Australia - Đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975)
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946
Bài nghiên cứu
Open Access Full Text Article
Australia - đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt
Nam (1954-1975)
Nguyễn Minh Giang*
TÓM TẮT
Có vị trí ở khu vực có mối quan hệ lịch sử - văn hóa truyền thống gần gũi với Đông Nam Á nhưng
Australia lại luôn tự xem và được xem như một tiền đồn đặc biệt của phương Tây ở châu Á - Thái
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
Bình Dương. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Australia cũng đã ngày càng phát triển
sâu sắc và toàn diện mối quan hệ đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ. Đặc biệt, để đánh đổi sự bảo
hộ an ninh từ Hoa Kỳ đối với khu vực biên giới phía Bắc, Australia đã phải chấp nhận số lượng binh
lính, cố vấn và nhân viên quân sự bị thương vong trong chiến tranh Việt Nam bằng tổng số lượng
thương vong trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới mà Australia đã tham chiến cùng với quân đội
Anh. Để làm rõ nội dung trên, bài viết tập trung phân tích những nhân tố khách quan như sự phát
triển của phong trào giải phóng dân tộc, sự ra đời và trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc,
cũng như chính sách Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai của Mỹ và các nhân tố chủ quan
đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển mối quan hệ đồng minh chiến lược đặc biệt giữa
Australia và Hoa Kỳ như lợi ích quốc gia và vai trò của Australia trong chiến tranh Việt Nam, những
cơ sở kinh tế - văn hóa - chính trị của mối quan hệ Australia - Hoa Kỳ, cùng với ba phương diện chủ
yếu thể hiện mức độ sâu sắc của mối quan hệ này trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam là quân sự,
chính trị-ngoại giao, văn hóa giáo dục - khoa học kĩ thuật.
Từ khoá: Australia, đồng minh chiến lược, Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam
MỞ ĐẦU
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN
Với dân số sống tập trung tại vùng biển phía Đông lục
địa, Australia là quốc gia có mật độ dân số thưa thứ
tư trên thế giới. Ngay từ khi những người da trắng
đầu tiên đến định cư, lục địa này đã bị chi phối bởi
cảm giác lo sợ những người Trung Quốc sẽ xâm nhập
tràn ngập lãnh thổ, ngay khi thành lập nhà nước Liên
bang vào năm 1901, nỗi lo sợ về an ninh quốc phòng
vẫn luôn thường trực như một lý do khác tiếp nối
cho truyền thống tìm kiếm một “người bảo hộ” về an
ninh của Australia. Từ chiến tranh ái Bình Dương
(1942) trở về trước, Anh được xem là người “bảo hộ”
an ninh của Australia. Tuy nhiên, kể từ khi chiến
tranh ái Bình Dương đe dọa trực tiếp đến thành
phố Darwin, quan hệ Anh - Australia dần trở nên
lỏng lẻo. ông qua Hiệp ước phòng thủ Nam ái
Bình Dương (ANZUS), và Hiệp ước Manila (1951),
Australia đã chính thức trở thành đồng minh quan
trọng của Mỹ trong tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á
(SEATO). Quan hệ Australia-Hoa Kỳ trở thành hòn
đá tảng trong chính sách đối ngoại của Australia.
Trong bối cảnh đó, Australia đã đứng về hàng ngũ các
thế lực đồng minh của Mỹ công nhận chính quyền Sài
Gòn, và cùng với Mỹ đưa quân tham chiến tại miền
Nam Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Việt Nam giai
đoạn 1965-1973.
HỆ ĐỒNG MINH CHIẾN LƯỢC GIỮA
AUSTRALIA VÀ HOA KỲ
Học viên cao học, Khoa Văn hóa học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam
Những nhân tố khách quan
Đồng minh là sự cam kết chính thức giữa các quốc
gia nhằm phối hợp hay tương trợ lẫn nhau để đối phó
với vấn đề chung nào đó. Mục đích của đồng minh là
tạo được quyền lực lớn hơn nhằm kiềm chế, cân bằng
hoặc vượt hơn với quyền lực của đối thủ, đảm bảo lợi
ích cho các thành viên. Sự hình thành đồng minh là
một biện pháp tập hợp lực lượng, đó cũng là cách thức
thay đổi cán cân so sánh quyền lực nhanh nhất. Đó là
sự cam kết phối hợp giữa hai hay nhiều quốc gia hỗ trợ
lẫn nhau về an ninh và quân sự. Trong các liên minh
chính trị-quân sự đó có thể tồn tại các mối quan hệ
kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng những mối quan hệ
ấy chỉ giúp củng cố mối quan hệ cơ bản và nổi trội
tr.236-237]
Liên hệ
Nguyễn Minh Giang, Học viên cao học,
Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam
Email: minhgiang2797@gmail.com
Lịch sử
• Ngày nhận: 20/7/2020
• Ngày chấp nhận: 17/3/2021
• Ngày đăng: 31/3/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.650
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Waltz trong e origins of alliance cho rằng các nước
đồng minh liên kết với cường quốc để đối phó với
mối đe dọa hơn là với những sức mạnh kinh tế - quân
sự. Các nước đồng minh vừa và nhỏ cảm thấy bị đe
dọa trước những đối thủ vừa gần gũi về địa lý, vừa có
Trích dẫn bài báo này: Giang N M. Australia - đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh
Việt Nam (1954-1975). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):939-946.
939
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946
lực lượng quân đội mang tính phòng vệ vượt trội và hơn sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, từ đó
còn luôn mang tư tưởng tấn công, bành trướng ảnh
hưởng. Sự gần gũi về mặt địa lý giữa Trung Quốc và
Australia, học thuyết Nhất biên đảo của người Trung
Quốc cùng với ưu thế về dân số, kết hợp với tư tưởng
Mao mang khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa cao tột
độ là mối đe dọa an ninh thực sự có thể tấn công Aus-
tralia theo nhận thức vào những năm 50 của thế kỷ
XX. Waltz cũng cho rằng “sự đóng góp của các quốc
gia vừa và nhỏ đối với đồng minh thực sự có ích ngay
cả trong thế giới lưỡng cực. Vì vậy, các chính sách
và chiến lược của các cường quốc chủ yếu được hình
thành phụ thuộc những tính toán và lợi ích riêng của
các cường quốc chủ yếu đó.” Đó là lý do, mặc dù Hoa
Kỳ mạnh hơn cả Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan,
Philippines nhưng các nước đồng minh này đã có ảnh
hưởng đáng kể đối với chính sách đối ngoại của Hoa
Kỳ, thậm chí đối với khu vực chứa đựng lợi quốc gia
sống còn của Hoa Kỳ là Mỹ Latinh.
Ngày 16/12/1949, Mao Trạch Đông dẫn đầu phái đoàn
Trung Quốc sang thăm Liên Xô, đàm phán với Stalin
tới ngày 14/02/1950, hai bên đã đạt được: Hiệp định
chấp thuận cấp cho Trung Quốc khoản tín dụng 300
triệu USD trong 5 năm với lãi suất 1% kể từ ngày
01/01/1951, hiệp định về đường sắt Trường Xuân-
cảng Lữ uận-Đại Liên, hiệp ước Hữu nghị-Đồng
minh-Tương trợ Xô-Trung, Tuyên bố hủy bỏ hiệp ước
Liên Xô - Trung Hoa dân quốc. Từ đây, hiệp ước đã
tăng cường vị thế của Liên Xô tại khu vực, làm cán
cân quyền lực nghiêng về hệ thống xã hội chủ nghĩa,
mở ra điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ
đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ với Australia nhằm
tạo lực đà cho chính sách châu Á - ái Bình Dương
Một trong những nội dung chính của lịch sử quan hệ
quốc tế hiện đại từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến
nay cũng là một hệ quả của sự phát triển phong trào
giải phóng dân tộc, là sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của
chủ nghĩa thực dân cũ, sự ra đời hệ thống thuộc địa
kiểu mới của chủ nghĩa thực dân mới. Sự hình thành
và phát triển của chủ nghĩa thực dân mới không chỉ
phụ thuộc vào tác động của sự phát triển chủ nghĩa
xã hội trên thế giới, sự suy yếu của hệ thống thuộc địa
theo chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, sự khủng hoảng của
chủ nghĩa tư bản hiện đại và sự thay đổi tương quan
lực lượng giữa các trung tâm quyền lực trong nội bộ
hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới, mà còn phụ thuộc
tác động của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc đối với cuộc đấu tranh của
nhân dân yêu chuộng hòa bình vì hòa bình, dân chủ,
độc lập tự do, phát triển và tiến bộ xã hội. Ngoài ra,
các hình thức nô dịch của chủ nghĩa thực dân kiểu
khiến cho lực lượng dân chủ, tiến bộ, yêu chuộng hòa
bình tham gia đấu tranh cổ vũ phong trào giải phóng
228] Đồng thời, trên cơ sở thắng lợi liên tục của dòng
thác lũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới,
nhiều quốc gia “thế giới thứ Ba” đã được thành lập,
đã trỗi dậy, vươn mình, phát triển vượt bậc qua các
chiến lược phát triển kinh tế khác nhau, trở thành
những quốc gia có tiếng nói đáng kể trên trường quốc
tế, làm thay đổi căn bản cục diện bản đồ chính trị
thế giới, nhất là sự trỗi dậy, phát triển ngoạn mục của
các nước Đông Á đã cho thấy minh chứng mạnh mẽ
của sự thức tỉnh Châu Á, sự chuyển dịch dần cán cân
quyền lực kinh tế quan trọng từ các trung tâm kinh
tế thế giới truyền thống ở các quốc gia phát triển Tây
Âu - Bắc Mỹ sang các nền kinh tế mới nổi ở châu Á.
Vì vậy, có thể nói nội dung chính của phong trào giải
phóng dân tộc ở châu Á sau chiến tranh thế giới thứ
hai là tiến hành đấu tranh chống lại các hình thức áp
bức, nô dịch của chủ nghĩa thực dân mới để không
chỉ giành độc lập dân tộc thực sự và toàn vẹn trên mọi
lĩnh vực, từ đó làm biến đổi căn bản bản đồ cục diện
chính trị thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy thời kỳ
châu Á thức tỉnh mạnh mẽ hơn, tạo động lực cho sự
chuyển dịch cán cân quyền lực giữa các quốc gia trên
trường quốc tế. Từ đó, có thể nói, việc phong trào giải
phóng dân tộc không ngừng lớn mạnh như một khối
đồng minh vững chắc, tiến bộ đã trở thành một trong
những nhân tố căn bản đánh bại hoàn toàn khối đồng
minh thù địch gồm các nước tư bản chủ nghĩa có xu
hướng thân Hoa Kỳ. Tác động lớn nhất của phong
trào giải phóng dân tộc Đông Nam Á sau chiến tranh
thế giới thứ hai chính là đã góp phần đáng kể làm sụp
đổ căn bản cả hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân, để lại bài học sâu sắc về sức mạnh của sự hợp tác
cùng đấu tranh chống kẻ thù chung trong một khối
đồng minh dựa trên những lợi ích chính đáng.
Những nhân tố chủ quan
Về cơ bản, Australia là nước TBCN hiện đại có nền
tảng kinh tế lớn, phát triển, đại đa số lao động có trình
độ cao, tầng lớp trung lưu cấp tiến chiếm số lượng
đông đảo trong xã hội, tầng lớp đại tư sản tư bản công
nghiệp tài chính - ngân hàng kết hợp với chủ kinh
doanh của các tập đoàn kinh tế khổng lồ ngày càng
chi phối các quyết sách chính trị của chính phủ, trở
thành giai cấp nắm quyền thống trị kinh tế - xã hội
Australia. Do đó, bản chất đường lối chính trị của các
đảng chính trị tại Australia nhìn chung là bảo vệ tư
sản vừa và nhỏ, tầng lớp đại tư sản cầm quyền, chống
mới cũng đa dạng, phong phú, linh hoạt và bao quát chủ nghĩa xã hội, tăng cường thực thi chủ nghĩa đa
940
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946
nguyên, đa văn hóa, phổ biến các giá trị dân chủ tự sự kiểm soát của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc là một
do. Tính chất ổn định về đường lối đối ngoại thể hiện nỗi kinh hoàng đối với Australia - đất nước đã nuôi
cụ thể qua việc các đảng chính trị đều nhằm cùng một dưỡng hàng trăm năm nỗi căm thù khiếp sợ người
nguyên tắc cơ bản thống nhất với sự phát triển của Trung Quốc, những người buộc chính phủ Australia
chủ nghĩa tư bản, với nguyên tắc về sở hữu tư nhân, theo đuổi chính sách Nước Australia da trắng nhằm
về kinh tế thị trường và thừa nhận sự phân tầng xã giảm sự chảy máu của nền kinh tế Australia những
năm 1850 đến nay.
Australia ban đầu chỉ nhìn nhận phong trào giải Pháp trao quyền tự trị cho chính phủ liên hiệp Quốc
phóng dân tộc ở Việt Nam như một phong trào dân gia Việt Nam của Bảo Đại, Australia lập tức công nhận
tộc chủ nghĩa, là công việc nội bộ tình hình quốc gia và thiết lập quan hệ ngoại giao, các hoạt động viếng
và không phải là vùng lợi ích trực tiếp của Australia thăm và làm việc với chính phủ Bảo Đại được diễn ra
dù về kinh tế hay về an ninh quân sự quốc phòng. giữa ngoại trưởng Australia Richard Cassey và Quốc
Trước khi Chiến tranh Lạnh bùng nổ, Australia coi trưởng Bảo Đại. Tất cả những động thái trên có thể
cuộc kháng chiến Việt Nam chống lại chiến tranh xâm được hiểu là do bối cảnh Chiến tranh Lạnh đã đưa
lược Đông Dương lần thứ hai của thực dân Pháp là Australia đứng về hàng ngũ những người dân tộc chủ
công việc nội bộ của một thuộc địa. Góc nhìn ấy được nghĩa có cùng ý thức hệ dân chủ tự do với Australia để
chia sẻ qua chính tin tức của Bộ Ngoại giao và ương bảo đảm an ninh cho Bắc Australia, vốn chỉ cách Hà
mại Australia đăng tải trên tạp chí Current Notes on Nội một khoảng đúng bằng từ Perth (Tây Australia)
International Affairs “Cao ủy Pháp tại Đông Dương đã tới Brisbane (Queensland). Việc giúp đỡ tối đa cho
ký kết một hiệp định với những người Việt Nam theo chính phủ Bảo Đại giành ưu thế so với Việt Nam Dân
chủ nghĩa dân tộc, từ đó giải quyết ổn thỏa tranh chấp chủ Cộng hòa trong cuộc tổng tuyển cử dự kiến diễn
về việc quân đội Pháp hiện diện tại miền Bắc Việt Nam”. ra năm 1956, việc kêu gọi nỗ lực tập trung kiến tạo
[5, tr.5-14] eo đó, Việt Minh là một trào lưu dân một cấu trúc an ninh phòng thủ tập thể tại Đông Á chỉ
tộc chủ nghĩa và tình hình chính trị Đông Dương vì bao gồm các nước đồng minh phương Tây trở nên cấp
vậy chưa phải mối hiểm họa đe dọa đến an ninh quốc thiết hơn bao giờ hết. Chính vị trí địa lý xa cách, biệt
phòng của Australia. Song sau khi các nhà nước và lập với các nước phương Tây, cùng với tâm lý mang
cách mạng ở Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc lần trong mình là “tiền đồn của phương Tây ở ái Bình
lượt ra đời thì góc nhìn của Australia đã thay đổi hoàn Dương”, nên Australia luôn không ngừng kêu gọi thúc
toàn.[6, tr.45-46] Tuy nhiên, vì nhận thức không thể giục các nước đồng minh phương Tây chống lại “thảm
dựa vào Anh - một nước đế quốc có vùng lợi ích cốt họa cộng sản xâm lăng” để có thể đảm bảo an ninh khu
lõi ở châu Âu và Bắc Phi, nên Australia đã quyết định vực giàu tài nguyên hàng đầu thế giới. Đó cũng là lý
chọn và thuyết phục Hoa Kỳ trở thành “người bảo do chính sách Phòng thủ tiền tiêu của Australia ra đời
hộ” mới. Và bằng việc tham gia hiệp ước phòng thủ như một công cụ ràng buộc sự hiện diện của Hoa Kỳ
Nam ái Bình Dương ANZUS năm 1951 vốn được tại Đông Nam Á chặt chẽ hơn, từ đó có “người bảo hộ”
kỳ vọng như một cam kết thể hiện sự bảo vệ toàn diện về an ninh đảm bảo cho Australia.
của Mỹ đối với những lợi ích chiến lược của Canberra Cho đến tận cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của
ở Đông Nam Á, có thể nói, Australia đã hưởng ứng thế kỷ XX, khi Chiến tranh Việt Nam dần đi đến hồi
ngay lập tức học thuyết Domino của Eisenhower, lấy kết, Australia vẫn tiếp tục xây dựng góc nhìn Đông
tư cách đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ để tham Nam Á qua nhãn quan lợi ích chiến lược về an ninh
chiến trực tiếp tại Việt Nam, bảo vệ an ninh phòng khu vực và kinh tế quốc tế, từ đó hoạch định chính
thủ Bắc Australia khỏi sự lây lan nguy hiểm của chủ sách đối ngoại mới Hướng về châu Á đảm bảo lợi ích
nghĩa Mao. Rõ ràng, đó là lợi ích cốt lõi, thiết thực quốc gia về kinh tế và an ninh quốc phòng của Aus-
nhất khiến Australia tham chiến tại Việt Nam vì nhận tralia tại khu vực Đông Á. Những chính sách xoay
thức mang tính bước ngoặt trong tư duy đối ngoại của quanh quyết định đưa quân tham chiến trực tiếp tại
chính phủ Australia “Việt Nam không còn là vùng đất Việt Nam cho thấy trọng tâm chính sách đối ngoại
mà Australia không có lợi ích quốc gia trực tiếp nào”.
của Australia giai đoạn này chính là nhận thức về một
Australia hình dung Việt Nam rơi vào tay Liên Xô hay Đông Nam Á như khu vực ẩn chứa đầy những nguy
Trung Quốc thì Mã Lai, Miến Điện, ái Lan và In- cơ có thể đe dọa an ninh khu vực Cận Bắc của Aus-
donesia sẽ là những mục tiêu tiếp theo của chủ nghĩa tralia bất cứ lúc nào. Trong khi đó, Mỹ tập trung lực
xã hội. Australia nằm ở vị trí cuối cùng của dãy quân lượng theo cái gọi là khác biệt ý thức hệ, thực chất là
cờ domino, do đó, nếu không ngăn chặn sự thắng lợi để tăng cường sức ảnh hưởng của Mỹ, đồng thời ngăn
của chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương, Australia cũng chặn sức ảnh hưởng của mọi siêu cường trỗi dậy nào
sẽ bị đe dọa. Việc hàng loạt quân cờ sụp đổ, sẽ rơi vào khác thách thức mưu đồ, tham vọng bá chủ toàn cầu
941
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946
của Mỹ. Việc Mỹ chấp nhận hợp tác quân sự với Aus- không quân hoàng gia Australia đã gửi một phi đội
tralia, New Zealand cũng được xem là một bước của Lộc Nam tới cảng Vũng Tàu. Đến đầu năm 1965, khi
kế hoạch đó, đặc biệt khi các căn cứ quân sự của Mỹ miền Nam Việt Nam rõ ràng đã không thể ngăn chặn
không còncó khả năng phát triển và phát huy tác dụng các thành viên xã hội chủ nghĩa miền Bắc được nữa,
ở Philippines, Australia lại đang “tự nguyện”, “mời Hoa Kỳ bắt đầu leo thang chiến tranh ra miền Bắc.
gọi”. Tuy nhiên, quan hệ đồng minh chiến lược Mỹ Cuối năm 1965, Hoa Kỳ đã đưa 20 vạn quân trực tiếp
và Australia là “đồng sàng dị mộng”. Vì vậy, cách tiếp tham chiến tại Việt Nam. Để hưởng ứng đáp lại như
cận học thuyết Domino dù tương đồng ít nhiều nhưng một sự ủng hộ trong vai trò đồng minh chiến lược của
Mỹ, Australia đã gửi tiểu đoàn Đệ Nhất, Trung đoàn
Hoàng gia Australia (IRAR) đến phục vụ sát cánh
cùng Lữ đoàn không quân 173 của Hoa Kỳ tại Biên
Hòa. áng 3/1966, chính phủ Australia thông báo
gửi một lực lượng đặc biệt thay cho IRAR gồm hai tiểu
đoàn và một phi đội RAAF đóng tại Núi Đất, Phước
Tuy. Khác với RAAR, lực lượng đặc nhiệm này được
giao cho một khu vực hoạt động riêng, gồm cả dự bị
được tuyển mộ theo Đề án Quân dịch quốc gia năm
1964. Tất cả 9 tiểu đoàn RAR phục vụ trong lực lượng
đặc nhiệm ấy đến hết năm 1971. Vào giai đoạn đỉnh
điểm cuối năm 1967 - đầu năm 1968, quân số Aus-
tralia lên đến 8500 người bao gồm cả nhân viên phục
vụ nói chung, cán bộ quân đội và quân trực tiếp chiến
đấu nói riêng. 1/3 phi đội RAAF của lực lượng ném
bom phản lực Canberra cũng đã được tham chiến vào
năm 1967, các tàu khu trục của Hải quân hoàng gia
cũng đã cùng những người lính tuần tra Hoa Kỳ tuần
tra ngoài khơi miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra, Hải quân
Hoàng gia Australia còn góp một đội lặn rà phá mặt
biển, một trực thăng tháo rời được quân đội Hoa Kỳ
áng 6/1969, bất chấp bất lợi về địa bàn chiến đấu,
không phải tại rừng núi hiểm trở mà tại một địa hình
đô thị, đồng bằng duyên hải, ở miền Trung tỉnh Phước
Tuy, quân đội Australia với ưu thế hai chiếc xe tăng
bọc thép đã đẩy lùi 130 quân Giải phóng, bắt 8 bộ đội
Việt Nam làm tù binh, và chỉ bị thương 8 người lính
Đến cuối năm 1970, Australia bắt đầu giảm nỗ lực
quân sự tại miền Nam Việt Nam. Tiểu đoàn 8 khởi
hành vào tháng 11 năm 1970 chỉ để bù đắp sự suy
giảm về quân số Australia tại Phước Tuy. Việc rút
quân tiếp tục được triển khai trong suốt năm 1971,
tiểu đoàn cuối cùng đã rời khỏi Núi Đất, Phước Tuy
vào ngày 7/11/1971. Đến tháng 12/1972, tổ Cố vấn
trở thành những người lính Australia cuối cùng trở
chỉ phần nào cho thấy sự trùng khớp ngẫu nhiên giữa
lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ và Australia khi tham
chiến trực tiếp tại miền Nam Việt Nam.
Về cơ bản, lợi ích của Hoa Kỳ ở Việt Nam nói riêng và
Đông Nam Á hay Châu Á ái Bình Dương nói chung
trong giai đoạn 1954-1975 gồm ba nhóm: lợi ích sống
còn, lợi ích chiến lược và lợi ích quan trọng khác. Về
lợi ích sống còn của Hoa Kỳ ở Việt Nam, không gì khác
hơn chính là mong muốn thiết lập bá quyền, mở rộng
bá quyền ra toàn thế giới. Việc truyền bá giá trị dân
chủ tự do và văn hóa đại chúng Mỹ chính là một bộ
phận của mục tiêu bá chủ toàn cầu đó “là người dẫn
dắt cả thế giới còn trong bóng tối”, từ đó thiết lập và duy
trì vị trí, vai trò lãnh đạo một trật tự thế giới mới của
Mỹ. Với việc luôn coi chủ nghĩa xã hội Trung Quốc
là một mối đe dọa đối với nền an ninh chính trị toàn
cầu của mình, Hoa Kỳ đã coi quan hệ Mỹ-Trung như
một trong những nhân tố có thể làm thay đổi lợi ích
của Mỹ, và quyết định quan trọng đến mối quan hệ
của Hoa Kỳ với các nước đồng minh chiến lược trong
Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ có bốn lợi ích chiến lược
quan trọng tại Việt Nam nói riêng, Đông Nam Á nói
chung là:
1. một môi trường ổn định đảm bảo điều kiện thuận
lợi cho các hoạt động đầu tư thương mại của Hoa Kỳ
tại khu vực,
2. an ninh thương mại khu vực ái Bình Dương,
3. tự do giao thương đường biển,
4. ngăn chặn bất kỳ khối liên minh hay cường quốc
QUAN HỆ ĐỒNG MINH CHIẾN LƯỢC
AUSTRALIA-MỸ TRONG CHIẾN
TRANH VIỆT NAM
Thắt chặt hợp tác quân sự, tham chiến cùng
Mỹ tại miền Nam Việt Nam
Tiếp theo sau cuộc chiến tranh bán đảo Triều Tiên về quê nhà sau mười năm rưỡi phục vụ tại miền Nam
1950-1953 với 300 binh lính bị hy sinh, tháng 7/1962, Việt Nam (từ tháng 7/1962 tới tháng 12/1972). Ngày
Australia gửi đến Việt Nam 30 cố vấn huấn luyện 11 tháng 01 năm 1973, thủ tướng Australia chính thức
chiến thuật chống lại chiến tranh du kích. Chuyến ban hành lệnh tuyên bố chấm dứt sự tham chiến của
đi đến miền Nam Việt Nam vào tháng 7 và tháng 8 Australia tại Việt Nam, và chỉ giữ lại một trung đội
năm 1962 của Đội huấn luyện quân sự Australia tại bảo vệ sứ quán Australia tại Sài Gòn. áng Tư năm
Việt Nam (AATTV) đã mở đầu cho sự tham chiến 1975, một phi đội RAAF của Hercules đã thực hiện
của Australia tại Việt Nam. áng 8/1964, lực lượng nhiệm vụ nhân đạo quốc tế hỗ trợ người tị nạn, tiến
942
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946
hành sơ tán trẻ em Babyliꢀ khỏi Việt Nam, và ngày bao vây chặt chẽ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
25/04/1975, toàn bộ trung đội bảo vệ và nhân viên đại Á Âu, từ đó kìm hãm phong trào giải phóng dân tộc,
Sau hơn mười năm tham chiến tại miền Nam Việt
Nam, 521 người lính Australia đã tử trận, hơn 3000
người bị thương. Từ 30 cố vấn huấn luyện chiến thuật
chống lại chiến tranh du kích được gửi đến Việt Nam
vào tháng 7/1962, quân số Australia đã lên đến 7672
binh lính chiến đấu tại Việt Nam vào cuối năm 1967
- đầu năm 1968. Trong vòng 9 năm từ 1965 đến 1973,
đã có 8300 binh lính và gần 47000 nhân viên quân đội
Australia được cử đến phục vụ chiến tranh tại Việt
phong trào công nhân, phong trào cộng sản thế giới.
Nhìn chung, mục tiêu của Australia khi tham dự vào
ANZUS, SEATO đều là “chống chủ nghĩa xã hội, và
mối đe dọa từ sự bành trướng của Trung Quốc…thúc
đẩy cùng tồn tại hòa bình, hiệu quả…bảo đảm nền an
ninh quốc gia của Australia. Tư cách thành viên của
chúng ta trong các hiệp ước ANZUS và SEATO đã phản
ánh quan điểm này và đồng thời nói lên việc chúng ta
không đủ khả năng để bảo đảm cho nền an ninh của
mình nếu không có sự giúp đỡ của một nước lớn khác”
Định hình và phát triển hợp tác văn hóa-
giáo dục-khoa học kĩ thuật trong quan hệ
đồng minhchiếnlượcAustralia -HoaKỳgiai
đoạn Chiến tranh Việt Nam
Củng cố và mở rộng quan hệ chính trị - an
ninh Australia-Hoa Kỳ trong giai đoạn chiến
tranh Việt Nam
Là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của
Australia trong suốt nửa thế kỷ Chiến tranh Lạnh,
ANZUS là hiệp ước an ninh phòng thủ song phương
quan trọng nhất, vẫn tiếp tục tồn tại trên cơ sở chia
sẻ lợi ích an ninh giữa các thành viên trong việc gạt
bỏ sức ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội Liên Xô và
Trung Quốc. Sự tồn tại của hiệp ước ANZUS vì vậy
không có những yếu tố bấp bênh, không rõ ràng như
các hiệp ước khác, quan hệ của Australia với Hoa Kỳ.
eo quan điểm của Australia, chính sự hiện diện về
lâu dài của Hoa Kỳ tại khu vực là điều kiện tiên quyết
đảm bảo sự ổn định về an ninh của cả khu vực, trong
đó có Australia.
Kể từ ngày 4 tháng 7 năm 1918, khi quân đội Aus-
tralia và Hoa Kỳ lần đầu tiên sát cánh bên nhau trong
Trận Hamel, binh lính Australia và Hoa Kỳ - thủy thủ
- thủy quân lục chiến - lính không quân và phụ nữ đã
phục vụ cùng nhau trong mọi cuộc xung đột lớn. Đây
là biểu tượng của sự ràng buộc sâu sắc và lâu dài, tôn
trọng lẫn nhau và hợp tác chặt chẽ tồn tại giữa Aus-
tralia và Hoa Kỳ. Mối quan hệ giữa Australia và Hoa
Kỳ là duy nhất về chiều rộng, chiều sâu và chiều dài
và được đặc trưng bởi mối quan hệ văn hóa đích thực
và tinh thần hợp tác. Mối quan hệ đương đại giữa hai
quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực nỗ lực chung, bao
Nếu như ANZUS đóng vai trò hòn đá tảng trong gồm hợp tác quốc phòng và an ninh, liên kết đầu tư và
chính sách đối ngoại của Australia thì SEATO đã đặt thương mại rộng lớn tạo công ăn việc làm cho người
cơ sở hợp pháp cho chính sách Phòng thủ tiền tiêu Australia và người Mỹ, trao đổi văn hóa, cạnh tranh
của quốc gia này. Trong khuôn khổ hiệp ước SEATO, thể thao, tham gia giáo dục, nghiên cứu và phát triển
Australia không che giấu quan điểm tìm kiếm sự bảo và du lịch.
trợ an ninh của Hoa Kỳ trong không gian sinh tồn Hiệp ước đầu tiên được ký giữa Hoa Kỳ và Australia
Đông Nam Á, rộng hơn là châu Á - ái Bình Dương. là thỏa thuận năm 1949 thành lập Chương trình Ful-
Nổi bật là phát biểu của Ngoại trưởng Australia Bury bright và kể từ đó, hơn 5.000 người Australia và người
vào năm 1971 “SEATO có giá trị đối với chúng ta vì Mỹ Mỹ đã nhận được học bổng Fulbright. Hoa Kỳ và Aus-
đã cam kết giúp đỡ không chỉ Australia, New Zealand tralia đã ký kết một hiệp ước tương trợ pháp lý để
mà còn với cả Philippines, Việt Nam Cộng hòa và ái tăng cường hợp tác song phương về các vấn đề pháp
Lan”. Mặc dù không chính thức đề cập đến chủ nghĩa lý và chống ma túy. Hai nước cũng đã ký các hiệp ước
xã hội nhưng Hoa Kỳ đã khẳng định cam kết của quốc hợp tác thương mại quốc phòng và thuế, cũng như
gia này với các nước thành viên còn lại của hiệp ước các thỏa thuận về hợp tác y tế, không gian, khoa học
chỉ áp dụng khi lãnh thổ và an ninh của các nước và công nghệ, hợp tác quản lý khẩn cấp và an sinh xã
thành viên bị chủ nghĩa xã hội tấn công; đồng thời, hội. Nhiều tổ chức của Hoa Kỳ tiến hành các hoạt
1958, 1960, 1961 đều thảo luận chương trình tăng Năm 1950, Australia khởi xướng kế hoạch Colombo
cường lực lượng vũ trang trong từng quốc gia, các với mục tiêu viện trợ kinh tế cho các nước Nam Á và
chương trình phối hợp hoạt động quân sự. Cùng với Đông Nam Á. Chỉ sau 4 năm, kế hoạch Colombo đã
NATO, CENTO, ANZUS, SEATO, Hoa Kỳ đã thiết lập thu hút sự tham gia của Canada, New Zealand, Hoa
một hệ thống mạng lưới an ninh phòng thủ liên hoàn, Kỳ, Nhật Bản, Sri Lanka và các quốc gia châu Á. Đây
943
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946
là một phần của kế hoạch ngăn chặn và đẩy lùi chủ phía Bắc từ một “người khổng lồ” để chống lại mọi mối
nghĩa xã hội mà Australia, Hoa Kỳ và các nước đồng đe dọa có thể đến từ phương Bắc, Australia đã tìm
minh chiến lược khác của Mỹ đều muốn thông qua kiếm, lôi kéo và “bán mình” cho mối quan hệ đồng
kế hoạch để đẩy lùi đói nghèo, từ đó thu hẹp phạm vi minh chiến lược với Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ Chiến
không gian ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội tại Nam tranh Việt Nam (1954-1975). Đây không chỉ là cuộc
Á và Đông Nam Á. Trong giai đoạn 1950-1971, nhập chiến dai dẳng, ác liệt nhất trong lịch sử Australia và
khẩu từ Hoa Kỳ chiếm 8,2% tổng giá trị nhập khẩu Hoa Kỳ, chính thức biến miền Nam Việt Nam thành
của Australia, đồng thời, Hoa Kỳ cũng chiếm 15,2% tiền đồn của chủ nghĩa thực dân Mỹ kiểu mới để ngăn
giá trị xuất khẩu của Australia. Đây là đối tác thương chặn và đẩy lùi hoàn toàn ảnh hưởng của chủ nghĩa
mại lớn thứ hai của Australia trong giai đoạn này, chỉ xã hội Trung Quốc tràn xuống khu vực Đông Nam Á,
mà còn là bước ngoặt chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến
Kế hoạch Colombo ra đời năm 1950, thời điểm cuộc phi nghĩa của hàng loạt nước đồng minh và Hoa Kỳ
chiến tranh Triều Tiên đánh dấu làm cho bầu không với chủ nghĩa xã hội ở châu Á, để lại bài học sâu sắc
khí căng thẳng, Công đảng tại Australia thất bại trước cho nhân loại về sự quyết định của tính chính nghĩa
liên đảng Tự do - Quốc gia đẩy mạnh quan điểm của đối với sự tồn tại và phát triển của bất kỳ mối quan
Hoa Kỳ. Kế hoạch Colombo tuy không phải là hiệp hệ đồng minh nào được hình thành trên trường quốc
ước an ninh, phòng thủ nhưng về sâu xa, động cơ tế. Trong bối cảnh đó, để đánh đổi sự bảo hộ an ninh
chính trị của nó cũng không nằm ngoài mục tiêu ngăn từ Hoa Kỳ đối với khu vực biên giới phía Bắc của đất
chặn chủ nghĩa xã hội như ANZUS, SEATO. Chính nước, Australia đã phải chấp nhận số lượng đội cố vấn
tính chính trị đó đã lý giải tại sao kế hoạch Colombo - nhân viên quốc phòng và thanh niên phục vụ nghĩa
lại hoàn toàn bỏ trống miền Bắc Việt Nam - lãnh địa vụ quân sự bị thương vong bằng tổng số lượng thương
của chủ nghĩa xã hội. Với nhận thức coi đói nghèo, vong trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới mà Aus-
bệnh tật, lạc hậu là những điều kiện thuận lợi cho sự tralia đã quyết định tham chiến cùng Anh. Sự tham
chiến của Australia trong Chiến tranh Việt Nam như
một phương tiện đảm bảo sự hiện diện của Hoa Kỳ ở
châu Á - ái Bình Dương trước nguy cơ cao về sự rút
lui của Anh khỏi bờ Đông kênh đào Suez.
phát triển của chủ nghĩa xã hội, kế hoạch Colombo
đã được đề ra để ổn định kinh tế - chính trị - tiến bộ
xã hội Đông Nam Á và nhận được sự ủng hộ mang
tính cam kết theo chu kỳ 3 năm từ các nước Australia,
Canada, New Zealand. Tính đến năm 1968, Australia
đã gửi hơn 1500 chuyên gia đến các quốc Á - Phi -
Nam ái Bình Dương, đào tạo hơn 9400 học sinh,
sinh viên từ các nước này theo chương trình của kế
hoạch Colombo. Bên cạnh đó, kế hoạch Colombo
còn tập trung phát triển kinh tế theo nhu cầu của các
quốc gia nhận viện trợ. Nhìn chung, các khoản viện
trợ trong khuôn khổ Kế hoạch Colombo đã rút ngắn
khoảng cách chênh lệch kinh tế xã hội giữa Australia
và các quốc gia Đông Nam Á, từ đó đảm bảo các nước
này không trở thành miền đất hứa đối với chủ nghĩa
xã hội Trung Quốc và có thể đảm bảo an ninh phòng
thủ cho Australia từ những quân cờ domino đầu tiên.
Kế hoạch Colombo nhờ đó đã dẹp bỏ dần dần lo ngại
của Australia về sự bành trướng ảnh hưởng của chủ
Hiệp ước an ninh ANZUS được xem như hòn đá tảng
trong chính sách đối ngoại của Australia ở Đông Nam
Á, là hiệp ước an ninh phòng thủ song phương quan
trọng nhất, vẫn tiếp tục tồn tại trên cơ sở chia sẻ lợi
ích an ninh giữa các thành viên trong việc gạt bỏ sức
ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội. Sự tồn tại của hiệp
ước ANZUS vì vậy không có những yếu tố bấp bênh,
bất định như các hiệp ước quan hệ đồng minh khác.
Quan hệ đồng minh chiến lược Australia - Hoa Kỳ
trong khuôn khổ hiệp ước ANZUS đã giúp Hoa Kỳ
có thể tận dụng lãnh thổ của Australia cho các hoạt
động quân sự của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á. Ngược lại,
những cam kết của Hoa Kỳ trong bảo vệ Australia khỏi
tấn công, đe dọa về an ninh và quốc phòng từ Trung
Quốc, Nhật Bản và các nước láng giềng trực tiếp Đông
Nam Á cũng đã góp phần không nhỏ trong việc dẹp
bỏ những ưu tư, lo lắng, quan ngại và ám ảnh sâu sắc
của Australia. Hiệp ước ANZUS đã thể hiện rõ mối
KẾT LUẬN
Australia là một nước tư bản chủ nghĩa hiện đại, có quan hệ đồng minh chiến lược chặt chẽ của Australia
tầng lớp đại tư sản, và các tập đoàn tư bản khai khoáng với Hoa Kỳ trên các lĩnh vực tình báo, công nghệ quốc
khổng lồ chi phối đáng kể chính sách kinh tế - chính phòng, các kế hoạch yểm trợ và hậu cần, qua đó hỗ trợ
trị xã hội của Australia. Với nền tảng tư tưởng chính răn đe hiệu quả mọi cuộc tấn công vào lãnh thổ trong
trị chủ yếu đề cao những giá trị dân chủ tự do phương vòng 1000 dặm quanh vùng lãnh thổ phía Bắc Aus-
Tây, lại có vị trí địa lý đặc biệt là tiền đồn của phương tralia. Cả một thế hệ những người Australia học cách
Tây ở châu Á - ái Bình Dương, trong bối cảnh luôn nhìn thế giới qua lăng kính phiến diện của họ. Cả một
phải tìm kiếm một “chiếc ô bảo hộ” an ninh biên giới thế hệ người dân Australia bị phân hóa mạnh mẽ bởi
944
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946
cuộc chiến này. Sự thất bại của quân đội Australia, NATO: North Atlantic Treaty Organisation (Tổ chức
Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh trực tiếp tham
chiến khác đã đặt Liên minh Bảo thủ ở Australia bên
bờ vực tín nhiệm thấp nhất và đi đến thất bại trong
cuộc bầu cử năm 1972, dẫn đến sự trở lại của chính
quyền Công đảng sau 23 năm vắng bóng trên chính
đã thể hiện rõ mối quan hệ đồng minh chiến lược
chặt chẽ của Australia với Hoa Kỳ trên các lĩnh vực hỗ
trợ răn đe hiệu quả mọi cuộc tấn công vào trong 1000
dặm quanh vùng lãnh thổ phía Bắc Australia. Đồng
minh với Hoa Kỳ trong thế kỷ XX vì vậy đã trở thành
trụ cột trong chính sách đối ngoại của Australia nhằm
bảo đảm chống lại một cuộc tấn công từ bên ngoài đe
dọa nền an ninh của quốc gia này. Các thủ tướng từ cả
hai chính đảng lớn đã đưa ra những tuyên bố thống
nhất về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Aus-
tralia với Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ là anh cả của Australia”
(Harold Holt); và “Hoa Kỳ là một đồng minh trong
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương)
CENTO: e Central Treaty Organisation (Tổ chức
Hiệp ước Trung ương)
ANZUS: Australia, New Zealand, United States Secu-
rity Treaty (Khối Hiệp ước An ninh quân sự Australia,
New Zealand, Mỹ)
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ
Tác giả đã sưu tầm tài liệu luận văn, luận án, kỷ yếu
khoa học, các bài đăng từ Trung tâm ông tin - ư
viện Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại
học Quốc gia ành phố Hồ Chí Minh, từ các web-
site uy tín của ư viện Trung tâm Đại học Quốc gia
ành phố Hồ Chí Minh, Đại học Macquarie, Đại học
Quốc gia Australia, website Academia, Researchgate,
và website tài nguyên số của Bộ Khoa học và Công
nghệ Việt Nam.
.
Chiến tranh Việt Nam đã đi qua hơn bốn mươi năm.
Quan hệ đồng minh chiến lược giữa Australia và Hoa
Kỳ tuy đã gặp không ít gợn sóng, trục trặc, nhưng vẫn
được xem như hòn đá tảng lớn nhất, được sự thống
nhất rộng rãi nhất của cả lưỡng đảng cầm quyền lớn
nhất Australia. Trọng tâm trong chính sách đối ngoại
của Australia vẫn là lợi ích cốt lõi về an ninh và kinh
tế qua đường biển thông qua hàng loạt eo biển nằm
trên tuyến đường thương mại biển huyết mạch Đông
Nam Á. Nhưng hợp tác trên lĩnh vực văn hóa - giáo
dục - khoa học kĩ thuật giữa Australia và Hoa Kỳ đã
ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Đặc biệt, quan hệ hợp tác về giáo dục giữa Australia -
Hoa Kỳ đã góp phần củng cố đáng kể sức mạnh mềm
của Australia thông qua công nghệ xuất khẩu mô hình
giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới. Bài học về thất
bại của quan hệ đồng minh Australia-Hoa Kỳ trong
chiến tranh Việt Nam sẽ vẫn còn có giá trị to lớn trong
bối cảnh Australia cùng với các nước phương Tây đều
đang ráo riết hình thành những khối quan hệ đồng
minh về chính trị - an ninh có ảnh hưởng không nhỏ
đến tình hình kinh tế-chính trị thế giới nhằm mục
đích gia tăng sức mạnh kiềm chế sự trỗi dậy của Trung
Quốc. eo đó, Australia cần tỉnh táo và tăng cường
tính tự chủ, sáng tạo trong quan hệ đối ngoại, từ đó
giảm phụ thuộc về kinh tế - chính trị - an ninh đến
mức “bán mình” cho bất kỳ cường quốc thế giới nào.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nam HK. Quyền lực trong quan hệ quốc tế: lịch sử và vấn đề.
Hà Nội: Nxb Văn hóa thông tin. 2012;.
2. Đức ThiệnL. Sự biến đổiđịa chínhtrị ĐôngNam Á từsau Chiến
tranh Lạnh đến nay. Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn ĐHQG-HCM. 2013;.
3. Quang LV. Lịch sử thế giới hiện đại. Hồ Chí Minh: Trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn ĐHQG-HCM. 1998;.
4. Hạnh DT. Quan hệ của Australia với Đông Nam Á từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai. Hồ Chí Minh: Nxb. Giáo dục. 1999;.
5. Định TT. Australia tham dự cùng Đông Á - lịch sử phát triển
của một định hướng đối ngoại. Phát triển khoa học và công
nghệ. 2017;(20):5–14.
6. Đàn VX. Quan hệ Australia - Việt Nam: thành tựu và triển vọng.
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một. 2011;2:45–46.
7. Huân VD. Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á
- Thái Bình Dương, Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 2003;.
8. Australian Living Peace Museum. Later Moratorium
September 1970 and June 1971 [Online];Available from:
10. Australian Living Peace Musem. Opposition to the Vietnam
War in Australia [Online].? [cited 2019 Nov 27];Available
11. Thảo DT. Quan hệ Úc - Mỹ từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Hồ Chí
Minh: Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn ĐHQG-
HCM. 2013;.
12. Australia and the Vietnam War. Battle of Binh Ba June
1969 [Online]. [cited 2019 Nov 27];Available from:
13. Harry GG. The Australian - American alliance. Meanjin Quar-
terly. 1968;(27):5.
14. Gillard J. I Always Remember Thinking: American can do any-
thing. Vital Speeches of the Day. 2011;(77):162–166.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
SEATO: South East Asia Treaty Organisation (Tổ chức
Hiệp ước Đông Nam Á)
945
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):939-946
Research Article
Open Access Full Text Article
Australia – a strategic alliance of the US in the period of Vietnam
War (1954-1975)
Nguyen Minh Giang*
ABSTRACT
Although located in a region having close historical-cultural relations with the area of Southeast
Asia, Australia always considers itself and is considered a special outpost of the West in Asia-Pacific.
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
Since World War II up to now, the strategic alliance between Australia and the US has been devel-
oped comprehensively and deeply. Particularly, with the purpose of getting the protection in terms
of security from the US towards the Near-North region, it's obvious that Australia had to accept the
fact that the number of killed and wounded soldiers, advisories, and military workers during the
period of the Vietnam war was equivalent to that of the killed and wounded ones of the two World
Wars when Australia participated along with the British troops. To illustrate the aforementioned
content, this article focuses on analyzing some objective factors including the development of the
movement of national liberation, the founding and rising of Chinese socialism, and the policies of
Southeast Asia of the US during the period of post-World War II, along with some subjective fac-
tors influencing the founding and development of the strategic alliance between Australia and the
US such as the national interest and the role of Australia during the Vietnam war, the economic-
cultural-political platforms of the US-Australia relations, and three-key factors expressing the depth
of these relations including military, politics and diplomacy, culture and education, science and
technology.
Key words: Australia, strategic alliance, the US, Vietnam War
158/7/8 Hoang Hoa am Street, Ward
12, Tan Binh District, Ho Chi Minh City,
Vietnam
Correspondence
Nguyen Minh Giang, 158/7/8 Hoang Hoa
Tham Street, Ward 12, Tan Binh District,
Ho Chi Minh City, Vietnam
Email: minhgiang2797@gmail.com
History
• Received: 20/7/2020
• Accepted: 17/3/2021
• Published: 31/3/2021
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.650
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Cite this article : Giang N M. Australia – a strategic alliance of the US in the period of Vietnam War
(1954-1975). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):939-946.
946
Bạn đang xem tài liệu "Australia - Đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- australia_dong_minh_chien_luoc_cua_hoa_ky_trong_chien_tranh.pdf