Cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong đánh giá hẹp xơ vữa vôi hoá động mạch cảnh ngoài sọ
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
CẮT LỚP VI TÍNH HAI MỨC NĂNG LƯỢNG TRONG ĐÁNH GIÁ
HẸP XƠ VỮA VÔI HOÁ ĐỘNG MẠCH CẢNH NGOÀI SỌ
Phạm Hồng Đức1,2,, Nguyễn Hữu Thuyết1, Đinh Trung Thành2
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Bệnh viện đa khoa Xanh Pôn Hà Nội
Sử dụng cắt lớp vi tính (CLVT) hai mức năng lượng (Dual energy Computed Tomographic: DECT) với kỹ
thuật tạo ảnh xoá xơ vữa vôi hoá để đánh giá mức độ hẹp động mạch cảnh trong (Internal Carotide Artery:
ICA) có so sánh với ảnh cắt lớp vi tính mạch máu thường qui (Computed Tomographic Angiography: CTA) trên
27 bệnh nhân với 43 động mạch cảnh trong bị hẹp. Mức độ hẹp được đánh giá theo NASCET trên cả hai kỹ
thuật CTA thường qui và DECT có loại bỏ vôi hoá. Kết quả cho thấy có sự phù hợp với mức độ rất tốt giữa
hai phương thức chẩn đoán này trong đánh giá mức độ hẹp ICA với hệ số Kappa = 0,812. Mức độ hẹp trung
bình ICA đo trên hình ảnh CTA thông thường và DECT lần lượt là 63,3 ± 25,0% và 59,5 ± 24,4%, sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Như vậy, DECT loại bỏ mảng xơ vữa vôi hoá đã tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đánh giá mức độ hẹp trong mọi trường hợp, như vậy nó phân loại hẹp ICA tốt hơn CTA thông thường.
Từ khóa: hẹp động mạch cảnh, mảng xơ vữa, CLVT hai mức năng lượng.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các bệnh lý liên quan đến tim mạch,
đột quỵ chiếm tỷ lệ đáng kể và thiếu máu não
là thể bệnh lý thường gặp nhất trong nhóm đột
quỵ. Bệnh xơ vữa động mạch cảnh trong ngoài
sọ là một nguyên nhân thường gặp gây ra đột
quỵ thiếu máu não, chiếm khoảng 7-18%.1
Tuy nhiên, DSA mặc dù là tiêu chuẩn vàng,
nhưng có hạn chế là phương thức xâm
phạm nên không dùng thường qui tầm soát
tổn thương hẹp mạch cảnh.3 Do vậy, CTA và
MRA là những phương thức ngày càng được
sử dụng rộng rãi, không những để đánh giá
hẹp động mạch cảnh với độ chính xác cao
mà còn cho những thông tin về mạch nội sọ
và tình trạng quai động mạch chủ để lập kế
hoạch can thiệp.2 CTA có lợi thế hơn MRA
trong đánh giá đặc điểm vôi hoá của mảng xơ
vữa.4 Tuy nhiên, giá trị chẩn đoán của CTA
thông thường trong đánh giá mức độ hẹp có
thể bị hạn chế khi xơ vữa vôi hoá do khó phân
biệt lòng mạch có thuốc cản quang có cùng
tỷ trọng.5 Chụp cắt lớp vi tính hai mức năng
lượng (DECT) là một kỹ thuật mới có khả
năng khắc phục hạn chế này. Hệ thống dùng
hai nguồn phát tia X với kilovolt khác nhau.
Nguyên tử khối của iốt và canxi khác nhau
nên có sự suy giảm tia X khác nhau ở các
mức năng lượng khác nhau, do đó kỹ thuật
này có khả năng phân biệt giữa iốt cản quang
Các phương thức chẩn đoán hình ảnh được
sử dụng để đánh giá hẹp động mạch cảnh ngoài
sọ bao gồm: Siêu âm Doppler mạch máu, cắt
lớp vi tính mạch máu (Computed Tomographic
Angiography: CTA), cộng hưởng từ mạch máu
(Magnetic Resonance Angiography: MRA),
chụp mạch số hoá xoá nền (Digital Subtraction
Angiography: DSA). Siêu âm Doppler là
phương pháp rẻ tiền, dễ áp dụng và thường
được sử dụng như một xét nghiệm sàng lọc
để quyết định có thực hiện DSA hay không.2
Tác giả liên hệ: Phạm Hồng Đức
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: phamhongduc@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 05/03/2021
Ngày được chấp nhận: 24/05/2021
TCNCYH 142 (6) - 2021
1
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
và cấu trúc vôi hoá, và cho phép loại bỏ mảng
xơ vữa vôi hoá giúp đánh giá mức độ hẹp
lòng mạch chính xác hơn.4,6,7 Mục đích của
nghiên cứu này là góp phần khẳng định vai
trò của DECT so với CTA trong xác định mức
độ hẹp động mạch cảnh do xơ vữa.
dụng là hình tái tạo nhiều mặt phẳng (Multi-
Planar Reformation: MPR) với độ dày 1,5 mm,
và tái tạo hình chiếu cường độ tối đa (Maximum
Intensity Projection: MIP). Hình ảnh thu được
đồng thời cho hai bộ ảnh tương ứng với hai
nguồn năng lượng khác nhau (80KV và 150KV)
bằng phầm mềm 3D (Syngo, Siemens Medical
Solutions, Đức).
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu gồm 27 bệnh nhân trên siêu âm
Doppler có hẹp động mạch cảnh ngoài sọ một
hoặc hai bên, có hoặc không có biểu hiện triệu
chứng thần kinh liên quan đến mạch não, được
chỉ định chụp DECT để đánh giá tình trạng vôi
hoá và mức độ hẹp động mạch cảnh ngoài
sọ tại Bệnh viện Xanh Pôn, trong thời gian từ
06/2018 đến 06/2020.
2. Phương pháp
Cách thức chụp và tạo ảnh DECT
Hình 1. MD (Material decomposition) là thuật
toán tạo ra một số hình ảnh DE (Dual energy)
Tất cả bệnh nhân đều được chụp cắt
lớp vi tính 384 dãy hai nguồn năng lượng
(SOMATOM Force, Siemens, Đức). Qui trình
chụp gồm sử dụng hai bóng: bóng A (150 kV,
250 mA) và bóng B (80 kV, 410 mA) với độ
dày 2 x 192 x 0,6 mm, bước nhảy pitch 0,75
và thời gian quay 0,25 giây. Để đánh giá thời
gian bơm thuốc cản quang tối ưu trước khi
chụp, thử test được thực hiện với bơm 10 ml
cản quang (Xenetix 350mgIod/ml, Guerbet,
Pháp) với tốc độ 5 ml/s, tiếp theo là 40 ml
nước muối sinh lý, qua đường truyền tĩnh
mạch bằng kim 18-gauge ở nếp khuỷu tay.
Sau khi xác định thời gian đạt đỉnh thuốc cản
quang ở quai động mạch chủ, tiến hành chụp
hệ mạch cảnh với bơm 40 ml cản quang và
tốc độ như thử test. Quá trình quét được thực
hiện theo hướng từ quai động mạch chủ đến
giữa hộp sọ.
Thuật toán này có thể phân biệt một vật
liệu với các vật liệu khác như xương (Bone)
và iốt (Iodine) bằng cách sử dụng một đường
phân cách (Separation line). Thuật ngữ này
đã được sử dụng cho ứng dụng loại bỏ xương
trực tiếp DE.8
Đầu tiên, tạo ảnh CTA thường qui bằng
kết hợp hai bộ ảnh quét năng lượng thấp với
năng lượng cao (giống như CTA năng lượng
đơn) với hệ số trọng là 0,5. Sau đó, dữ liệu thô
của hai ảnh quét có năng lượng khác nhau này
được chuyển đến trạm xử lý để tạo ảnh bằng
kỹ thuật Head Bone Removal, giúp loại bỏ cấu
trúc có canxi (xương, vôi hoá). Kỹ thuật này
sử dụng thuật toán loại trừ vật liệu (Material
decomposition algorithm: MD algorithm). Đây
là một thuật toán cơ bản trên DECT có thể
phân biệt giữa hai cấu trúc khác nhau tương
ứng với các vật liệu khác nhau, cụ thể là phân
biệt giữa xương hay mảng vôi hoá với iốt cản
Hình ảnh được dựng lại với độ dày lát cắt
0,625 mm, trên cửa sổ rộng và trung tâm (WW:
600, WL:150). Hình ảnh hiển thị ICA được sử
2
TCNCYH 142 (6) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
quang trong lòng mạch (Hình 1). Ứng dụng loại
bỏ xương trực tiếp của CT hai mức năng lượng
là một phương pháp đáng tin cậy và nhanh
hơn so với phương pháp xoá nền đơn giản của
chồng ảnh không và có cản quang trên CT đơn
năng lượng [Hình 2].8
Hai bộ dữ liệu hình ảnh CTA và DECT xóa
vôi hoá của từng bệnh nhân được tách riêng,
theo thứ tự ngẫu nhiên. Mỗi bộ dữ liệu đều
được đánh giá theo tiêu chuẩn NASCET độc
lập bởi hai bác sỹ điện quang có kinh nghiệm
(P.H.Đức và Đ.T.Thành). Sau đó, cả hai người
đọc cùng nhau xem xét và quyết định mức độ
hẹp theo phương pháp đồng thuận.
Phân tích hình ảnh
Tính chất vôi hoá: chia thành 3 loại theo
nghiên cứu của Das và cộng sự,9 dựa vào tỷ
trọng của mảng xơ vữa: mềm (< 50HU), vôi
hoá (> 120HU), và hỗn hợp (có cả hai thành
phần trên). Phân tích mảng xơ vữa được thực
hiện trên các lớp cắt ngang, ảnh MPR, ảnh MIP
tại quanh đoạn hẹp nhất của ICA. Mức độ hẹp
động mạch cảnh được đo trên hình ảnh trước
(trên CTA) và sau khi xoá xơ vữa vôi hoá (trên
DECT) theo phương pháp NASCET, dựa vào
chỉ số đường kính lòng mạch hẹp (A) và đường
kính lòng mạch bình thường sau hẹp (B), với
công thức là: (B-A)/B 100%.
A
B
B
A
Hình 2. Ảnh cắt ngang qua đoạn xuất phát
của ICA trái, trên CTA thông thường có xoá
nền (A) và trên ảnh DE có xoá vôi hoá của
mảng xơ vữa (B)
Hình 3. Ảnh MIP đoạn hẹp ICA, trước (A) và
sau khi xoá mảng xơ vữa vôi hoá (B), cho
thấy hẹp vị trí gốc động mạch cảnh trong.
Mảng xơ vữa gây khó đánh giá và có thể
đánh giá quá mức mức độ hẹp động mạch
cảnh. Theo NASCET: hẹp mức độ
Cho thấy CTA đánh giá quá mức mức độ
hẹp của ICA do mảng xơ vữa vôi hoá gây so
với ảnh DE.
50-70% (A), hẹp 70-99% (B)
TCNCYH 142 (6) - 2021
3
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Phân tích thống kê
kiểm định Wilcoxon ghép cặp. Tất cả các số
liệu thống kê được phân tích bằng phần mềm
SPSS (release 23.0; IBM, Chicago, IL).
Các giá trị của mức độ hẹp được ghi lại
bằng các phương tiện số học và độ lệch chuẩn,
hệ số tương quan Pearson r được thực hiện
giữa kết quả CTA và DE xóa vôi hoá, thống kê
Cohen’s κ-test cũng được sử dụng cho mức
độ phù hợp giữa hai phương thức hình ảnh
này (kappa < 0,2 = không đạt, 0,61 - 0,8 = tốt,
0,81 - 1 = rất tốt). So sánh trung bình của hai
nhóm ghép cặp có phân phối chuẩn được thực
hiện bằng kiểm định Paired-Sample T-Test,
với nhóm nhỏ phân bố không chuẩn dùng
4. Đạo đức nghiên cứu
Đây là một phần của đề tài tốt nghiệp bác
sỹ nội trú của tác giả và đã được thông qua hội
đồng đề cương của trường Đại học Y Hà nội.
Tất cả các qui trình kỹ thuật được thực hiện theo
Dữ liệu thông tin là nghiên cứu mô tả không
can thiệp, nên không ảnh hưởng đến quyền và
nghĩa vụ của bệnh nhân tham gia nghiên cứu.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu gồm có 27 bệnh nhân (BN), 23 nam và 4 nữ (tỷ lệ 5,75:1). Tuổi trung bình là 69 ±10
tuổi (45 - 85); trong đó có 21 BN (92,6%) có triệu chứng lâm sàng, gồm nhồi máu não nhẹ (44,4%)
và thiếu máu não thoảng qua (48,1%). Các BN đều có một hay nhiều yếu tố nguy cơ kèm theo như
tăng huyết áp, đái đường, rối loạn lipid máu; trong đó tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất (85,2%).
Phần trăm hẹp DSCT
Biểu đồ 1. Phân tán điểm số NASCET của DECT với CTA thể hiện mối quan hệ tuyến tính
thuận (r = 0,996; p < 0,001)
Tất cả các BN được đánh giá bằng DECT với chất lượng hình ảnh rất tốt (100%). Trong 27 BN
có 16 trường hợp là mảng xơ vữa gây hẹp cả hai bên và đều ở đoạn phình cảnh, như vậy tổng có
43 động mạch cảnh được đánh giá, vị trí hẹp hoặc ở phình cảnh hoặc ở đoạn gần của ICA. Mảng
xơ vữa loại hỗn hợp có chiếm 74,4%, xơ vữa vôi hoá chiếm 18,6%, xơ vữa mềm ít gặp nhất (7,0%).
Có mối tương quan tuyến tính giữa mức độ hẹp theo phương pháp NASCET trên CTA và DECT sự
tương quan này chặt chẽ với r = 0,996; p < 0,001 (Biểu đồ 1). Có sự phù hợp với mức độ rất tốt giữa
hai phương thức chẩn đoán này trong đánh giá mức độ hẹp động mạch cảnh trong với hệ số Kappa
= 0,812. Đáng chú ý là với mức hẹp từ 70 - 99% là mức có chỉ định can thiệp điều trị, CTA đánh
giá quá mức độ hẹp này, 17 trường hợp (37,5%) hẹp so với 13 trường hợp (30,2%) hẹp trên DECT
(Bảng 1). Mức độ hẹp trung bình động mạch cảnh đo trên hình ảnh CTA và DECT lần lượt là 63,3 ±
25,0% và 59,5 ± 24,4%. Tỷ lệ mức độ hẹp giữa hai nhóm này là khác biệt có ý nghĩa thống kê với p
< 0,001, nhất là ở mảng xơ vữa có vôi hoá đơn thuần và hỗn hợp (Bảng 2).
4
TCNCYH 142 (6) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Độ phù hợp giữa hình ảnh CTA thường qui và DECT
trong phân loại mức độ hẹp động mạch cảnh
DECT
1 - 29%
30 - 49%
50 - 69%
70 - 99%
100%
Tổng (%)
CTA
1 - 29%
6
0
0
0
0
06 (14,0)
06 (14,0)
12 (27,9)
17 (39,5)
02 (04,6)
43 (100)
30 - 49%
50 - 69%
70 - 99%
100%
0
6
0
0
0
0
2
10
0
0
0
0
0
0
4
0
13
0
0
2
Tổng (%)
06 (14,0)
08 (18,6)
14 (32,6)
13 (30,2)
02 (04,6)
Kappa = 0,812
Bảng 2. So sánh mức độ hẹp trung bình của động mạch cảnh trên
ảnh CTA và DECT theo loại xơ vữa
Kỹ thuật
CTA
DECT
p
Loại xơ vữa
Xơ vữa mềm (n = 3)
Xơ vữa hỗn hợp (n = 32)
Xơ vữa vôi hoá (n = 8)
Tổng (n = 43)
54,7 ± 02,5
70,3 ± 24,5
38,8 ± 12,2
63,3 ± 25,0
53,7 ± 02,3
66,2 ± 24,1
36,3 ± 12,3
59,5 ± 24,4
0,200
0,000
0,011
0,000
IV. BÀN LUẬN
Chụp DECT được đặc trưng bởi sự thực
hiện của 2 bộ dữ liệu ảnh ở 2 phổ tia X khác
nhau. Có 2 cơ chế chính gây ra sự khác biệt
về suy giảm tia X phụ thuộc vào vật liệu, đó là
tán xạ compton và hiệu ứng quang điện. Loại
thứ hai phụ thuộc nhiều vào mật độ nguyên tử
của vật liệu được khảo sát, trong khi loại thứ
nhất phụ thuộc nhiều hơn vào kích thước mô
được chiếu xạ, chất lượng chùm tia và năng
lượng chùm tia. Dựa trên những đặc điểm này,
DECT cho phép phân biệt giữa các vật liệu
khác nhau có số nguyên tử cao, chẳng hạn
như iốt và canxi. Thuật toán ở đây áp dụng là
loại bỏ vật liệu canxi và để lại một hỗn hợp vật
liệu mô mềm và iốt. Điều này cho phép loại bỏ
hoàn toàn vôi hoá và tránh lượng vôi hoá còn
lại chồng lấp trong hình ảnh iốt của CTA. Một số
nghiên cứu cho đến nay đều cho thấy tính hữu
ích của chụp mạch DECT để mô tả các động
mạch cảnh ngoài sọ có loại bỏ xương so với
ảnh CTA thông thường.10,11,12
Trong các vị trí hẹp thường gặp, hẹp tại
phình cảnh đứng đầu, theo sau đó là động
mạch cảnh trong. Kết quả này phù hợp với xu
hướng hình thành mảng tại chỗ chia đôi, nơi có
tốc độ máu chảy cao và các dòng xoáy máu. Về
tính chất của mảng xơ vữa, mảng xơ vữa hỗn
hợp là thường gặp nhất.4 Những mảng xơ vữa
TCNCYH 142 (6) - 2021
5
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
có vôi hoá, đặc biệt là những mảng xơ vữa có
vôi hoá nhiều ảnh hưởng rất lớn đến việc phân
loại mức độ hẹp.
So sánh DECT với chụp mạch DSA, nghiên
cứu của Mannil đã chỉ không có sự khác biệt
trong đánh giá hẹp giữa hai phương thức này.13
Nghiên cứu của Uotani và cs7 cũng chỉ ra mối
tương quan chặt chẽ khi đối chiếu mức độ hẹp
giữa ảnh DECT và ảnh DSA (r = 0,95) và đưa
ra kết luận rằng với khả năng xoá mảng xơ vữa
vôi hoá, DECT rất hữu ích trong việc đánh giá
mức độ hẹp ở những động mạch cảnh có vôi
hoá nhiều.
Khi so sánh mức độ hẹp giữa CTA và DECT,
nghiên cứu này cho thấy khác biệt giữa trước
và sau khi loại bỏ vôi hoá, mức độ hẹp của
CTA lớn hơn so với DECT xoá vôi hoá. Do
hầu hết các động mạch cảnh trong nghiên cứu
của chúng tôi đều có sự hiện diện của vôi hoá
(93%), nên sẽ ảnh hưởng đến việc đo lường
mức độ hẹp của lòng mạch. Những trường hợp
vôi hóa lớn dạng vòng trong thành động mạch
gây che lấp lòng mạch, trên CTA trên ảnh MIP
có thể đánh giá quá mức độ hẹp (H2.A), nhưng
với thuật toán của DECT, các mảng vôi hóa đã
được loại bỏ một cách hiệu quả, dẫn đến giảm
đáng kể hiện tượng tạo khối trong khi vẫn giữ
được chất lượng hình ảnh, có thể nói tương tự
như ảnh chụp mạch DSA (H2.B).
Kỹ thuật này cũng có những hạn chế cần
được nhắc đến là chất lượng hình ảnh không
đủ có thể nhiễu gây đánh giá sai mức độ hẹp, ví
dụ nhiễu ảnh do phục hình nha khoa bằng kim
loại. Ngoài ra thuật toán loại bỏ canxi của DECT
có thể loại bỏ một phần iốt cũng như do quá
trình hiệu chuẩn của loại bỏ vật liệu cơ bản.13
Hạn chế của nghiên cứu là chúng tôi thu thập
được một số lượng tương đối thấp và không có
đối chứng với tiêu chuẩn vàng chụp mạch DSA.
Tuy nhiên, nghiên cứu này đại diện cho bằng
chứng với kết quả mạnh mẽ về một thuật toán
loại bỏ canxi của DECT. Các suy luận chung về
các hạn chế của thuật toán cần được xác nhận
trong các nghiên cứu lớn hơn.
Nghiên cứu của Mannil và cs13 cũng cho
thấy DECT giúp loại bỏ các mảng bám vôi hóa
thành mạch cảnh và do đó cải thiện việc định
lượng hẹp động mạch cảnh tốt hơn so với sử
dụng hình ảnh CTA thông thường. Ngay cả
trong những trường hợp vôi hóa nhẹ, độ hẹp
NASCET trung bình đo trên DECT vẫn thấp
hơn 9% so với đo trên CTA thông thường.
Tương tự, nghiên cứu Uotani và cs7 cho thấy
tỷ lệ hẹp động mạch cảnh dương tính giả của
DECT giảm so với CTA thông thường.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi góp phần làm
sáng tỏ tính ứng dụng cao của kỹ thuật loại bỏ
vôi hoá trên DECT trong chẩn đoán mức độ hẹp
của động mạch cảnh ngoài sọ. Kỹ thuật này có
thể khắc phục việc đánh giá quá mức mức độ
hẹp CTA thường qui do hiện tượng chồng lấp
các mảng vôi hóa.
So sánh với MRAvới DECT, xác định mức độ
hẹp ICA của MRA tương đương với DECT.2,4,14
Nhưng theo Korn và cs4 cho thấy MRA đánh
giá xơ vữa vôi hoá kém hơn DECT và cho rằng
do các mảng vôi hóa cung cấp thông tin quan
trọng cho bác sĩ can thiệp hoặc bác sĩ phẫu
thuật và cung cấp giá trị tiên lượng cho những
bệnh nhân phân tầng nguy cơ bị hẹp không
triệu chứng, vì vậy DECT nên được xem xét ở
những bệnh nhân hẹp động mạch cảnh có xơ
vữa vôi hóa lớn.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các đồng
nghiệp khoa CĐHA và đơn vị đột quỵ, bệnh viện
Saint Paul đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành
nghiên cứu này.
Xung đột lợi ích và tài chính: Không
6
TCNCYH 142 (6) - 2021
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barrett KM, Brott TG. Stroke caused by
extracranial disease. Circ Res. 2017; 120:
496–501.
computed tomography for the head. Japanese
Journal of Radiology. 2017; 36(2): 69–80.
9. Das M, Braunschweig T, Mühlenbruch
G, et al. Carotid plaque analysis: comparison
of dual-source computed tomography (CT)
findings and histopathological correlation.
2009;38(1):14-19.
2. Nederkoorn PJ, van der Graaf Y, Hunink
MGM. Duplex ultrasound and magnetic
resonance angiography compared with digital
subtraction angiography in carotid artery
stenosis. Stroke. 2003; 34(5):1324–32.
10. Morhard D, Fink C, Graser A, et al.
Cervical and cranial computed tomographic
angiography with automated bone removal:
dual energy computed tomography versus
standard computed tomography. Invest Radiol.
2009; 44: 293–297.
3. Josephson SA, Bryant SO, Mak HK,
et al. Evaluation of carotid stenosis using CT
angiography in the initial evaluation of stroke
and TIA. Neurology. 2004; 63: 457–460.
4. Korn A, Bender B, Brodoefel H, et
al. Grading of carotid artery stenosis in the
presence of extensive calcifications: dual-
energy CT angiography in comparison with
contrast-enhanced MR angiography. CJCn.
2013; 25(1): 33-40.
11. Lell MM, Kramer M, Klotz E, et al. Carotid
computed tomography angiography with
automated bone suppression: a comparative
studybetweendualenergyandbonesubtraction
techniques. Invest Radiol. 2009; 44:322–328.
5. Marks MP, Napel S, Jordan JE, et al.
Diagnosis of carotid artery disease: preliminary
12. Kaemmerer N, Brand M, Hammon
M, et al. Dual-energy computed tomography
angiography of the head and neck with single-
source computed tomography: a new technical
(Split Filter) approach for bone removal. Invest
Radiol. 2016; 51: 618–623.
experience
with
maximum-intensity-
projectionspiral CT angiography. AJR Am J
Roentgenol. 1993; 160: 1267–71.
6. Thomas C, Korn A, Krauss B, et al.
Automatic bone and plaque removal using dual
energy CT for head and neck angiography:
feasibility and initial performance evaluation.
UJEjoR. 2010; 76(1):61-67.
13. Mannil M, Ramachandran J, de Martini
IV, et al. Modified dual-energy algorithm for
calcified plaque removal: evaluation in carotid
computed tomography angiography and
comparison with digital subtraction angiography.
SJIR. 2017; 52(11): 680-685.
7. Uotani K, Watanabe Y, Higashi M, et al.
Dual-energy CT head bone and hard plaque
removal for quantification of calcified carotid
stenosis: utility and comparison with digital
subtraction angiography. JEr. 2009; 19(8):
2060-2065.
14. Lv P, Lin J, Guo D, et al. Detection of
carotid artery stenosis: a comparison between
2 unenhanced MRAs and dual-source CTA.
American Journal of Neuroradiology. 2014;
35(12): 2360-2365.
8. Naruto, N, Itoh,T, & Noguchi, K. Dual energy
TCNCYH 142 (6) - 2021
7
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Summary
DUAL ENERGY COMPUTED TOMOGRAPHY IN EVALUATION OF
CERVICAL CAROTID CALCIFIED PLAQUE STENOSIS
Dual Energy Computed Tomographic Angiography (DECT) with calcified plaque removal was
compared with conventional CTA in the evaluation of the the degree of stenosis of the internal
carotid artery (ICA). 43 stenosis ICA in 27 patients were assessed according to the North American
Symptomatic Carotid Endarterectomy Trial (NASCET) criteria on both CTA and DECT techniques.
There is a very good agreement between these two diagnostic methods in the evaluation of stenosis
ICA with Kappa coefficient = 0.812. The average stenosis ICA measured on conventional CTA and
DECT images were 63.3 ± 25.0% and 59.5 ± 24.4%, respectively (p < 0.001). Thus, DECT for
calcified plaque removal facilitated the assessment of stenosis in all ICA and performed better than
the conventional CTA.
Keywords: Carotid stenosis, Calcified plaque, Dual energy CTA.
8
TCNCYH 142 (6) - 2021
Bạn đang xem tài liệu "Cắt lớp vi tính hai mức năng lượng trong đánh giá hẹp xơ vữa vôi hoá động mạch cảnh ngoài sọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- cat_lop_vi_tinh_hai_muc_nang_luong_trong_danh_gia_hep_xo_vua.pdf