.  
14  
12  
10  
8
5 tháng  
11,4  
11,3  
10,8  
#10  
10,6  
10,4  
6
4
4,6  
#3  
2
Có thể quan sát trên mẫu lõi của  
giếng HT-X được một số đới đứt gãy  
(Hình 20). Tài liệu FMI/FMS của giếng  
này cũng cho thấy có 2 hệ thống đứt  
gãy vuông góc với nhau trong khu vực  
của giếng HT-X. Do đó, mô hình vỉa  
đồng nhất đã được kết hợp với các mô  
hình đứt gãy khác nhau để tìm ra mô  
hình thích hợp nhất cho giếng HT-X.  
0
0
#2  
#4  
#6  
#8  
#9  
Giai đoạn đóng giếng  
Hình 14. Đồ thị biểu diễn sự biến thiên của hệ số nhiễm bẩn của giếng HT-I  
Kết quả khớp dữ liệu thử vỉa (Hình  
21) đã xác minh sự tồn tại của 2 đứt  
gãy vuông góc với nhau với khoảng  
cách khoảng 23ft (7m) từ giếng. Giá trị  
độ thấm trung bình từ phân tích PTA là  
0,49mD, thấp hơn rất nhiều so với độ  
thấm đo trực tiếp từ mẫu lõi của giếng  
HT-X là 9mD.  
Hình 15. Đồ thị lịch sử khai thác của giếng HT-H  
Hình 16. Mô hình vỉa đồng nhất với giới hạn hình tròn không khớp được lịch sử khai thác cho giếng HT-H  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
41  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
Hình 17. Kết quả khớp dữ liệu khai thác cho giếng HT-H sử dụng mô hình vỉa đồng nhất với giới hạn hình chữ nhật và hệ số nhiễm bẩn bằng 15  
Hình 18. Kết quả khớp dữ liệu khai thác cho giếng HT-H sử dụng mô hình vỉa đồng nhất với giới hạn hình chữ nhật và hệ số nhiễm bẩn bằng 20  
Bảng 1. Kích thước và vị trí của khu vực khai thác của giếng HT-H  
Vị trí  
Nam  
Đông  
Bắc  
Khoảng cách (m)  
305  
335  
2.400  
365  
Tây  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
42  
PETROVIETNAM  
Hình 19. Kết quả khớp dữ liệu thử vỉa bằng mô hình vỉa phức hợp đồng tâm không có đứt gãy cho giếng HT-X  
Hình 20. Đới đứt gãy trên mẫu lõi của giếng HT-X  
Hình 21. Kết quả khớp dữ liệu thử vỉa bằng mô hình vỉa đồng nhất với 2 đứt gãy vuông góc với nhau cho giếng HT-X  
6. Kết luận  
đều chỉ xác định độ thấm tại vị trí giếng, kết quả cho thấy  
vỉa Sand30 có độ thấm trung bình khá cao, từ 10mD tới  
Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (BIENDONG  
POC) đã sử dụng 4 phương pháp để xác định độ thấm cho  
các giếng tại vỉa turbidite (Sand30) mỏ Hải Thạch. Phương  
pháp xác định độ thấm từ dữ liệu đo áp suất trong khi  
khoan và từ dữ liệu độ rỗng có sử dụng thông số thu được  
từ mẫu lõi, do đó có giá trị khá tương đồng với phương  
pháp xác định độ thấm từ mẫu lõi. Cả 3 phương pháp này  
vài chục mD.  
Độ thấm xác định từ phân tích PTA thấp hơn nhiều so  
với 3 phương pháp trên, là độ thấm đại diện cho cả khu  
vực khai thác. Một trong những nguyên nhân dẫn đến  
sự bất đồng này là do sự khác biệt giữa áp suất và nhiệt  
độ trong phòng thí nghiệm so với điều kiện vỉa. Ngoài ra  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
43  
THĂM DÒ - KHAI THÁC DẦU KHÍ  
có một số nguyên nhân liên quan đến bản chất của vỉa  
turbidite Sand30, cụ thể là tính bất đồng nhất về thành  
phần thạch học, phân bố độ rỗng, độ thấm và độ dày của  
vỉa có thể ảnh hưởng lớn đến độ thấm trung bình. Hơn  
nữa, sự tồn tại của các hệ thống đứt gãy với độ thấm kém  
như đã quan sát thấy ở giếng HT-X sẽ có ảnh hưởng không  
nhỏ tới độ thấm hiệu dụng của cả vỉa.  
and formation damage. SPE Rocky Mountain Petroleum  
Technology Conference, Keystone, Colorado. 21 - 23 May,  
2001.  
2. I.M.Buhidma, W.C.Chu, P.K.Singh. The use of  
computers in pressure transient analysis. SPE Annual  
Technical Conference and Exhibition, Washington D.C. 4 -  
7 October, 1992.  
Tài liệu tham khảo  
3. Usman Ahmed, S.F.Crary, G.R Coates. Permeability  
estimation: The various sources and their interrelationships.  
Journal of Petroleum Technology. 1991; 43(5): p. 578 - 587.  
1. Dan Potocki. Resolving differences between core  
and welltest permeability in basal Colorado sandstones,  
Canada: The role of rock heterogeneity, relative permeability  
PERMEABILITY ESTIMATES USING DIFFERENT METHODS FOR TURBIDITE  
RESERVOIR IN HAI THACH FIELD, NAM CON SON BASIN  
Pham Hoang Duy, Hoang Ky Son, Tran Ngoc The Hung, Tran Vu Tung  
Bien Dong Petroleum Operating Company (BIENDONG POC)  
Email: duyph@biendongpoc.vn  
Summary  
Reservoir permeability along with its distribution is an extremely important parameter for reservoir management and development.  
Permeability can be determined by several methods but the results obtained could be very different, especially for poor production  
wells. This article presents the results from four permeability estimating methods applied to four wells penetrating a turbidite reservoir  
(Sand30) of Hai Thach field, Nam Con Son basin, including three producers (HT-C, HT-H and HT-I) and an exploration well (HT-X). Since the  
wells have different deliverability, the accurate determination of permeability and its distribution for Sand30 is an important requirement  
for the effective production of this turbidite reservoir. In addition, factors that could lead to the disagreement between permeability  
values derived from these methods are discussed in details by the authors.  
Key words: Mobility, porosity, permeability, core samples, PTA, Hai Thach field.  
DẦU KHÍ - SỐ 2/2019  
44  
pdf 10 trang yennguyen 16/04/2022 4420
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả đo độ thấm bằng nhiều phương pháp khác nhau cho vỉa Turbidite mỏ Hải Thạch, bể Nam Côn Sơn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfket_qua_do_do_tham_bang_nhieu_phuong_phap_khac_nhau_cho_via.pdf