Đề tài Vai trò của y tế học đường trong hỗ trợ trẻ vị thành niên có khó khăn về tâm lý
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN ĐIỀU DƯỠNG
********
ĐÀO THỊ THU LỆ
Mã sinh viên: B00377
VAI TRÒ CỦA Y TẾ HỌC ĐƯỜNG
TRONG HỖ TRỢ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
CÓ KHÓ KHĂN VỀ TÂM LÝ
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN ĐIỀU DƯỠNG HỆ VLVH
Hà Nội, tháng 10/2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN ĐIỀU DƯỠNG
********
ĐÀO THỊ THU LỆ
Mã sinh viên: B00377
VAI TRÒ CỦA Y TẾ HỌC ĐƯỜNG
TRONG HỖ TRỢ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
CÓ KHÓ KHĂN VỀ TÂM LÝ
ĐỀ TÀI TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN ĐIỀU DƯỠNG HỆ VLVH
Người hướng dẫn: ThS. Hà Thị Huyền
Hà Nội, tháng 10/2015
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, tôi đã nhận
được sự dạy bảo, giúp đỡ và động viên hết sức tận tình của các thầy cô, gia
đình và bạn bè.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn ThS.
Hà Thị Huyền – người thầy đã tận tình hướng dẫn, trực tiếp giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong Ban giám hiệu, Phòng
Đào tạo, Bộ môn Điều dưỡng - trường Đại học Thăng Long đã tạo điều
kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin cảm ơn lãnh đạo Trường Quốc tế Pháp, Lycée français Alexandre
Yersin de Hanoi đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập
và thực hiện chuyên đề.
Tôi vô cùng biết ơn những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã luôn ở bên tôi, động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Sinh viên
Đào Thị Thu Lệ
THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
NVYT
VTN
Nhân viên y tế
Vị thành niên
SKTT
Sức khỏe tâm thần
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................ 1
1.1. Các giai đoạn phát triển .............................................................................. 3
1.2.1. Sự phát triển về mặt sinh lý................................................................. 6
1.2.2. Sự phát triển về mặt xã hội.................................................................. 6
1.2.4. Sự phát triển nhu cầu........................................................................... 7
1.2.5. Sự phát triển nhân cách ....................................................................... 7
1.3. Các khó khăn về tâm lý thường gặp ........................................................... 7
1.4.1. Do bản thân trẻ .................................................................................. 12
1.4.2. Do gia đình ........................................................................................ 14
2.2.1. Nội dung chú ý khi giao tiếp ............................................................. 22
2.2.2. Đảm bảo tính bí mật .......................................................................... 23
2.3. Hỗ trợ khi trẻ có khó khăn về tâm lý ........................................................ 24
2.3.4. Tư vấn, giáo dục sức khỏe................................................................. 29
2.3.5. Lượng giá........................................................................................... 31
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 33
DANH MỤC HÌNH
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hành trình phát triển và hoàn thiện, con người sẽ trải qua nhiều
giai đoạn phát triển về cả thể chất và tâm lý. Với mỗi giai đoạn phát tiển sẽ
có những xáo trộn về tâm lý được xem là những khủng hoảng lứa tuổi
mang tính quyết định cho sự "lớn lên". Mổi người đều trải qua một hành
trình dài với những trải nghiệm thú vị, đương đầu với các biến cố, thách
thức, khó khăn mang tính đặc trưng của mỗi cá nhân qua từng giai đoạn
phát triển nhất định. Sự đương đầu này sẽ là những thách thức giúp cho
mỗi cá nhân trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn.Trong toàn bộ quá trình phát
triển tâm lý cá nhân thì giai đoạn tuổi vị thành niên là giai đoạn phát triển
tâm lý rất phức tạp. Một giai đoạn mang tính bùng nổ và có phần nổi loạn
khi mà mỗi cá nhân chịu sự tác động cộng hưởng do những thay đổi về mặt
sinh lý cùng các tác động từ môi trường xung quanh như: gia đình, nhà
trường, xã hội cùng các mối quan hệ từ các bạn đồng trang lứa. Sự thiếu
kém về kỹ năng ứng phó và thích nghi với môi trường cũng như sự hạn chế
trong các mối quan hệ xã hội mang tính hỗ trợ - nâng đỡ tâm lý làm cho cá
nhân trở nên khó khăn, vất vả hơn trong việc chấp nhận, ứng phó và vượt
qua các thách thức [7].
Ở các nước đang phát triển, việc hỗ trợ tâm lý, chăm sóc sức khỏe tâm
thần (SKTT) của học sinh được tiếp cận toàn diện, đa khía cạnh, thực hiện
nhờ vào sự liên kết các nguồn lực nhà trường, gia đình và cộng đồng để tối
ưu hóa sự can thiệp. Trong khi đó tại Việt Nam, công tác này ở trong
trường học còn rất rời rạc, non yếu. Ngay cả việc triển khai tư vấn tâm lý
trong các trường cũng đang gặp nhiều trục trặc, hầu như chưa được triển
khai, công nhận về mặt nhân sự và nhân viên y tế (NVYT) học đường
thường kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau. Alain Bentolila cho rằng:
những khó khăn tâm lý học đường của trẻ có thể liên quan đến đời sống
tình cảm của trẻ. Trẻ thường tìm đến phòng y tế để mong muốn được tạm
1
nghỉ trong một bầu không khí tin tưởng, kín đáo và được tôn trọng, nằm
ngoài lớp học và những bài thi, bài kiểm tra. Điều này có thể khiến trẻ cảm
thấy dễ chịu hơn nhiều [13]. Chính vì thế, những người làm công tác y tế
học đường không chỉ cần kiến thức chuyên môn đa dạng, tinh tế trong giao
tiếp với học sinh, phụ huynh và giáo viên mà còn phải tinh ý để phát hiện
ra những vấn đề thực sự mà trẻ đang gặp phải. Từ đó để có thể ứng xử cho
phù hợp, hỗ trợ và theo dõi từng vấn đề ở trẻ [2], [13]. Xuất phát từ thực tế
đó, chuyên đề này đề cập tới các nội dung chính sau:
1. Các khó khăn về tâm lý của lứa tuổi vị thành niên.
2. Vai trò của y tế học đường trong hỗ trợ trẻ vị thành niên có khó
khăn về tâm lý.
2
CHƯƠNG 1
CÁC KHÓ KHĂN VỀ TÂM LÝ CỦA LỨA TUỔI VỊ THÀNH NIÊN
Tuổi vị thành niên là giai đoạn tính từ lúc bắt đầu của tuổi dậy thì cho
tới khi chấm dứt sự phát triển của cơ thể, theo quy định được tính từ 10 tuổi
đến 19 tuổi [20]. Trong giai đoạn này, sự phát triển về thể chất không thích
ứng với sự phát triển về nhận thức, xúc cảm, tâm lý, hành vi,chính vì vậy tự
bên trong trẻ đã xảy ra sự mất cân bằng rất lớn mà nếu chúng ta không
hiểu, không thông cảm, không giúp đỡ kịp thời sẽ rất dễ xảy ra những hậu
quả đáng tiếc [11]. Cũng trong giai đoạn này, trẻ vị thành niên nảy sinh các
vấn đề liên quan tới sinh hoạt tình dục, thiết lập các chuẩn mực đạo đức
một cách độc lập, xây dựng mối quan hệ với bạn khác giới và có thể quyết
định sống dời cha mẹ.
Theo điều tra quốc gia về nguy cơ của nhóm tuổi trẻ ở Mỹ cho thấy,
các vấn đề sức khỏe liên quan tới hành vi trong nhóm tuổi này bao gồm: có
thai ngoài ý muốn, các bệnh lây truyền qua đường tình dục, những xung
đột hay bạo lực mang tính cá nhân, xuất hiện ý tưởng và hành vi tự tử, sử
dụng rượu, hút thuốc lá và chất gây nghiện.
Trẻ vị thành niên thường có xu hướng tự đánh giá mình cao hơn so
với hiện thực, bắt đầu bộc lộ khuynh hướng tự khẳng định mình thông qua
việc tự lựa chọn kiểu tóc, cách ăn mặc, tác phong, cử chỉ, sở thích
riêng…..và giữa trẻ với bố mẹ bắt đầu có những khoảng cách đầu tiên. Vì
vậy, thường xuyên quan tâm đến những người xung quanh trẻ, quan tâm
đến những hoạt động của trẻ là việc làm hết sức cần thiết với các em trong
độ tuổi này.
1.1. Các giai đoạn phát triển
Sự phát triển bình thường ở độ tuổi vị thành niên chia thành 3 giai
đoạn với những đặc điểm riêng biệt về phát triển thể chất, xã hội và nhận
thức. Hiểu biết về về những đặc điểm bình thường cho từng giai đoạn sẽ
3
giúp chúng ta đặt ra những câu hỏi thích hợp và tập trung vào những vấn đề
sức khỏe ưu tiên cho từng giai đoạn phát triển.
1.1.1. Giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên (từ 11 – 14 tuổi)
Đặc điểm phát triển thể chất : thay đổi về cơ thể rất nhanh đôi khi khiến
trẻ không hiểu là liệu việc thay đổi như vậy là có bình thường không ?
Những vấn đề này đôi khi khiến trẻ xuất hiện lo âu. Giai đoạn này nữ
thường quan tâm tới những vấn đề liên quan tới trọng lượng cơ thể, chế độ
ăn kiêng và nam thì quan tâm nhiều tới lòng tự trọng gắn với sự phát triển
về thể chất và sự gây ấn tượng với bạn bè cùng lứa nên trong giai đoạn này
nếu trẻ nào phát triển chậm hơn so với bạn bè cùng lớp thì sẽ dễ dẫn đến sự
tự ti. Trong giai đoạn này, những vấn đề cần phải hỏi khi phỏng vấn sẽ liên
quan tới sự xuất hiện kinh nguyệt, mộng tinh, sự phát triển của ngực…
nhưng khi đặt các câu hỏi này cần tế nhị và thận trọng.
Đặc điểm phát triển mang tính xã hội: trong giai đoạn này, vai trò của
các bạn cùng lứa tuổi tăng trong khi vai trò của gia đình giảm. Tình bạn lý
tưởng thường xuất hiện trong cùng giới. Do sự tò mò về phát triển giới tính
nên trong giai đoạn này dễ dẫn đến thử quan hệ tình dục, cũng có thể xuất
hiện tình dục đồng giới.
Đặc điểm phát triển về nhận thức : có sự chuyển đổi từ tư duy cụ thể đến
tư duy trừu tượng. Do kinh nghiệm và cảm xúc đóng vai trò quan trọng
trong việc đưa ra quyết định nên chỉ tăng cường nhận thức trong giai đoạn
này thường không đủ để phòng trẻ không quyết định hành động một cách
bốc đồng.
1.1.2. Giai đoạn giữa của tuổi vị thành niên (từ 15 – 17 tuổi)
Đặc điểm phát triển thể chất : trong giai đoạn này, sự phát triển về thể
chất vẫn tiếp tục duy trì và phát triển này thường hoàn thành vào cuối giai
đoạn này.
Đặc điểm phát triển mang tính xã hội : giai đoạn này được đặc trưng bởi
tăng tính độc lập và sự tự chủ. Chính do điều này nên bạn bè đồng lứa đóng
4
vai trò quan trọng hơn rất nhiều so với gia đình và do vậy đối với một số
gia đình sẽ xuất hiện sự xung đột giữa trẻ và cha mẹ. Giai đoạn tuổi này
cũng là giai đoạn mà nhiều trẻ thử hút thuốc, uống rượu, sử dụng chất gây
nghiện. Cũng do muốn thể hiện tính không bị đánh bại và bốc đồng nên
cũng trong giai đoạn này tỷ lệ tai nạn, tự tử và xung đột mang tính cá nhân
cao hơn nữa, tỷ lệ xuất hiện hành vi tự tử do những mâu thuẫn liên quan tới
thất bại trong tình yêu cũng cao. Mặc dù xuất hiện các nhóm « fan » có
cùng chung sở thích về âm nhạc, kiểu tóc, … nhưng trẻ vẫn muốn có những
dấu ấn mang tính chất cá nhân.
Đặc điểm phát triển về nhận thức : trẻ đưa ra những lý lẽ và những quan
điểm để bảo vệ mối quan hệ mang tính cá nhân và có sự đồng cảm của các
cá thể trong cùng nhóm. Cũng trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu quan tâm tới
việc đánh giá kế hoạch hướng nghiệp trong tương lai. Do vậy, những cá thể
nào học hành thua kém bạn bè sẽ dễ dẫn đến sự lo lắng, không có định
hướng và dễ sa ngã vào việc sử dụng rượu, chất gây nghiện. Vì vậy, nên
xây dựng những hướng dẫn mang tính thực hành để tăng cường và xây
dựng lòng tự trọng ở trẻ.
1.1.3. Giai đoạn cuối của tuổi vị thành niên ( từ 18 – 24 tuổi)
Đặc điểm phát triển thể chất : trong giai đoạn này, sự phát triển về cơ thể
dường như đã dừng lại nhưng trong suy nghĩ thì vẫn tiếp tục quan tâm tới
hình thể bên ngoài.
Đặc điểm phát triển mang tính xã hội : nếu sự phát triển diễn ra bình
thường cùng với sự hỗ trợ tích cực của gia đình, nhà trường và bạn bè thì
sự phát triển cá nhân sẽ tương đối hoàn thiện trong giai đoạn này. Trong
những năm cuối của giai đoạn này, thời gian chính sẽ được sử dụng để tìm
kiếm và xây dựng mối quan hệ vợ chồng.
Đặc điểm phát triển về nhận thức : hy vọng vào việc đào tạo nghề nghiệp
là đặc điểm mấu chốt trong giai đoạn này.
5
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi vị thành niên
1.2.1. Sự phát triển về mặt sinh lý
Ở giai đoạn này, nhịp độ tăng trưởng về chiều cao và trọng lượng rất
nhanh, có sự thay đổi rất lớn các tố chất về thể lực như sức mạnh, sức bền,
sự dẻo dai; tư duy, ngôn ngữ và những phẩm chất ý chí phát triển. Giai
đoạn này cũng bắt đầu từ những khủng hoảng của thời kỳ phát dục và tiến
tới dần ổn định hơn, cân bằng hơn. Quá trình dậy thì ở các em có thể không
giống nhau [1].
1.2.2. Sự phát triển về mặt xã hội
Ở gia đình: lứa tuổi này có nhiều quyền lợi và trách nhiệm của người
lớn, cha mẹ bắt đầu trao đổi với các em về một số vấn đề trong gia đình,
các em cảm thấy trách nhiệm của mình lớn hơn, đồng thời nếp sống của gia
đình, sự giáo dục của cha mẹ cũng ảnh hưởng tới bộ mặt tâm lý của lứa
tuổi này.
Ở nhà trường: lứa tuổi này ý thức được mình đang đứng trước
ngưỡng cửa của cuộc đời nên thái độ tự giác của các em tăng lên, vì vậy
hoạt động học tập mang ý nghĩa rõ ràng.
Ngoài xã hội: hoạt động giao tiếp của lứa tuổi này phát triển mạnh,
vai trò xã hội và hứng thú xã hội ngày càng được mở rộng về số lượng và
chất lượng [2], [19].
1.2.3. Sự phát triển của các quá trình nhận thức
Tri giác: tri giác có mục đích đã đạt đến mức độ cao nhất. Quan sát
có mục đích có hệ thống và toàn diện hơn. Tuy nhiên do kỹ năng, kỹ xảo
còn thiếu nên quan sát thường phân tán, vội vàng rút ra kết luận khi chưa
đủ dẫn chứng cần thiết.
Trí nhớ: ghi nhớ có lôgic, có chủ định phát triển mạnh và giữ vai trò
chủ đạo trong hoạt động nhận thức.
Sự chú ý: năng lực chú ý phát triển, tính lựa chọn của chú ý và tính
ổn định của chú ý ngày càng phát triển.
6
Tư duy: khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập
sáng tạo, tính phê phán của tư duy cũng được phát triển. Tuy nhiên hoạt
động tư duy của các em còn thiếu tính độc lập, chưa chú ý phát huy hết
năng lực độc lập suy nghĩ, vội vàng kết luận theo cảm tính.
Tưởng tượng: tưởng tượng sáng tạo và tái tạo đều phát triển nhưng
tưởng tượng sáng tạo dần dần chiếm ưu thế hơn [2], [19].
1.2.4. Sự phát triển nhu cầu
Nhu cầu giao tiếp: quan hệ với bạn bè chiếm vị trí lớn hơn hẳn so
với quan hệ với người lớn tuổi hơn hoặc ít tuổi hơn.
Nhu cầu xác định vị trí xã hội: đây là sự thể hiện nhu cầu tự khẳng
định, các em đòi hỏi xã hội công nhận các quyền lợi nghĩa vụ xã hội của
mình[2], [19].
1.2.5. Sự phát triển nhân cách
Sự phát triển của tự ý thức: là một đặc điểm nổi bật trong sự phát
triển nhân cách của lứa tuổi này, nó có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển
tâm lý.
Sự hình thành thế giới quan: lứa tuổi này quyết định sự hình thành
thế giới quan, hệ thống quan điểm về tự nhiên, về xã hội, về các nguyên tắc
và quy tắc ứng xử, định hướng giá trị của con người [2], [19].
1.2.6. Hình thành kế hoạch cuộc đời và sự lựa chọn nghề nghiệp
Ở lứa tuổi này đã có kế hoạch cuộc đời nhưng còn mơ hồ và thường
lẫn với ước mơ. Các em nêu ra được lý do chọn nghề và hiểu biết về yêu
cầu của nghề nhưng còn phiến diện chưa đầy đủ [19].
1.3. Các khó khăn về tâm lý thường gặp
Phụ huynh ngày nay thường chỉ chú trọng vào việc học của con,
chưa trang bị cho con những kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết tình huống,
lại bao bọc con một cách quá mức, không cho con cơ hội tự lập. Vì thế, các
em bối rối, lo lắng trước những tình huống mới mẻ, không biết cách giải
quyết, hoặc giải quyết theo suy nghĩ chưa phù hợp. Các triệu chứng rối
7
loạn của cơ thể là những thông điệp của các em về khó khăn mà mình gặp
phải.
1.3.1. Khó khăn trong quan hệ, ứng xử với bạn bè
Những biến đổi tâm lý đặc trưng, thường thấy của giai đoạn này là
trẻ nỗ lực tìm kiếm sự độc lập, muốn tách khỏi sự quản lý, kiểm soát của
gia đình, hay phê phán cha mẹ, nỗ lực tìm kiếm những quan hệ ngoài gia
đình, hướng tới những người bạn đồng lứa và do vậy trong một số gia đình
sẽ xuất hiện xung đột giữa trẻ và cha mẹ. Tuổi này có nhu cầu đặc biệt về
tình bạn, cảm nhận được những tinh tế trong tình bạn nhưng trẻ vẫn muốn
có những dấu ấn mang tính cá nhân. Tuy nhiên, lứa tuổi này nhiều xúc
cảm, dễ xúc động, khó kềm chế xúc cảm bộc phát, dễ bị tổn thương, trạng
thái tình cảm của các em thất thường, không ổn định, thoắt vui rồi lại thoắt
buồn, dễ bị kích động (dễ nổi nóng, dễ chán nản, tủi thân),những thất bại
nho nhỏ, những xích mích vụn vặt cũng có thể làm trẻ có cảm xúc và hành
vi tiêu cực [2]. Mặt khác, theo nhận xét của nhiều thầy cô giáo, trong guồng
quay nhanh của xã hội, cùng với việc học sinh năng động hơn thì tình bạn
của các em cũng trở nên năng động, mạnh mẽ, táo bạo, mang tính thực tế
nhiều hơn. Đây là những đặc điểm khiến cho tình bạn của vị thành niên đôi
khi mang màu sắc vụ lợi, bạo lực, thiếu chân thành và giảm sự bền chắc
[9]. Một tình bạn tốt cần có những đặc điểm sau:
- Có sự phù hợp về xu hướng
- Có sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau
- Có sự chân thành, tin cậy, có trách nhiệm cao với nhau
- Có sự cảm thông sâu sắc với nhau
- Có thể tồn tại nhiều mối quan hệ tình bạn cùng một lúc nhưng vẫn
giữ được sự thắm thiết.
1.3.2. Khó khăn trong quan hệ, ứng xử với bạn khác giới
Đây là lứa tuổi phát triển những xúc cảm yêu đương, dễ rung động
trước người bạn khác giới.Tình bạn khác giới có thể là khởi điểm cho quá
8
trình chuyển thành tình yêu sau này mặc dù nó chưa phải là tình yêu, bắt
đầu có nhu cầu về sự hấp dẫn tình dục, nhưng cũng dễ ngộ nhận, nhầm lẫn
giữa tình bạn với tình yêu. Tuổi VTN với những mối quan hệ khác giới đầu
tiên có thể chịu ảnh hưởng của những tác động tiêu cực, ví dụ như bị thất
bại ở những quan hệ đầu đời có thể làm cho lòng tự tin bị suy giảm; bị ảnh
hưởng xấu của bạn bè, làm biến đổi vai trò giới đã hình thành từ trong quá
trình giáo dục của gia đình, do sự tò mò về phát triển giới tính nên giai
đoạn này có thể xảy ra quan hệ tình dục… [2], [19]. Mặc dùvậy, tình bạn
khác giới vẫn được xem là có tác dụng tích cực như:
-
-
-
-
-
Tăng cường lòng tự tin
Nâng cao kỹ năng giao tiếp xã hội
Khẳng định bản sắc và vai trò giới
Phát triển những kỹ năng để hòa hợp
Hiểu biết những đặc tính tâm lý và những nhu cầu riêng của bạn.
1.3.3. Khó khăn trong việc tham gia sinh hoạt tập thể và tu dưỡng đạo
đức
Một số nghiên cứu về các khó khăn tâm lý của vị thành niên tại Hà
Nội cho thấy nguyên nhân chủ yếu khiến học sinh cảm thấy khó khăn là do
trong tập thể lớp các em chưa hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau, chưa có sự
tương xứng giữa phạm vi kết bạn và nhu cầu kết bạn mạnh mẽ của các em.
Chính điều này dẫn đến việc nhiều em khó hòa đồng vào các hoạt động tập
thể và các thành viên trong lớp không giúp đỡ được nhau trong học tập,
trong cuộc sống [9], [10]. Những trẻ thiếu sự gắn kết với tập thể lớp hoặc
sẽ chọn kết bạn không cùng lớp hoặc bị bỏ rơi mà sa vào nghiện chơi
game, nghiện chất… Nghiên cứu trên thử đưa ra can thiệp là tổ chức các
hoạt động cùng nhau, các sinh hoạt tập thể theo chủ đề (thảo luận phương
pháp học, hoạt động văn nghệ - thể thao chung, tổ chức kỷ niệm ngày
20/11, 8/3, 26/3…, chúc mừng sinh nhật cho các bạn trong lớp, giúp bạn có
9
hoàn cảnh khó khăn…) và thấy kết quả thay đổi rất rõ rệt: tỷ lệ học sinh
chọn bạn cùng lớp tăng lên, các thành viên hướng đến nhau nhiều hơn.
Điều này cho thấy, nếu được hoạt động cùng nhau, được thu hút vào các
sinh hoạt tập thể đòi hỏi sự hợp tác cùng nhau, các em sẽ hiểu nhau và gắn
bó với nhau hơn. Măt khác, nhờ hoạt động nhóm, các em có điều kiện bày
tỏ, chia sẻ suy nghĩ, quan điểm riêng, biết lắng nghe suy nghĩ của các bạn
khác, tạo nên sự đồng cảm và cùng giúp nhau hoàn thiện bản thân, xây
dựng tập thể đoàn kết [9].
1.3.4. Khó khăn trong quan hệ, ứng xử với thầy cô giáo
Nếu như ở tuổi thơ các em luôn xem bố mẹ, thầy cô giáo là hình mẫu
lý tưởng của mình thì trong lứa tuổi vị thành niên trẻ bắt đầu thay đổi trong
cách nhìn nhận, mặt khác do ít trải nghiệm, kiến thức xã hội chưa phong
phú nên sự đánh giá người khác của các em có thểmang tính cực đoan-
cứng nhắc. Những thầy cô được các em đánh giá cao thì sẽ được các em tin
tưởng, yêu quí, thích hoàn thành nhiệm vụ người đó giao phó và tỏ rõ thái
độ ngược lại với những người mà các em phát hiện ở họ có những lời nói
hành động mà các em cho là không đúng, không tốt. Tuy nhiên, theo các
em, những vấn đề nảy sinh trong cách ứng xử với thầy cô giáo thường ít
gặp [11].
1.3.5. Băn khoăn, lo lắng về sự phát triển cơ thể và hình thức của mình
Ở giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên, thay đổi về cơ thể rất nhanh,
đôi khi khiến trẻ không hiểu là liệu việc thay đổi như vậy có bình thường
hay không? Đặc điểm phát triển rõ nhất của vị thành niên là dấu hiệu dậy
thì. Giai đoạn này nữ thường quan tâm đến trọng lượng cơ thể, chế độ ăn.
Trẻ nam thì quan tâm đến lòng tự trọng, hành vi thể hiện sự can đảm vì nó
gắn liền với sự phát triển thể chất, do đó nếu trẻ nào phát triển chậm hơn
các bạn thì dễ dẫn tới sự tự ti [2].
10
1.3.6. Khó khăn trong quan hệ, ứng xử với cha mẹ
Mâu thuẫn liên quan đến học hành, chọn bạn, chọn nghề: Con cái có
ý riêng muốn tự quyết định, còn cha mẹ lại có những nhận định, quyết định
khác, hai bên chưa thuyết phục được nhau.
Những va chạm trong cách đối xử hàng ngày: Con cái có thiếu xót
trong cách đối xử với cha mẹ, ông bà, anh em trong nhà. Hoặc cha mẹ độc
đoán, đối xử không công bằng giữa các con… Cha mẹ tùy ý quyết định
việc có liên quan đến con cái, không bàn bạc, không lắng nghe ý kiến hợp
lý của con. Nhiều va chạm xảy ra do lời nói nặng nề, cử chỉ, thái độ thô bạo
của cha mẹ, hoặc vô lễ, hỗn láo của con cái, mặc dù chuyện xảy ra chẳng
có gì quan trọng, làm cho không khí trong gia đình trở nên căng thẳng.
Những va chạm do việc làm, hành động của con cái, làm đảo lộn thói
quen, nếp sống của gia đình, khiến cha mẹ từ khó chịu đến mắng mỏ, trừng
phạt. Ví dụ sống mất trật tự, bừa bãi, thói xấu, tham lam, hay ganh tị… Có
những trường hợp cũng do cá tính khác nhau của cha mẹ và con cái. Ví dụ
người nói nhiều, người nói ít, tác phong nhanh nhẹn mâu thuẫn với tác
phong chậm chạp, hoặc do sở thích khác nhau trong ăn uống, vui chơi, giải
trí…
1.3.7. Băn khoăn, lo lắng từ sự đánh giá của người khác về mình
Trẻ vị thành niên có sự tự ý thức phát triển mạnh nên thường nhạy
cảm với những nhận xét, đánh giá của người khác về bản thân. Chẳng hạn
như nhận xét của thầy cô giáo về kết quả học tập và rèn luyện, nhận xét của
bạn bè về các sở thích cá nhân, về hoàn cảnh gia đình… Ðiều xảy ra đối
với trẻ vị thành niên là trẻ không phân biệt được phải trái, ngay cả khi nghe
điều người khác nói xấu, trẻ cũng cho đó là đúng hoặc ngược lại. Lời nhận
xét đó sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ về sau của trẻ đối với xã hội
[19].
11
1.3.8. Khó khăn, vướng mắc trong học tập
Bước vào thời kỳ này, các em phải tiếp nhận một cách thức dạy và
học khác căn bản so với trước. Cùng một lúc các em chịu sự giảng dạy của
nhiều thầy cô khác nhau về trình độ, đặc điểm nhân cách, hành vi, cách
giao tiếp… Thêm vào đó, số môn học, số giờ học tăng lên nhiều tạo thành
áp lực cho trẻ, hình thành nên môn học “hay” và “không hay”. Những khó
khăn, vướng mắc trong học tập mà trẻ thường gặp là nội dung học quá tải,
phương pháp học tập mới lạ, sự thay đổi thường xuyên của việc thi cử và
thời gian học thêm quá nhiều [11].
1.3.9. Khó khăn nảy sinh khi suy nghĩ, ước mơ về tương lai của mình
Ở giai đoạn đầu của tuổi VTN, hầu như trẻ chỉ quan tâm đến hiện tại
hoặc tương lai gần nên các khó khăn kớn chưa xuất hiện. Đến giai đoạn
giữa trở đi, trẻ bắt đầu hướng đến hứng thú về nghề nghiệp và phát triển sự
sáng tạo và dần tiến đến định hướng cho tương lai, suy nghĩ về vai trò của
mình trong cuộc sống. Quá trình này chịu sự tác động rất lớn từ các bậc cha
mẹ. Cha mẹ thường đặt kỳ vọng quá lớn vào con cái. Ai cũng muốn cho
con mình học giỏi, đỗ đạt cao và cuối cùng là có một công việc tốt nhưng
đôi khi kết quả ấy không phải là mơ ước của trẻ. Điều này khiến trẻ mâu
thuẫn trong việc chọn lựa giữa đường đi theo mơ ước của cá nhân và con
đường mà cha mẹ quyết định. Hoặc đôi khi dù cha mẹ không can thiệp
nhiều vào sở thích, mơ ước của trẻ nhưng lại thiếu sự định hướng, hướng
dẫn từ gia đình và nhà trường khiến trẻ thiếu thông tin và mất phương
hướng [10], [11].
1.4. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ dẫn đến các khó khăn về tâm lý ở
trẻ vị thành niên
1.4.1. Do bản thân trẻ
Do sự thay đổi đột ngột, nhanh chóng về tâm sinh lý, chính vì vậy từ
bên trong trẻ đã xảy ra sự mất cân bằng rất lớn, trẻ thường có xu hướng tự
đánh giá mình cao hơn so với hiện thực, bộc lộ khuynh hướng tự khẳng
12
định mình nên có tác phong, cử chỉ, sở thích riêng… và do đó dễ bị tác
động từ những người xung quanh.
Vì lực học kém hơn nên trẻ khó theo kịp bài so với các bạn dù có cố
gắng. Từ đó trẻ có tâm lý chán nản, xin vào phòng y tế để trốn bài kiểm tra,
để được nghỉ ngơi, hoặc được về nhà.
Bản thân trẻ có khuynh hướng giới tính khác biệt (đồng tính): Đây là
một vấn đề vẫn còn rất nhạy cảm và gây nhiều tranh cãi, mặc dù đã được
biết đến từ lâu. Rất nhiều nhân viên y tế cũng như nhà tư vấn thực sự cảm
thấy lúng túng và không đủ tự tin khi giao tiếp cũng như khi hỗ trợ cho
nhóm bệnh nhân này.Nhiều giả thiết cho rằng, môi trường gia đình, sự
chăm sóc, cách giáo dục của bố mẹ và sự tương tác của cuộc sống xung
quanh là một yếu tố ảnh hưởng khá rõ đến biểu hiện của hiện tượng này.
Trong nghiên cứu “trẻ em đường phố đồng tính, song tính, chuyển giới tại
thành phố Hồ Chí Minh”, hầu hết các em đều cho biết mình bắt đầu có cảm
xúc với người cùng giới khi bước vào giai đoạn vị thành niên. Đối với
nhiều đồng tính nam tham gia nghiên cứu này, phải đến giai đoạn dậy thì
các em mới nhận ra mình có cảm xúc mạnh với người cùng giới, mặc dù
một số từng có bạn gái. Khi giới tính thật của trẻ hé lộ, đa số các bậc phụ
huynh phản ứng rất gay gắt, đôi khi là bạo lực. Trẻ có thể trở thành trung
tâm của sự chỉ trích, bị phân biệt đối xử, bị trừng phạt, can thiệp đến thân
thể. Cũng theo nghiên cứu này, tất cả các em tham gia trả lời phỏng vấn
đều cho biết từng chịu thái độ tò mò, kỳ thị và định kiến từ hàng xóm, và
những người xung quanh. Không chỉ là nạn nhân chịu phân biệt đối xử
ngoài xã hội, nhiều trẻ đồng tính, song tính và chuyển giới còn bị quấy rối
và phân biệt đối xử trong trường học. Trẻ có thể bị trêu chọc khiến trẻ thấy
xấu hổ, bị ám ảnh và bị ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của trẻ. Ngoài ra các
em cũng có thể bị phân biệt đối xử từ thầy, cô giáo. Điều này khiến trẻ
chán nản, bỏ học, bỏ nhà, đi theo cộng đồng của những người giống mình.
Cuộc sống đường phố hay trong công viên đầy rẫy hiểm họa: ăn uống thất
13
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Vai trò của y tế học đường trong hỗ trợ trẻ vị thành niên có khó khăn về tâm lý", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- de_tai_vai_tro_cua_y_te_hoc_duong_trong_ho_tro_tre_vi_thanh.pdf