Australia - Đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975)

Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946  
Bài nghiên cứu  
Open Access Full Text Article  
Australia - đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt  
Nam (1954-1975)  
Nguyễn Minh Giang*  
TÓM TẮT  
Có vị trí ở khu vực có mối quan hệ lịch sử - văn hóa truyền thống gần gũi với Đông Nam Á nhưng  
Australia lại luôn tự xem và được xem như một tiền đồn đặc biệt của phương Tây ở châu Á - Thái  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
Bình Dương. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Australia cũng đã ngày càng phát triển  
sâu sắc và toàn diện mối quan hệ đồng minh chiến lược với Hoa Kỳ. Đặc biệt, để đánh đổi sự bảo  
hộ an ninh từ Hoa Kỳ đối với khu vực biên giới phía Bắc, Australia đã phải chấp nhận số lượng binh  
lính, cố vấn và nhân viên quân sự bị thương vong trong chiến tranh Việt Nam bằng tổng số lượng  
thương vong trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới mà Australia đã tham chiến cùng với quân đội  
Anh. Để làm rõ nội dung trên, bài viết tập trung phân tích những nhân tố khách quan như sự phát  
triển của phong trào giải phóng dân tộc, sự ra đời và trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc,  
cũng như chính sách Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai của Mỹ và các nhân tố chủ quan  
đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển mối quan hệ đồng minh chiến lược đặc biệt giữa  
Australia và Hoa Kỳ như lợi ích quốc gia và vai trò của Australia trong chiến tranh Việt Nam, những  
cơ sở kinh tế - văn hóa - chính trị của mối quan hệ Australia - Hoa Kỳ, cùng với ba phương diện chủ  
yếu thể hiện mức độ sâu sắc của mối quan hệ này trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam là quân sự,  
chính trị-ngoại giao, văn hóa giáo dục - khoa học kĩ thuật.  
Từ khoá: Australia, đồng minh chiến lược, Hoa Kỳ, chiến tranh Việt Nam  
MỞ ĐẦU  
NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN  
Vi dân số sống tập trung tại vùng biển phía Đông lục  
địa, Australia là quốc gia có mật độ dân số thưa thứ  
tư trên thế giới. Ngay từ khi những người da trắng  
đầu tiên đến định cư, lục địa này đã bị chi phối bởi  
cảm giác lo sợ những người Trung Quốc sẽ xâm nhập  
tràn ngập lãnh thổ, ngay khi thành lập nhà nước Liên  
bang vào năm 1901, nỗi lo sợ về an ninh quốc phòng  
vẫn luôn thường trực như một lý do khác tiếp nối  
cho truyền thống tìm kiếm một “người bảo hộ” về an  
ninh của Australia. Từ chiến tranh ái Bình Dương  
(1942) trở về trước, Anh được xem là người “bảo hộ”  
an ninh của Australia. Tuy nhiên, kể từ khi chiến  
tranh ái Bình Dương đe dọa trực tiếp đến thành  
phố Darwin, quan hệ Anh - Australia dần trở nên  
lỏng lẻo. ông qua Hiệp ước phòng thủ Nam ái  
Bình Dương (ANZUS), và Hiệp ước Manila (1951),  
Australia đã chính thức trở thành đồng minh quan  
trọng của Mỹ trong tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á  
(SEATO). Quan hệ Australia-Hoa Kỳ trở thành hòn  
đá tảng trong chính sách đối ngoại của Australia.  
Trong bối cảnh đó, Australia đã đứng về hàng ngũ các  
thế lực đồng minh của Mỹ công nhận chính quyền Sài  
Gòn, và cùng với Mỹ đưa quân tham chiến tại miền  
Nam Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Việt Nam giai  
đoạn 1965-1973.  
HỆ ĐỒNG MINH CHIẾN LƯỢC GIỮA  
AUSTRALIA VÀ HOA KỲ  
Học viên cao học, Khoa Văn hóa học,  
Trường Đại học Khoa học Xã hội và  
Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam  
Những nhân tố khách quan  
Đồng minh là sự cam kết chính thức giữa các quốc  
gia nhằm phối hợp hay tương trợ lẫn nhau để đối phó  
với vấn đề chung nào đó. Mục đích của đồng minh là  
tạo được quyền lực lớn hơn nhằm kiềm chế, cân bằng  
hoặc vượt hơn với quyền lực của đối thủ, đảm bảo lợi  
ích cho các thành viên. Sự hình thành đồng minh là  
một biện pháp tập hợp lực lượng, đó cũng là cách thức  
thay đổi cán cân so sánh quyền lực nhanh nhất. Đó là  
sự cam kết phối hợp giữa hai hay nhiều quốc gia hỗ trợ  
lẫn nhau về an ninh và quân sự. Trong các liên minh  
chính trị-quân sự đó có thể tồn tại các mối quan hệ  
kinh tế, văn hóa, xã hội, nhưng những mối quan hệ  
ấy chỉ giúp củng cố mối quan hệ cơ bản và nổi trội  
nhất trong liên minh là quan hệ chính trị-quân sự.[1,  
tr.236-237]  
Liên hệ  
Nguyễn Minh Giang, Học viên cao học,  
Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học  
Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM, Việt Nam  
Email: minhgiang2797@gmail.com  
Lịch sử  
Ngày nhận: 20/7/2020  
Ngày chấp nhận: 17/3/2021  
Ngày đăng: 31/3/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.650  
Bản quyền  
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố  
mở được phát hành theo các điều khoản của  
the Creative Commons Attribution 4.0  
International license.  
Waltz trong e origins of alliance cho rằng các nước  
đồng minh liên kết với cường quốc để đối phó với  
mối đe dọa hơn là với những sức mạnh kinh tế - quân  
sự. Các nước đồng minh vừa và nhỏ cảm thấy bị đe  
dọa trước những đối thủ vừa gần gũi về địa lý, vừa có  
Trích dẫn bài báo này: Giang N M. Australia - đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh  
Việt Nam (1954-1975). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):939-946.  
939  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946  
lực lượng quân đội mang tính phòng vệ vượt trội và hơn sau sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, từ đó  
còn luôn mang tư tưởng tấn công, bành trướng ảnh  
hưởng. Sự gần gũi về mặt địa lý giữa Trung Quốc và  
Australia, học thuyết Nhất biên đảo của người Trung  
Quốc cùng với ưu thế về dân số, kết hợp với tư tưởng  
Mao mang khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa cao tột  
độ là mối đe dọa an ninh thực sự có thể tấn công Aus-  
tralia theo nhận thức vào những năm 50 của thế kỷ  
XX. Waltz cũng cho rằng “sự đóng góp của các quốc  
gia vừa và nhỏ đối với đồng minh thực sự có ích ngay  
cả trong thế giới lưỡng cực. Vì vậy, các chính sách  
và chiến lược của các cường quốc chủ yếu được hình  
thành phụ thuộc những tính toán và lợi ích riêng của  
các cường quốc chủ yếu đó.” Đó là lý do, mặc dù Hoa  
Kỳ mạnh hơn cả Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Đài Loan,  
Philippines nhưng các nước đồng minh này đã có ảnh  
hưởng đáng kể đối với chính sách đối ngoại của Hoa  
Kỳ, thậm chí đối với khu vực chứa đựng lợi quốc gia  
sống còn của Hoa Kỳ là Mỹ Latinh.  
Ngày 16/12/1949, Mao Trạch Đông dẫn đầu phái đoàn  
Trung Quốc sang thăm Liên Xô, đàm phán với Stalin  
tới ngày 14/02/1950, hai bên đã đạt được: Hiệp định  
chấp thuận cấp cho Trung Quốc khoản tín dụng 300  
triệu USD trong 5 năm với lãi suất 1% kể từ ngày  
01/01/1951, hiệp định về đường sắt Trường Xuân-  
cảng Lữ uận-Đại Liên, hiệp ước Hữu nghị-Đồng  
minh-Tương trợ Xô-Trung, Tuyên bố hủy bỏ hiệp ước  
Liên Xô - Trung Hoa dân quốc. Từ đây, hiệp ước đã  
tăng cường vị thế của Liên Xô tại khu vực, làm cán  
cân quyền lực nghiêng về hệ thống xã hội chủ nghĩa,  
mở ra điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ  
đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ với Australia nhằm  
tạo lực đà cho chính sách châu Á - ái Bình Dương  
của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh [2, tr.76-79]  
Một trong những nội dung chính của lịch sử quan hệ  
quốc tế hiện đại từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến  
nay cũng là một hệ quả của sự phát triển phong trào  
giải phóng dân tộc, là sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của  
chủ nghĩa thực dân cũ, sự ra đời hệ thống thuộc địa  
kiểu mới của chủ nghĩa thực dân mới. Sự hình thành  
và phát triển của chủ nghĩa thực dân mới không chỉ  
phụ thuộc vào tác động của sự phát triển chủ nghĩa  
xã hội trên thế giới, sự suy yếu của hệ thống thuộc địa  
theo chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, sự khủng hoảng của  
chủ nghĩa tư bản hiện đại và sự thay đổi tương quan  
lực lượng giữa các trung tâm quyền lực trong nội bộ  
hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới, mà còn phụ thuộc  
tác động của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước  
thuộc địa và phụ thuộc đối với cuộc đấu tranh của  
nhân dân yêu chuộng hòa bình vì hòa bình, dân chủ,  
độc lập tự do, phát triển và tiến bộ xã hội. Ngoài ra,  
các hình thức nô dịch của chủ nghĩa thực dân kiểu  
khiến cho lực lượng dân chủ, tiến bộ, yêu chuộng hòa  
bình tham gia đấu tranh cổ vũ phong trào giải phóng  
dân tộc trên thế giới nhiều hơn bao giờ hết. [3, tr.208-  
228] Đồng thời, trên cơ sở thắng lợi liên tục của dòng  
thác lũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới,  
nhiều quốc gia “thế giới thứ Ba” đã được thành lập,  
đã trỗi dậy, vươn mình, phát triển vượt bậc qua các  
chiến lược phát triển kinh tế khác nhau, trở thành  
những quốc gia có tiếng nói đáng kể trên trường quốc  
tế, làm thay đổi căn bản cục diện bản đồ chính trị  
thế giới, nhất là sự trỗi dậy, phát triển ngoạn mục của  
các nước Đông Á đã cho thấy minh chứng mạnh mẽ  
của sự thức tỉnh Châu Á, sự chuyển dịch dần cán cân  
quyền lực kinh tế quan trọng từ các trung tâm kinh  
tế thế giới truyền thống ở các quốc gia phát triển Tây  
Âu - Bắc Mỹ sang các nền kinh tế mới nổi ở châu Á.  
Vì vậy, có thể nói nội dung chính của phong trào giải  
phóng dân tộc ở châu Á sau chiến tranh thế giới thứ  
hai là tiến hành đấu tranh chống lại các hình thức áp  
bức, nô dịch của chủ nghĩa thực dân mới để không  
chỉ giành độc lập dân tộc thực sự và toàn vẹn trên mọi  
lĩnh vực, từ đó làm biến đổi căn bản bản đồ cục diện  
chính trị thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy thời kỳ  
châu Á thức tỉnh mạnh mẽ hơn, tạo động lực cho sự  
chuyển dịch cán cân quyền lực giữa các quốc gia trên  
trường quốc tế. Từ đó, có thể nói, việc phong trào giải  
phóng dân tộc không ngừng lớn mạnh như một khối  
đồng minh vững chắc, tiến bộ đã trở thành một trong  
những nhân tố căn bản đánh bại hoàn toàn khối đồng  
minh thù địch gồm các nước tư bản chủ nghĩa có xu  
hướng thân Hoa Kỳ. Tác động lớn nhất của phong  
trào giải phóng dân tộc Đông Nam Á sau chiến tranh  
thế giới thứ hai chính là đã góp phần đáng kể làm sụp  
đổ căn bản cả hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực  
dân, để lại bài học sâu sắc về sức mạnh của sự hợp tác  
cùng đấu tranh chống kẻ thù chung trong một khối  
đồng minh dựa trên những lợi ích chính đáng.  
Những nhân tố chủ quan  
Về cơ bản, Australia là nước TBCN hiện đại có nền  
tảng kinh tế lớn, phát triển, đại đa số lao động có trình  
độ cao, tầng lớp trung lưu cấp tiến chiếm số lượng  
đông đảo trong xã hội, tầng lớp đại tư sản tư bản công  
nghiệp tài chính - ngân hàng kết hợp với chủ kinh  
doanh của các tập đoàn kinh tế khổng lồ ngày càng  
chi phối các quyết sách chính trị của chính phủ, trở  
thành giai cấp nắm quyền thống trị kinh tế - xã hội  
Australia. Do đó, bản chất đường lối chính trị của các  
đảng chính trị tại Australia nhìn chung là bảo vệ tư  
sản vừa và nhỏ, tầng lớp đại tư sản cầm quyền, chống  
mới cũng đa dạng, phong phú, linh hoạt và bao quát chủ nghĩa xã hội, tăng cường thực thi chủ nghĩa đa  
940  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946  
nguyên, đa văn hóa, phổ biến các giá trị dân chủ tự sự kiểm soát của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc là một  
do. Tính chất ổn định về đường lối đối ngoại thể hiện nỗi kinh hoàng đối với Australia - đất nước đã nuôi  
cụ thể qua việc các đảng chính trị đều nhằm cùng một dưỡng hàng trăm năm nỗi căm thù khiếp sợ người  
nguyên tắc cơ bản thống nhất với sự phát triển của Trung Quốc, những người buộc chính phủ Australia  
chủ nghĩa tư bản, với nguyên tắc về sở hữu tư nhân, theo đuổi chính sách Nước Australia da trắng nhằm  
về kinh tế thị trường và thừa nhận sự phân tầng xã giảm sự chảy máu của nền kinh tế Australia những  
hội.[4, tr.22-23]  
năm 1850 đến nay.  
Australia ban đầu chỉ nhìn nhận phong trào giải Pháp trao quyền tự trị cho chính phủ liên hiệp Quốc  
phóng dân tộc ở Việt Nam như một phong trào dân gia Việt Nam của Bảo Đại, Australia lập tức công nhận  
tộc chủ nghĩa, là công việc nội bộ tình hình quốc gia và thiết lập quan hệ ngoại giao, các hoạt động viếng  
và không phải là vùng lợi ích trực tiếp của Australia thăm và làm việc với chính phủ Bảo Đại được diễn ra  
dù về kinh tế hay về an ninh quân sự quốc phòng. giữa ngoại trưởng Australia Richard Cassey và Quốc  
Trước khi Chiến tranh Lạnh bùng nổ, Australia coi trưởng Bảo Đại. Tất cả những động thái trên có thể  
cuộc kháng chiến Việt Nam chống lại chiến tranh xâm được hiểu là do bối cảnh Chiến tranh Lạnh đã đưa  
lược Đông Dương lần thứ hai của thực dân Pháp là Australia đứng về hàng ngũ những người dân tộc chủ  
công việc nội bộ của một thuộc địa. Góc nhìn ấy được nghĩa có cùng ý thức hệ dân chủ tự do với Australia để  
chia sẻ qua chính tin tức của Bộ Ngoại giao và ương bảo đảm an ninh cho Bắc Australia, vốn chỉ cách Hà  
mại Australia đăng tải trên tạp chí Current Notes on Nội một khoảng đúng bằng từ Perth (Tây Australia)  
International Affairs “Cao ủy Pháp tại Đông Dương đã tới Brisbane (Queensland). Việc giúp đỡ tối đa cho  
ký kết một hiệp định với những người Việt Nam theo chính phủ Bảo Đại giành ưu thế so với Việt Nam Dân  
chủ nghĩa dân tộc, từ đó giải quyết ổn thỏa tranh chấp chủ Cộng hòa trong cuộc tổng tuyển cử dự kiến diễn  
về việc quân đội Pháp hiện diện tại miền Bắc Việt Nam. ra năm 1956, việc kêu gọi nỗ lực tập trung kiến tạo  
[5, tr.5-14] eo đó, Việt Minh là một trào lưu dân một cấu trúc an ninh phòng thủ tập thể tại Đông Á chỉ  
tộc chủ nghĩa và tình hình chính trị Đông Dương vì bao gồm các nước đồng minh phương Tây trở nên cấp  
vậy chưa phải mối hiểm họa đe dọa đến an ninh quốc thiết hơn bao giờ hết. Chính vị trí địa lý xa cách, biệt  
phòng của Australia. Song sau khi các nhà nước và lập với các nước phương Tây, cùng với tâm lý mang  
cách mạng ở Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc lần trong mình là “tiền đồn của phương Tây ở ái Bình  
lượt ra đời thì góc nhìn của Australia đã thay đổi hoàn Dương, nên Australia luôn không ngừng kêu gọi thúc  
toàn.[6, tr.45-46] Tuy nhiên, vì nhận thức không thể giục các nước đồng minh phương Tây chống lại “thảm  
dựa vào Anh - một nước đế quốc có vùng lợi ích cốt họa cộng sản xâm lăng” để có thể đảm bảo an ninh khu  
lõi ở châu Âu và Bắc Phi, nên Australia đã quyết định vực giàu tài nguyên hàng đầu thế giới. Đó cũng là lý  
chọn và thuyết phục Hoa Kỳ trở thành “người bảo do chính sách Phòng thủ tiền tiêu của Australia ra đời  
hộ” mới. Và bằng việc tham gia hiệp ước phòng thủ như một công cụ ràng buộc sự hiện diện của Hoa Kỳ  
Nam ái Bình Dương ANZUS năm 1951 vốn được tại Đông Nam Á chặt chẽ hơn, từ đó có “người bảo hộ”  
kỳ vọng như một cam kết thể hiện sự bảo vệ toàn diện về an ninh đảm bảo cho Australia.  
của Mỹ đối với những lợi ích chiến lược của Canberra Cho đến tận cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của  
ở Đông Nam Á, có thể nói, Australia đã hưởng ứng thế kỷ XX, khi Chiến tranh Việt Nam dần đi đến hồi  
ngay lập tức học thuyết Domino của Eisenhower, lấy kết, Australia vẫn tiếp tục xây dựng góc nhìn Đông  
tư cách đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ để tham Nam Á qua nhãn quan lợi ích chiến lược về an ninh  
chiến trực tiếp tại Việt Nam, bảo vệ an ninh phòng khu vực và kinh tế quốc tế, từ đó hoạch định chính  
thủ Bắc Australia khỏi sự lây lan nguy hiểm của chủ sách đối ngoại mới Hướng về châu Á đảm bảo lợi ích  
nghĩa Mao. Rõ ràng, đó là lợi ích cốt lõi, thiết thực quốc gia về kinh tế và an ninh quốc phòng của Aus-  
nhất khiến Australia tham chiến tại Việt Nam vì nhận tralia tại khu vực Đông Á. Những chính sách xoay  
thức mang tính bước ngoặt trong tư duy đối ngoại của quanh quyết định đưa quân tham chiến trực tiếp tại  
chính phủ Australia “Việt Nam không còn là vùng đất Việt Nam cho thấy trọng tâm chính sách đối ngoại  
mà Australia không có lợi ích quốc gia trực tiếp nào.  
của Australia giai đoạn này chính là nhận thức về một  
Australia hình dung Việt Nam rơi vào tay Liên Xô hay Đông Nam Á như khu vực ẩn chứa đầy những nguy  
Trung Quốc thì Mã Lai, Miến Điện, ái Lan và In- cơ có thể đe dọa an ninh khu vực Cận Bắc của Aus-  
donesia sẽ là những mục tiêu tiếp theo của chủ nghĩa tralia bất cứ lúc nào. Trong khi đó, Mỹ tập trung lực  
xã hội. Australia nằm ở vị trí cuối cùng của dãy quân lượng theo cái gọi là khác biệt ý thức hệ, thực chất là  
cờ domino, do đó, nếu không ngăn chặn sự thắng lợi để tăng cường sức ảnh hưởng của Mỹ, đồng thời ngăn  
của chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương, Australia cũng chặn sức ảnh hưởng của mọi siêu cường trỗi dậy nào  
sẽ bị đe dọa. Việc hàng loạt quân cờ sụp đổ, sẽ rơi vào khác thách thức mưu đồ, tham vọng bá chủ toàn cầu  
941  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946  
của Mỹ. Việc Mỹ chấp nhận hợp tác quân sự với Aus- không quân hoàng gia Australia đã gửi một phi đội  
tralia, New Zealand cũng được xem là một bước của Lộc Nam tới cảng Vũng Tàu. Đến đầu năm 1965, khi  
kế hoạch đó, đặc biệt khi các căn cứ quân sự của Mỹ miền Nam Việt Nam rõ ràng đã không thể ngăn chặn  
không còncó khả năng phát triển và phát huy tác dụng các thành viên xã hội chủ nghĩa miền Bắc được nữa,  
ở Philippines, Australia lại đang “tự nguyện, mời Hoa Kỳ bắt đầu leo thang chiến tranh ra miền Bắc.  
gọi. Tuy nhiên, quan hệ đồng minh chiến lược Mỹ Cuối năm 1965, Hoa Kỳ đã đưa 20 vạn quân trực tiếp  
và Australia là “đồng sàng dị mộng. Vì vậy, cách tiếp tham chiến tại Việt Nam. Để hưởng ứng đáp lại như  
cận học thuyết Domino dù tương đồng ít nhiều nhưng một sự ủng hộ trong vai trò đồng minh chiến lược của  
Mỹ, Australia đã gửi tiểu đoàn Đệ Nhất, Trung đoàn  
Hoàng gia Australia (IRAR) đến phục vụ sát cánh  
cùng Lữ đoàn không quân 173 của Hoa Kỳ tại Biên  
Hòa. áng 3/1966, chính phủ Australia thông báo  
gửi một lực lượng đặc biệt thay cho IRAR gồm hai tiểu  
đoàn và một phi đội RAAF đóng tại Núi Đất, Phước  
Tuy. Khác với RAAR, lực lượng đặc nhiệm này được  
giao cho một khu vực hoạt động riêng, gồm cả dự bị  
được tuyển mộ theo Đề án Quân dịch quốc gia năm  
1964. Tất cả 9 tiểu đoàn RAR phục vụ trong lực lượng  
đặc nhiệm ấy đến hết năm 1971. Vào giai đoạn đỉnh  
điểm cuối năm 1967 - đầu năm 1968, quân số Aus-  
tralia lên đến 8500 người bao gồm cả nhân viên phục  
vụ nói chung, cán bộ quân đội và quân trực tiếp chiến  
đấu nói riêng. 1/3 phi đội RAAF của lực lượng ném  
bom phản lực Canberra cũng đã được tham chiến vào  
năm 1967, các tàu khu trục của Hải quân hoàng gia  
cũng đã cùng những người lính tuần tra Hoa Kỳ tuần  
tra ngoài khơi miền Bắc Việt Nam. Ngoài ra, Hải quân  
Hoàng gia Australia còn góp một đội lặn rà phá mặt  
biển, một trực thăng tháo rời được quân đội Hoa Kỳ  
vận hành vào tháng Mười năm 1967.8  
áng 6/1969, bất chấp bất lợi về địa bàn chiến đấu,  
không phải tại rừng núi hiểm trở mà tại một địa hình  
đô thị, đồng bằng duyên hải, ở miền Trung tỉnh Phước  
Tuy, quân đội Australia với ưu thế hai chiếc xe tăng  
bọc thép đã đẩy lùi 130 quân Giải phóng, bắt 8 bộ đội  
Việt Nam làm tù binh, và chỉ bị thương 8 người lính  
Australia.9  
Đến cuối năm 1970, Australia bắt đầu giảm nỗ lực  
quân sự tại miền Nam Việt Nam. Tiểu đoàn 8 khởi  
hành vào tháng 11 năm 1970 chỉ để bù đắp sự suy  
giảm về quân số Australia tại Phước Tuy. Việc rút  
quân tiếp tục được triển khai trong suốt năm 1971,  
tiểu đoàn cuối cùng đã rời khỏi Núi Đất, Phước Tuy  
vào ngày 7/11/1971. Đến tháng 12/1972, tổ Cố vấn  
trở thành những người lính Australia cuối cùng trở  
chỉ phần nào cho thấy sự trùng khớp ngẫu nhiên giữa  
lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ và Australia khi tham  
chiến trực tiếp tại miền Nam Việt Nam.  
Về cơ bản, lợi ích của Hoa Kỳ ở Việt Nam nói riêng và  
Đông Nam Á hay Châu Á ái Bình Dương nói chung  
trong giai đoạn 1954-1975 gồm ba nhóm: lợi ích sống  
còn, lợi ích chiến lược và lợi ích quan trọng khác. Về  
lợi ích sống còn của Hoa Kỳ ở Việt Nam, không gì khác  
hơn chính là mong muốn thiết lập bá quyền, mở rộng  
bá quyền ra toàn thế giới. Việc truyền bá giá trị dân  
chủ tự do và văn hóa đại chúng Mỹ chính là một bộ  
phận của mục tiêu bá chủ toàn cầu đó “là người dẫn  
dắt cả thế giới còn trong bóng tối, từ đó thiết lập và duy  
trì vị trí, vai trò lãnh đạo một trật tự thế giới mới của  
Mỹ. Với việc luôn coi chủ nghĩa xã hội Trung Quốc  
là một mối đe dọa đối với nền an ninh chính trị toàn  
cầu của mình, Hoa Kỳ đã coi quan hệ Mỹ-Trung như  
một trong những nhân tố có thể làm thay đổi lợi ích  
của Mỹ, và quyết định quan trọng đến mối quan hệ  
của Hoa Kỳ với các nước đồng minh chiến lược trong  
Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ có bốn lợi ích chiến lược  
quan trọng tại Việt Nam nói riêng, Đông Nam Á nói  
chung là:  
1. một môi trường ổn định đảm bảo điều kiện thuận  
lợi cho các hoạt động đầu tư thương mại của Hoa Kỳ  
tại khu vực,  
2. an ninh thương mại khu vực ái Bình Dương,  
3. tự do giao thương đường biển,  
4. ngăn chặn bất kỳ khối liên minh hay cường quốc  
nào trỗi dậy tại khu vực.[7, tr.83-90]  
QUAN HỆ ĐỒNG MINH CHIẾN LƯỢC  
AUSTRALIA-MỸ TRONG CHIẾN  
TRANH VIỆT NAM  
Thắt chặt hợp tác quân sự, tham chiến cùng  
Mỹ tại miền Nam Việt Nam  
Tiếp theo sau cuộc chiến tranh bán đảo Triều Tiên về quê nhà sau mười năm rưỡi phục vụ tại miền Nam  
1950-1953 với 300 binh lính bị hy sinh, tháng 7/1962, Việt Nam (từ tháng 7/1962 tới tháng 12/1972). Ngày  
Australia gửi đến Việt Nam 30 cố vấn huấn luyện 11 tháng 01 năm 1973, thủ tướng Australia chính thức  
chiến thuật chống lại chiến tranh du kích. Chuyến ban hành lệnh tuyên bố chấm dứt sự tham chiến của  
đi đến miền Nam Việt Nam vào tháng 7 và tháng 8 Australia tại Việt Nam, và chỉ giữ lại một trung đội  
năm 1962 của Đội huấn luyện quân sự Australia tại bảo vệ sứ quán Australia tại Sài Gòn. áng Tư năm  
Việt Nam (AATTV) đã mở đầu cho sự tham chiến 1975, một phi đội RAAF của Hercules đã thực hiện  
của Australia tại Việt Nam. áng 8/1964, lực lượng nhiệm vụ nhân đạo quốc tế hỗ trợ người tị nạn, tiến  
942  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946  
hành sơ tán trẻ em Babyliꢀ khỏi Việt Nam, và ngày bao vây chặt chẽ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa  
25/04/1975, toàn bộ trung đội bảo vệ và nhân viên đại Á Âu, từ đó kìm hãm phong trào giải phóng dân tộc,  
sứ quán Australia tại Sài Gòn đã rút về nước.10  
Sau hơn mười năm tham chiến tại miền Nam Việt  
Nam, 521 người lính Australia đã tử trận, hơn 3000  
người bị thương. Từ 30 cố vấn huấn luyện chiến thuật  
chống lại chiến tranh du kích được gửi đến Việt Nam  
vào tháng 7/1962, quân số Australia đã lên đến 7672  
binh lính chiến đấu tại Việt Nam vào cuối năm 1967  
- đầu năm 1968. Trong vòng 9 năm từ 1965 đến 1973,  
đã có 8300 binh lính và gần 47000 nhân viên quân đội  
Australia được cử đến phục vụ chiến tranh tại Việt  
Nam. [11, tr.23]  
phong trào công nhân, phong trào cộng sản thế giới.  
Nhìn chung, mục tiêu của Australia khi tham dự vào  
ANZUS, SEATO đều là “chống chủ nghĩa xã hội, và  
mối đe dọa từ sự bành trướng của Trung Quốc…thúc  
đẩy cùng tồn tại hòa bình, hiệu quả…bảo đảm nền an  
ninh quốc gia của Australia. Tư cách thành viên của  
chúng ta trong các hiệp ước ANZUS và SEATO đã phản  
ánh quan điểm này và đồng thời nói lên việc chúng ta  
không đủ khả năng để bảo đảm cho nền an ninh của  
mình nếu không có sự giúp đỡ của một nước lớn khác”  
[4, tr.94-100]  
Định hình và phát triển hợp tác văn hóa-  
giáo dục-khoa học kĩ thuật trong quan hệ  
đồng minhchiếnlượcAustralia -HoaKgiai  
đoạn Chiến tranh Việt Nam  
Củng cố và mở rộng quan hệ chính trị - an  
ninh Australia-Hoa Kỳ trong giai đoạn chiến  
tranh Việt Nam  
Là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của  
Australia trong suốt nửa thế kỷ Chiến tranh Lạnh,  
ANZUS là hiệp ước an ninh phòng thủ song phương  
quan trọng nhất, vẫn tiếp tục tồn tại trên cơ sở chia  
sẻ lợi ích an ninh giữa các thành viên trong việc gạt  
bỏ sức ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội Liên Xô và  
Trung Quốc. Sự tồn tại của hiệp ước ANZUS vì vậy  
không có những yếu tố bấp bênh, không rõ ràng như  
các hiệp ước khác, quan hệ của Australia với Hoa Kỳ.  
eo quan điểm của Australia, chính sự hiện diện về  
lâu dài của Hoa Kỳ tại khu vực là điều kiện tiên quyết  
đảm bảo sự ổn định về an ninh của cả khu vực, trong  
đó có Australia.  
Kể từ ngày 4 tháng 7 năm 1918, khi quân đội Aus-  
tralia và Hoa Kỳ lần đầu tiên sát cánh bên nhau trong  
Trận Hamel, binh lính Australia và Hoa Kỳ - thủy thủ  
- thủy quân lục chiến - lính không quân và phụ nữ đã  
phục vụ cùng nhau trong mọi cuộc xung đột lớn. Đây  
là biểu tượng của sự ràng buộc sâu sắc và lâu dài, tôn  
trọng lẫn nhau và hợp tác chặt chẽ tồn tại giữa Aus-  
tralia và Hoa Kỳ. Mối quan hệ giữa Australia và Hoa  
Kỳ là duy nhất về chiều rộng, chiều sâu và chiều dài  
và được đặc trưng bởi mối quan hệ văn hóa đích thực  
và tinh thần hợp tác. Mối quan hệ đương đại giữa hai  
quốc gia bao gồm nhiều lĩnh vực nỗ lực chung, bao  
Nếu như ANZUS đóng vai trò hòn đá tảng trong gồm hợp tác quốc phòng và an ninh, liên kết đầu tư và  
chính sách đối ngoại của Australia thì SEATO đã đặt thương mại rộng lớn tạo công ăn việc làm cho người  
cơ sở hợp pháp cho chính sách Phòng thủ tiền tiêu Australia và người Mỹ, trao đổi văn hóa, cạnh tranh  
của quốc gia này. Trong khuôn khổ hiệp ước SEATO, thể thao, tham gia giáo dục, nghiên cứu và phát triển  
Australia không che giấu quan điểm tìm kiếm sự bảo và du lịch.  
trợ an ninh của Hoa Kỳ trong không gian sinh tồn Hiệp ước đầu tiên được ký giữa Hoa Kỳ và Australia  
Đông Nam Á, rộng hơn là châu Á - ái Bình Dương. là thỏa thuận năm 1949 thành lập Chương trình Ful-  
Nổi bật là phát biểu của Ngoại trưởng Australia Bury bright và kể từ đó, hơn 5.000 người Australia và người  
vào năm 1971 “SEATO có giá trị đối với chúng ta vì Mỹ Mỹ đã nhận được học bổng Fulbright. Hoa Kỳ và Aus-  
đã cam kết giúp đỡ không chỉ Australia, New Zealand tralia đã ký kết một hiệp ước tương trợ pháp lý để  
mà còn với cả Philippines, Việt Nam Cộng hòa và ái tăng cường hợp tác song phương về các vấn đề pháp  
Lan. Mặc dù không chính thức đề cập đến chủ nghĩa lý và chống ma túy. Hai nước cũng đã ký các hiệp ước  
xã hội nhưng Hoa Kỳ đã khẳng định cam kết của quốc hợp tác thương mại quốc phòng và thuế, cũng như  
gia này với các nước thành viên còn lại của hiệp ước các thỏa thuận về hợp tác y tế, không gian, khoa học  
chỉ áp dụng khi lãnh thổ và an ninh của các nước và công nghệ, hợp tác quản lý khẩn cấp và an sinh xã  
thành viên bị chủ nghĩa xã hội tấn công; đồng thời, hội. Nhiều tổ chức của Hoa Kỳ tiến hành các hoạt  
liên tiếp trong các cuộc họp của SEATO năm 1956, động khoa học hợp tác tại Australia.12  
1958, 1960, 1961 đều thảo luận chương trình tăng Năm 1950, Australia khởi xướng kế hoạch Colombo  
cường lực lượng vũ trang trong từng quốc gia, các với mục tiêu viện trợ kinh tế cho các nước Nam Á và  
chương trình phối hợp hoạt động quân sự. Cùng với Đông Nam Á. Chỉ sau 4 năm, kế hoạch Colombo đã  
NATO, CENTO, ANZUS, SEATO, Hoa Kỳ đã thiết lập thu hút sự tham gia của Canada, New Zealand, Hoa  
một hệ thống mạng lưới an ninh phòng thủ liên hoàn, Kỳ, Nhật Bản, Sri Lanka và các quốc gia châu Á. Đây  
943  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946  
là một phần của kế hoạch ngăn chặn và đẩy lùi chủ phía Bắc từ một “người khổng lồ” để chống lại mọi mối  
nghĩa xã hội mà Australia, Hoa Kỳ và các nước đồng đe dọa có thể đến từ phương Bắc, Australia đã tìm  
minh chiến lược khác của Mỹ đều muốn thông qua kiếm, lôi kéo và “bán mình” cho mối quan hệ đồng  
kế hoạch để đẩy lùi đói nghèo, từ đó thu hẹp phạm vi minh chiến lược với Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ Chiến  
không gian ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội tại Nam tranh Việt Nam (1954-1975). Đây không chỉ là cuộc  
Á và Đông Nam Á. Trong giai đoạn 1950-1971, nhập chiến dai dẳng, ác liệt nhất trong lịch sử Australia và  
khẩu từ Hoa Kỳ chiếm 8,2% tổng giá trị nhập khẩu Hoa Kỳ, chính thức biến miền Nam Việt Nam thành  
của Australia, đồng thời, Hoa Kỳ cũng chiếm 15,2% tiền đồn của chủ nghĩa thực dân Mỹ kiểu mới để ngăn  
giá trị xuất khẩu của Australia. Đây là đối tác thương chặn và đẩy lùi hoàn toàn ảnh hưởng của chủ nghĩa  
mại lớn thứ hai của Australia trong giai đoạn này, chỉ xã hội Trung Quốc tràn xuống khu vực Đông Nam Á,  
sau Anh. [11, tr.25]  
mà còn là bước ngoặt chấm dứt hoàn toàn cuộc chiến  
Kế hoạch Colombo ra đời năm 1950, thời điểm cuộc phi nghĩa của hàng loạt nước đồng minh và Hoa Kỳ  
chiến tranh Triều Tiên đánh dấu làm cho bầu không với chủ nghĩa xã hội ở châu Á, để lại bài học sâu sắc  
khí căng thẳng, Công đảng tại Australia thất bại trước cho nhân loại về sự quyết định của tính chính nghĩa  
liên đảng Tự do - Quốc gia đẩy mạnh quan điểm của đối với sự tồn tại và phát triển của bất kỳ mối quan  
Hoa Kỳ. Kế hoạch Colombo tuy không phải là hiệp hệ đồng minh nào được hình thành trên trường quốc  
ước an ninh, phòng thủ nhưng về sâu xa, động cơ tế. Trong bối cảnh đó, để đánh đổi sự bảo hộ an ninh  
chính trị của nó cũng không nằm ngoài mục tiêu ngăn từ Hoa Kỳ đối với khu vực biên giới phía Bắc của đất  
chặn chủ nghĩa xã hội như ANZUS, SEATO. Chính nước, Australia đã phải chấp nhận số lượng đội cố vấn  
tính chính trị đó đã lý giải tại sao kế hoạch Colombo - nhân viên quốc phòng và thanh niên phục vụ nghĩa  
lại hoàn toàn bỏ trống miền Bắc Việt Nam - lãnh địa vụ quân sự bị thương vong bằng tổng số lượng thương  
của chủ nghĩa xã hội. Vi nhận thức coi đói nghèo, vong trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới mà Aus-  
bệnh tật, lạc hậu là những điều kiện thuận lợi cho sự tralia đã quyết định tham chiến cùng Anh. Sự tham  
chiến của Australia trong Chiến tranh Việt Nam như  
một phương tiện đảm bảo sự hiện diện của Hoa Kỳ ở  
châu Á - ái Bình Dương trước nguy cơ cao về sự rút  
lui của Anh khỏi bờ Đông kênh đào Suez.  
phát triển của chủ nghĩa xã hội, kế hoạch Colombo  
đã được đề ra để ổn định kinh tế - chính trị - tiến bộ  
xã hội Đông Nam Á và nhận được sự ủng hộ mang  
tính cam kết theo chu kỳ 3 năm từ các nước Australia,  
Canada, New Zealand. Tính đến năm 1968, Australia  
đã gửi hơn 1500 chuyên gia đến các quốc Á - Phi -  
Nam ái Bình Dương, đào tạo hơn 9400 học sinh,  
sinh viên từ các nước này theo chương trình của kế  
hoạch Colombo. Bên cạnh đó, kế hoạch Colombo  
còn tập trung phát triển kinh tế theo nhu cầu của các  
quốc gia nhận viện trợ. Nhìn chung, các khoản viện  
trợ trong khuôn khổ Kế hoạch Colombo đã rút ngắn  
khoảng cách chênh lệch kinh tế xã hội giữa Australia  
và các quốc gia Đông Nam Á, từ đó đảm bảo các nước  
này không trở thành miền đất hứa đối với chủ nghĩa  
xã hội Trung Quốc và có thể đảm bảo an ninh phòng  
thủ cho Australia từ những quân cờ domino đầu tiên.  
Kế hoạch Colombo nhờ đó đã dẹp bỏ dần dần lo ngại  
của Australia về sự bành trướng ảnh hưởng của chủ  
nghĩa xã hội ở Đông Nam Á.[4, tr.92-93]  
Hiệp ước an ninh ANZUS được xem như hòn đá tảng  
trong chính sách đối ngoại của Australia ở Đông Nam  
Á, là hiệp ước an ninh phòng thủ song phương quan  
trọng nhất, vẫn tiếp tục tồn tại trên cơ sở chia sẻ lợi  
ích an ninh giữa các thành viên trong việc gạt bỏ sức  
ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội. Sự tồn tại của hiệp  
ước ANZUS vì vậy không có những yếu tố bấp bênh,  
bất định như các hiệp ước quan hệ đồng minh khác.  
Quan hệ đồng minh chiến lược Australia - Hoa Kỳ  
trong khuôn khổ hiệp ước ANZUS đã giúp Hoa Kỳ  
có thể tận dụng lãnh thổ của Australia cho các hoạt  
động quân sự của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á. Ngược lại,  
những cam kết của Hoa Kỳ trong bảo vệ Australia khỏi  
tấn công, đe dọa về an ninh và quốc phòng từ Trung  
Quốc, Nhật Bản và các nước láng giềng trực tiếp Đông  
Nam Á cũng đã góp phần không nhỏ trong việc dẹp  
bỏ những ưu tư, lo lắng, quan ngại và ám ảnh sâu sắc  
của Australia. Hiệp ước ANZUS đã thể hiện rõ mối  
KẾT LUẬN  
Australia là một nước tư bản chủ nghĩa hiện đại, có quan hệ đồng minh chiến lược chặt chẽ của Australia  
tầng lớp đại tư sản, và các tập đoàn tư bản khai khoáng với Hoa Kỳ trên các lĩnh vực tình báo, công nghệ quốc  
khổng lồ chi phối đáng kể chính sách kinh tế - chính phòng, các kế hoạch yểm trợ và hậu cần, qua đó hỗ trợ  
trị xã hội của Australia. Vi nền tảng tư tưởng chính răn đe hiệu quả mọi cuộc tấn công vào lãnh thổ trong  
trị chủ yếu đề cao những giá trị dân chủ tự do phương vòng 1000 dặm quanh vùng lãnh thổ phía Bắc Aus-  
Tây, lại có vị trí địa lý đặc biệt là tiền đồn của phương tralia. Cả một thế hệ những người Australia học cách  
Tây ở châu Á - ái Bình Dương, trong bối cảnh luôn nhìn thế giới qua lăng kính phiến diện của họ. Cả một  
phải tìm kiếm một “chiếc ô bảo h” an ninh biên giới thế hệ người dân Australia bị phân hóa mạnh mẽ bởi  
944  
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Khoa học Xã hội và Nhân văn, 5(1):939-946  
cuộc chiến này. Sự thất bại của quân đội Australia, NATO: North Atlantic Treaty Organisation (Tổ chức  
Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh trực tiếp tham  
chiến khác đã đặt Liên minh Bảo thủ ở Australia bên  
bờ vực tín nhiệm thấp nhất và đi đến thất bại trong  
cuộc bầu cử năm 1972, dẫn đến sự trở lại của chính  
quyền Công đảng sau 23 năm vắng bóng trên chính  
trường (1949-1972) [4; tr.43-44]. Hiệp ước ANZUS  
đã thể hiện rõ mối quan hệ đồng minh chiến lược  
chặt chẽ của Australia với Hoa Kỳ trên các lĩnh vực hỗ  
trợ răn đe hiệu quả mọi cuộc tấn công vào trong 1000  
dặm quanh vùng lãnh thổ phía Bắc Australia. Đồng  
minh với Hoa Kỳ trong thế kỷ XX vì vậy đã trở thành  
trụ cột trong chính sách đối ngoại của Australia nhằm  
bảo đảm chống lại một cuộc tấn công từ bên ngoài đe  
dọa nền an ninh của quốc gia này. Các thủ tướng từ cả  
hai chính đảng lớn đã đưa ra những tuyên bố thống  
nhất về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Aus-  
tralia với Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ là anh cả của Australia”  
(Billy Hughes) [13, tr.5]; “Hoa Kỳ là lá chắn của nó”  
(Harold Holt); và “Hoa Kỳ là một đồng minh trong  
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương)  
CENTO: e Central Treaty Organisation (Tchức  
Hiệp ước Trung ương)  
ANZUS: Australia, New Zealand, United States Secu-  
rity Treaty (Khối Hiệp ước An ninh quân sự Australia,  
New Zealand, Mỹ)  
XUNG ĐỘT LỢI ÍCH  
Bản thảo này không có xung đột lợi ích.  
ĐÓNG GÓP CỦA TÁC GIẢ  
Tác giả đã sưu tầm tài liệu luận văn, luận án, kỷ yếu  
khoa học, các bài đăng từ Trung tâm ông tin - ư  
viện Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại  
học Quốc gia ành phố Hồ Chí Minh, từ các web-  
site uy tín của ư viện Trung tâm Đại học Quốc gia  
ành phố Hồ Chí Minh, Đại học Macquarie, Đại học  
Quốc gia Australia, website Academia, Researchgate,  
và website tài nguyên số của Bộ Khoa học và Công  
nghệ Việt Nam.  
suốt nhiều năm tới” (Julia Gillard)14  
.
Chiến tranh Việt Nam đã đi qua hơn bốn mươi năm.  
Quan hệ đồng minh chiến lược giữa Australia và Hoa  
Kỳ tuy đã gặp không ít gợn sóng, trục trặc, nhưng vẫn  
được xem như hòn đá tảng lớn nhất, được sự thống  
nhất rộng rãi nhất của cả lưỡng đảng cầm quyền lớn  
nhất Australia. Trọng tâm trong chính sách đối ngoại  
của Australia vẫn là lợi ích cốt lõi về an ninh và kinh  
tế qua đường biển thông qua hàng loạt eo biển nằm  
trên tuyến đường thương mại biển huyết mạch Đông  
Nam Á. Nhưng hợp tác trên lĩnh vực văn hóa - giáo  
dục - khoa học kĩ thuật giữa Australia và Hoa Kỳ đã  
ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.  
Đặc biệt, quan hệ hợp tác về giáo dục giữa Australia -  
Hoa Kỳ đã góp phần củng cố đáng kể sức mạnh mềm  
của Australia thông qua công nghệ xuất khẩu mô hình  
giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới. Bài học về thất  
bại của quan hệ đồng minh Australia-Hoa Kỳ trong  
chiến tranh Việt Nam sẽ vẫn còn có giá trị to lớn trong  
bối cảnh Australia cùng với các nước phương Tây đều  
đang ráo riết hình thành những khối quan hệ đồng  
minh về chính trị - an ninh có ảnh hưởng không nhỏ  
đến tình hình kinh tế-chính trị thế giới nhằm mục  
đích gia tăng sức mạnh kiềm chế sự trỗi dậy của Trung  
Quốc. eo đó, Australia cần tỉnh táo và tăng cường  
tính tự chủ, sáng tạo trong quan hệ đối ngoại, từ đó  
giảm phụ thuộc về kinh tế - chính trị - an ninh đến  
mức “bán mình” cho bất kỳ cường quốc thế giới nào.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Nam HK. Quyền lực trong quan hệ quốc tế: lịch sử và vấn đề.  
Hà Nội: Nxb Văn hóa thông tin. 2012;.  
2. Đức ThiệnL. Sự biến đổiđịa chínhtrị ĐôngNam Á tsau Chiến  
tranh Lạnh đến nay. Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học xã  
hội và Nhân văn ĐHQG-HCM. 2013;.  
3. Quang LV. Lịch sử thế giới hiện đại. Hồ Chí Minh: Trường Đại  
học Khoa học xã hội và Nhân văn ĐHQG-HCM. 1998;.  
4. Hạnh DT. Quan hệ của Australia với Đông Nam Á từ sau chiến  
tranh thế giới thứ hai. Hồ Chí Minh: Nxb. Giáo dục. 1999;.  
5. Định TT. Australia tham dự cùng Đông Á - lịch sử phát triển  
của một định hướng đối ngoại. Phát triển khoa học và công  
nghệ. 2017;(20):5–14.  
6. Đàn VX. Quan hệ Australia - Việt Nam: thành tựu và triển vọng.  
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một. 2011;2:45–46.  
7. Huân VD. Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á  
- Thái Bình Dương, Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 2003;.  
8. Australian Living Peace Museum. Later Moratorium  
September 1970 and June 1971 [Online];Available from:  
10. Australian Living Peace Musem. Opposition to the Vietnam  
War in Australia [Online].? [cited 2019 Nov 27];Available  
11. Thảo DT. Quan hệ Úc - Mỹ từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Hồ Chí  
Minh: Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn ĐHQG-  
HCM. 2013;.  
12. Australia and the Vietnam War. Battle of Binh Ba June  
1969 [Online]. [cited 2019 Nov 27];Available from:  
13. Harry GG. The Australian - American alliance. Meanjin Quar-  
terly. 1968;(27):5.  
14. Gillard J. I Always Remember Thinking: American can do any-  
thing. Vital Speeches of the Day. 2011;(77):162–166.  
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT  
SEATO: South East Asia Treaty Organisation (Tổ chức  
Hiệp ước Đông Nam Á)  
945  
                           
Science & Technology Development Journal – Social Sciences & Humanities, 5(1):939-946  
Research Article  
Open Access Full Text Article  
Australia – a strategic alliance of the US in the period of Vietnam  
War (1954-1975)  
Nguyen Minh Giang*  
ABSTRACT  
Although located in a region having close historical-cultural relations with the area of Southeast  
Asia, Australia always considers itself and is considered a special outpost of the West in Asia-Pacific.  
Use your smartphone to scan this  
QR code and download this article  
Since World War II up to now, the strategic alliance between Australia and the US has been devel-  
oped comprehensively and deeply. Particularly, with the purpose of getting the protection in terms  
of security from the US towards the Near-North region, it's obvious that Australia had to accept the  
fact that the number of killed and wounded soldiers, advisories, and military workers during the  
period of the Vietnam war was equivalent to that of the killed and wounded ones of the two World  
Wars when Australia participated along with the British troops. To illustrate the aforementioned  
content, this article focuses on analyzing some objective factors including the development of the  
movement of national liberation, the founding and rising of Chinese socialism, and the policies of  
Southeast Asia of the US during the period of post-World War II, along with some subjective fac-  
tors influencing the founding and development of the strategic alliance between Australia and the  
US such as the national interest and the role of Australia during the Vietnam war, the economic-  
cultural-political platforms of the US-Australia relations, and three-key factors expressing the depth  
of these relations including military, politics and diplomacy, culture and education, science and  
technology.  
Key words: Australia, strategic alliance, the US, Vietnam War  
158/7/8 Hoang Hoa am Street, Ward  
12, Tan Binh District, Ho Chi Minh City,  
Vietnam  
Correspondence  
Nguyen Minh Giang, 158/7/8 Hoang Hoa  
Tham Street, Ward 12, Tan Binh District,  
Ho Chi Minh City, Vietnam  
Email: minhgiang2797@gmail.com  
History  
Received: 20/7/2020  
Accepted: 17/3/2021  
Published: 31/3/2021  
DOI : 10.32508/stdjssh.v5i1.650  
Copyright  
© VNU-HCM Press. This is an open-  
access article distributed under the  
terms of the Creative Commons  
Attribution 4.0 International license.  
Cite this article : Giang N M. Australia – a strategic alliance of the US in the period of Vietnam War  
(1954-1975). Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 5(1):939-946.  
946  
pdf 8 trang yennguyen 21/04/2022 860
Bạn đang xem tài liệu "Australia - Đồng minh chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam (1954-1975)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfaustralia_dong_minh_chien_luoc_cua_hoa_ky_trong_chien_tranh.pdf