Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh tế của cá chẽm (Lates calcarifer) nuôi trong ao đất

62  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Effects of stocking density on growth performance, survival rate and economic  
efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond  
Nhan T. Dinh  
Faculty of Fisheries, Nong Lam University, Ho Chi Minh City, Vietnam  
ARTICLE INFO  
Research Paper  
ABSTRACT  
This trial aimed to evaluate effects of stocking densities of 1-5 fish/m2  
on growth performance, survival rate and economic efficiency of Asian  
seabass (Lates calcarifer) in earthen ponds. Fish with an initial length  
Received: September 01, 2020  
Revised: September 25, 2020  
Accepted: October 23, 2020  
of 90.7  
0.1 mm and weight of 20.8  
0.1 g/fish and ponds with 600  
m2 each and 1.5 m depth were used for this study. Experiment was de-  
signed with three treatments, including different stocking densities of  
1, 3 and 5 fish/m2. The fish was fed with pellete feed containing 43  
– 44% crude protein. Water quality parameters including temperature,  
dissolved oxygen, pH, salinity, transparency and ammonia concentration  
were measured once a week. Fish were sampled every 30 day intervals for  
length and weight measurement then for their growth estimation. Costs  
were recorded for economic efficiency estimation. Results showed that the  
water quality parameters were in suitable ranges for growth and devel-  
opment of Asian seabass. The final average length and weight of density  
1 fish/m2 was significantly higher than those at 3 and 5 fish/m2 (P <  
0.05). However, there was no significant difference on the fish growth  
in terms of daily length and weight gain, as well as survival rate and  
feed conversion ratio between different stocking densities. Asian seabass  
culture at 3 and 5 fish/m2 resulted in a higher profit compared to at  
1 fish/m2. The highest economic efficiency in terms of area pond was  
showed at 5 fish/m2 treatment.  
Keywords  
Asian seabass  
Density  
Earthen pond  
Economic efficiency  
Growth  
Corresponding author  
Dinh The Nhan  
Email: dtnhan@hcmuaf.edu.vn  
Cited as: Dinh, N. T. (2020). Effects of stocking density on growth performance, survival rate  
and economic efficiency of Asian seabass (Lates calcarifer) cultured in earthen pond. The Journal  
of Agriculture and Development 19(5), 62-70.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
63  
Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh tế của cá  
chẽm (Lates calcarifer) nuôi trong ao đất  
Đinh Thế Nhân  
Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh  
TÓM TẮT  
THÔNG TIN BÀI BÁO  
Bài báo khoa học  
Nghiên cứu này thử nghiệm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ nuôi,  
từ 1 - 5 con/m2 lên tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh  
tế của việc nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) trong ao đất. Cá có chiều  
Ngày nhận: 01/09/2020  
Ngày chỉnh sửa: 25/09/2020  
Ngày chấp nhận: 23/10/2020  
dài ban đầu 90,7  
0,1 mm và khối lượng 20,8  
0,1 g/con được bố  
trí trong các ao đất có diện tích 600 m2/ao, mực nước ao 1,5 m. Thí  
nghiệm gồm 3 nghiệm thức tương ứng với 3 mật độ nuôi khác nhau: 1,  
3 và 5 con/m2. Cá được cho ăn thức ăn viên với hàm lượng đạm thô từ  
43 – 44%. Định kỳ 1 tuần/lần thu mẫu nước để đo nhiệt độ, ôxy hòa  
tan, pH, độ mặn, độ trong và ammonia. Định kỳ 30 ngày/lần tiến hành  
thu mẫu cá, đo chiều dài và cân khối lượng để xác định tăng trưởng.  
Các chi phí được ghi nhận để tính toán hiệu quả kinh tế. Kết quả cho  
thấy các yếu tố môi trường thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển  
của cá chẽm. Chiều dài và khối lượng trung bình của cá khi thu hoạch  
ở mật độ 1 con/m2 là cao hơn so với 3 và 5 con/m2 (P < 0,05). Tuy  
nhiên, mật độ nuôi không ảnh hưởng rõ rệt đến các chỉ tiêu sinh trưởng  
như tăng trưởng theo ngày về chiều dài và khối lượng, cũng như tỷ lệ  
sống và hệ số chuyển đổi thức ăn. Cá được nuôi ở mật độ 3 và 5 con/m2  
cho hiệu quả kinh tế cao hơn so với mật độ 1 con/m2. Nghiệm thức 5  
con/m2 thì cho lợi nhuận trên tính trên diện tích nuôi là cao nhất.  
Từ khóa  
Ao đất  
Cá chẽm  
Hiệu quả kinh tế  
Mật độ  
Tăng trưởng  
Tác giả liên hệ  
Đinh Thế Nhân  
Email: dtnhan@hcmuaf.edu.vn  
1. Đặt Vn Đề  
Ở Việt Nam, cá chẽm phân bố ở phía Đông  
vịnh Bắc bộ và vùng biển Trung bộ. Chúng đã và  
Cá chẽm, còn được gọi là cá vược, là loài cá  
rộng muối được phân bố rộng ở vùng Ấn Độ  
đang là đối tượng cá biển được nuôi khá thành  
công ở nhiều địa phương. Năm 2005, Việt Nam  
đã nhập vài chục triệu con giống từ Thái Lan để  
thả nuôi ở các đầm, hồ ven biển và cửa sông của  
các tỉnh phía Nam cho đến các tỉnh phía Bắc.  
Hiện nay, nước ta cũng đã làm chủ được công  
nghệ sản xuất giống nhân tạo, đáp ứng cả về số  
lượng và chất lượng con giống cho người nuôi, và  
mở ra triển vọng cho việc phát triển nghề nuôi  
cá chẽm quy mô công nghiệp. Nuôi cá chẽm ở  
Việt Nam cũng bao gồm nuôi trong ao nước lợ và  
lồng lưới trong các thủy vực ven biển. Tuy nhiên,  
ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mô hình  
nuôi cá chẽm trong ao nước lợ là chủ yếu (Ly &  
ctv., 2016). Cho đến nay, các nghiên cứu trên cá  
Dương - Tây Thái Bình Dương, từ Vịnh Ả Rập tới  
Trung Quốc, Đài Loan và Bắc Australia (FAO-  
FAD, 2020). Sản lượng cá chẽm nuôi của 5 nước  
gồm Đài Loan, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và  
Australia đã gia tăng từ 10.000 tấn vào năm 1991  
lên khoảng 95.000 tấn vào năm 2018, với tốc độ  
tăng trưởng từ năm 2006 đến 2016 là 170,6%  
(GAA, 2016). Cá chẽm có thể được nuôi trong  
ao nước lợ hay nước ngọt và lồng lưới cố định  
hay nổi trong các thủy vực ven biển; tuy nhiên,  
hình thức nuôi lồng phổ biến hơn. Thức ăn cho  
nuôi cá chẽm là cá tạp và thức ăn công nghiệp  
(FAO-FAD, 2020).  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
64  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
chẽm (Lates calcarifer), đặc biệt về kỹ thuật nuôi, trường ao nuôi.  
còn rất hạn chế. Nghiên cứu này nhằm đánh giá  
ảnh hưởng của các mật độ nuôi từ 1-5 con/m2  
đến sinh trưởng và hiệu quả kinh tế của cá chẽm  
được nuôi trong ao đất.  
2.3. Phương pháp phân tích  
2.3.1. Các chỉ tiêu tăng trưởng  
Trước khi bố trí thí nghiệm bắt ngẫu nhiên 30  
cá cân khối lượng bằng cân điện tử với sai số 1 g  
và đo chiều dài từng cá thể với thước kẻ có vạch  
1 mm. Định kỳ 30 ngày tiến hành thu ngẫu nhiên  
30 con/ao để tính khối lượng và chiều dài trung  
bình của cá thí nghiệm. Vào cuối vụ nuôi tiến  
hành thu toàn bộ cá trong ao để thực hiện cân,  
đo và đếm số lượng cá để tính các chỉ tiêu tăng  
trưởng, tỉ lệ sống và hệ số chuyển đổi thức ăn,  
theo các công thức sau:  
2. Vt Liệu và Phương Pháp Nghiên Cứu  
2.1. Đối tượng  
Cá chẽm (Lates calcarifer) thử nghiệm có khối  
lượng trung bình là 20,8 0,1 g và chiều dài trung  
bình là 90,7  
0,1 mm. Trước khi tiến hành bố  
trí thí nghiệm, cá giống được chọn lựa có kích  
cỡ tương đối đồng đều, ngoại hình đẹp, không có  
dấu hiệu bệnh và không bị sây sát.  
Tăng trưởng chiều dài theo ngày (daily length  
gain, DLG):  
2.2. Bố trí thí nghiệm  
DLG (mm/ngày) = (L2 - L1)/(T2 - T1)  
Thử nghiệm bao gồm ba nghiệm thức (NT) ứng  
với ba mật độ nuôi khác nhau: 1 (NT1), 3 (NT2)  
và 5 con/m2 (NT3), mỗi NT được lặp lại ba lần  
và được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên  
trong 9 ao đất, diện tích 600 m2/ao và độ sâu  
mực nước trung bình là 1,5 m.  
Tăng trưởng khối lượng theo ngày (daily weight  
gain, DWG):  
DWG (g/ngày) = (W2 - W1)/(T2 - T1)  
Tỉ lệ sống (survival rate, SR):  
SR (%) = 100*(Nc/Nđ)  
Ao thí nghiệm được tháo cạn và tiến hành xịt  
rửa sạch bùn đáy ao. Vôi sống (CaO) được bón  
đều khắp ao với lượng 10 kg/100 m2. Sau đó lấy  
nước vào đầy ao qua túi lọc có mắt lưới 1 mm.  
Nguồn nước có độ mặn dao động từ 5-25%₀ theo  
mùa trong vụ nuôi. Sau khi gây màu nước, cá  
được thả vào các ao thí nghiệm theo các mật độ  
ứng với từng nghiệm thức vào buổi sáng. Cá thí  
nghiệm được nuôi trong 240 ngày.  
Hệ số chuyển đổi thức ăn (feed conversion ratio,  
FCR):  
FCR = Wta/(Wc – Wđ)  
Trong đó:  
W1 và W2: Khối lượng cá (g) trung bình tại  
thời điểm T1 và T2  
L1 và L2: Chiều dài cá (cm) trung bình tại thời  
điểm T1 và T2  
Cá được cho ăn thức ăn viên nổi của Công ty  
Ocialis với thành phần sinh hóa như sau: độ ẩm  
12%, đạm thô 43 - 44%, xơ thô 3%, canxi (min  
– max) 2,5 - 3,5%. Cách 7 ngày bổ sung khoáng  
chất và vitamin C bằng cách trộn đều vào thức  
ăn (Bảng 1).  
Nđ và Nc: Số lượng cá (con) ban đầu và cuối  
thí nghiệm  
Wta: Tổng khối lượng thức ăn (kg) đã sử dụng  
Wđ và Wc: Tổng khối lượng cá (kg) khi bắt  
đầu và kết thúc thí nghiệm  
Cá được cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 5 giờ và 18  
giờ với mức thỏa mãn. Thức ăn được cung cấp  
từ từ vào khung chắn thức ăn, kéo dài khoảng 30  
phút đến khi cá ngừng ăn, ở mỗi lần cho ăn. Sau  
mỗi bữa ăn, tiến hành vớt thức ăn thừa, sấy khô  
và ghi nhận lượng thức ăn cá đã ăn.  
2.3.2. Hiệu quả kinh tế  
Hiệu quả kinh tế được phân tích dựa trên tổng  
chi phí và tổng doanh thu để tính toán các chỉ  
tiêu lợi nhuận ròng cho 1 ha/vụ nuôi và tỷ suất lợi  
nhuận trên tổng chi phí (%) (Do & Dang, 2010).  
Ao được tăng cường ôxy bằng thiết bị ống  
khuếch tán khí (airotube). Thường xuyên thay  
nước ao với tần suất khoảng 1 tuần/lần ở giai  
đoạn cá còn nhỏ và 3 - 5 ngày/lần ở giai đoạn cá  
lớn với mức thay khoảng 30 - 40% lượng nước ao,  
kết hợp sử dụng chế phẩm vi sinh để xử lý môi  
2.3.3. Các yếu tố môi trường nước  
Các yếu tố môi trường bao gồm nhiệt độ (dùng  
nhiệt kế thủy ngân), ôxy hòa tan, pH (dùng test  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
65  
Bảng 1. Các loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm  
TT Loại thức ăn Kích cỡ viên (mm) Độ đạm (%) Cỡ cá (g)  
NUTRILIS P2  
1
3
5
7
44  
43  
43  
43  
10 - 50  
50 - 150  
150 - 400  
400 - 1000  
2
3
4
NUTRILIS P3  
NUTRILIS P4  
NUTRILIS P5  
10  
kit của tập đoàn CP) được đo vào lúc 7 giờ và 15 nghiệm thức tăng dần từ ngày đầu tiên tới ngày  
giờ với tần suất 1 tuần/lần; độ mặn (dùng khúc thứ 90 là do càng về sau lượng tảo trong các ao  
xạ kế Atogo HHR 2N), ammonia (dùng test kit  
của tập đoàn CP) và độ trong nước (dùng đĩa  
secchi) được đo với tần suất là 1 tuần/lần. Các  
yếu tố môi trường còn được đo vào những ngày  
thu mẫu cá.  
nuôi càng phát triển. Ở mật độ càng cao, tảo phát  
triển nhiều hơn nên pH biến động lớn hơn.  
Độ mặn trung bình ở 3 nghiệm thức có sự biến  
động lớn, từ 5,0 - 25,0%₀. Sự biến động độ mặn  
diễn ra từ từ theo mùa vụ nên không ảnh hưởng  
đến sinh lý của cá nuôi vì cá chẽm là loài rộng  
muối.  
2.4. Xử lý số liệu  
Độ trong trung bình của 3 nghiệm thức biến  
động từ 24 - 48 cm. Độ trong của các ao nuôi có  
xu hướng giảm dần về cuối vụ nuôi do sự phát  
triển mạnh của tảo.  
Các phân tích thống kê được thực hiện với các  
phần mềm Microsoft Excel 2010 và SPSS 20.0 for  
Window. Các số liệu được phân tích phương sai  
(ANOVA) một yếu tố ở mức ý nghĩa P = 0,05, và  
khi các ảnh hưởng được tìm thấy là có ý nghĩa,  
LSD được sử dụng để xác định các khác biệt cho  
từng cặp nghiệm thức. Các số liệu % được chuyển  
đổi thành arsin trước khi phân tích. Các số liệu  
ở mục Kết Quả và Thảo Luận được trình bày  
dưới dạng trung bình độ lệch chuẩn.  
Hàm lượng NH3 trung bình trong các ao nuôi  
dao động từ 0,1 - 0,28 mg/L và không có sự khác  
biệt giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Hàm lượng  
NH3 tăng dần và đạt cao nhất ở ngày nuôi thứ  
60, sau đó có xu hướng giảm dần đến cuối đợt thí  
nghiệm do tăng cường thay nước.  
3.2. Tăng trưởng  
3. Kết Quả và Thảo Luận  
3.2.1. Chiều dài trung bình  
3.1. Sự biến động của các yếu tố chất lượng  
nước  
Sau 30 ngày nuôi, cá ở NT2 có AL lớn nhất  
và khác biệt có ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so  
với các nghiệm thức còn lại. Nhìn chung, từ ngày  
thứ 60 đến cuối thí nghiệm, cá ở NT1 luôn có AL  
lớn nhất, kế đến là NT2 và thấp nhất là NT3. Từ  
ngày thứ 60 đến 120, AL của cá ở NT1 là không  
khác biệt so với NT2 nhưng khác biệt có ý nghĩa  
thống kê so với NT3. Từ ngày thứ 150 đến cuối  
thí nghiệm, AL của cá ở NT1 là khác biệt có ý  
nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại.  
Trong khi đó, AL của cá ở NT2 khác biệt không  
có ý nghĩa thống kê so với NT3 từ ngày thứ 150  
đến cuối thí nghiệm (Bảng 2).  
Nhìn chung hầu hết các yếu tố chất lượng nước  
của 3 nghiệm thức (NT) có sự thay đổi theo thời  
gian nuôi, tuy nhiên xu hướng thay đổi của 3 NT  
là khá giống nhau và không có sự khác biệt đáng  
kể (Hình 1). Trong đó:  
Nhiệt độ có xu hướng giảm dần từ đầu vụ nuôi  
cho đến ngày nuôi thứ 150. Nhiệt độ trung bình  
trong các ao biến động từ 27,7 – 31,2oC là không  
lớn và không có sự khác biệt ở cả ba nghiệm thức  
trong suốt thời gian nuôi.  
Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) trung bình dao  
động từ 3,4 - 4,3 mg/L; biến động nhiều nhất ở  
NT3, tiếp theo là NT2 và NT1, không có sự khác  
biệt đáng kể giữa các NT vì lượng ôxy được cung  
cấp tương ứng với mật độ nuôi. Quan sát những  
thời điểm có hàm lượng DO < 4 mg/L thấy cá  
vẫn hoạt động và ăn bình thường.  
3.2.2. Tăng trưởng theo ngày về chiều dài  
Nhìn chung, DLG của cá chẽm ở cả 3 nghiệm  
thức giảm dần theo thời gian. DLG của cá giảm  
mạnh vào ngày thứ 120 có thể là do sự biến động  
của môi trường nuôi đã có ảnh hưởng bất lợi đến  
pH trung bình dao động 7,2 - 7,7. pH ở cả 3  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
66  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Hình 1. Biến động các yếu tố chất lượng nước của 3 nghiệm thức theo thời gian nuôi.  
Bảng 2. Chiều dài trung bình (AL, mm) của cá chẽm theo thời gian nuôi  
NT1  
NT2  
NT3  
Ngày nuôi  
0
90,7a 0,1  
90,8a 0,1  
90,7a 0,1  
30  
60  
90  
120  
150  
180  
210  
240  
151,5a 17,5  
213,7b 15,4  
246,1b 14,9  
263,8bb 13,8  
301,6c 12,8  
329,9b 23,4  
349,9b 23,4  
364,9b 23,4  
165,6b 10,3  
210,0b 15,5  
247,7b 11,9  
260,2ab 13,6  
292,9b 16,0  
309,3a 24,1  
328,1a 24,7  
343,1a 24,7  
150,3a 9,7  
204,9a 11,5  
237,8a 13,0  
258,0a 18,5  
285,6a 15,5  
305,7a 18,0  
324,9a 18,6  
339,9a 18,7  
Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ ký tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa  
thống kê (P > 0,05).  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
   
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
67  
Bảng 3. Khối lượng trung bình (AW, g) của cá chẽm theo thời gian  
Ngày nuôi  
NT1  
NT2  
NT3  
0
30  
60  
90  
120  
150  
180  
210  
240  
20,8a 0,1  
53,9a 8,5  
140,8a 8,9  
207,3a 8,5  
20,9a 0,1  
57,6a 12,3  
135,7a 19,9  
20,8a 0,1  
51,0a 2,9  
123,3a 3,3  
179,8a 21,2 181,1a 10,2  
331,6a 22,9 277,6a 38,4 282,8a 13,0  
408,8a 67,2 339,0a 43,8 348,1a 40,3  
542,2b 68,4 433,9ab 37,7 427,9a 9,1  
692,2b 32,0 609,3a 16,5 572,1a 13,6  
920,0b 38,4 829,3a 28,9 789,9a 23,5  
Các giá trị trên cùng một hàng có các chữ ký tự giống nhau thì khác biệt không  
có ý nghĩa thống kê (P > 0,05).  
3.2.4. Tăng trưởng theo ngày về khối lượng  
DWG của cá chẽm ở cả 3 nghiệm thức có  
khuynh hướng tăng dần nhưng không đều theo  
thời gian nuôi (Hình 3). Tuy nhiên, sự biến động  
của DWG của cá ở NT1 là ít hơn so với các  
nghiệm còn lại. Nhìn chung, DWG của cá ở NT1  
là cao nhất, kế đến là NT2 và thấp nhất là NT3  
nhưng sự khác biệt DWG của cá ở cả 3 nghiệm  
thức là không có ý nghĩa thống kê.  
Hình 2. Tăng trưởng theo ngày về chiều dài của cá  
chẽm.  
tăng trưởng về chiều dài của cá. Sau khi được  
tăng cường thay nước, DLG của cá đã có sự hồi  
phục (Hình 2). DLG của cá ở 3 nghiệm thức có  
sự khác biệt ý nghĩa thống kê (P < 0,05) ở các  
lần lấy mẫu vào các ngày thứ 30, 60 và 150, và  
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05)  
ở những lần lấy mẫu khác.  
Hình 3. Tăng trưởng theo ngày về khối lượng của cá  
chẽm.  
3.2.3. Khối lượng trung bình  
Nhìn chung, cá ở cả 3 nghiệm thức có sự tăng  
trưởng đều về khối lượng theo thời gian nuôi;  
trong đó cá ở NT1 có AW lớn nhất, kế đến là  
NT2 và thấp nhất ở NT3. Tuy nhiên, từ ngày  
thứ 30 đến 150, AW của cá ở cả 3 nghiệm thức  
khác biệt không có ý nghĩa thống kê; từ ngày thứ  
180 đến cuối thí nghiệm vào ngày thứ 240, AW  
của cá ở NT1 đã có sự gia tăng vượt trội và khác  
biệt có ý nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức còn  
lại. AW của cá ở NT2 và NT3 khác biệt không có  
ý nghĩa thống kê từ ngày thứ 150 (Bảng 3).  
3.3. Tỷ lệ sống (SR) và hệ số chuyển đổi thức  
ăn (FCR)  
3.3.1. Tỷ lệ sống  
Tỷ lệ sống của cá có khuynh hướng giảm dần  
từ NT1 đến NT2 và NT3 (lần lượt là 95,57, 92,03  
và 88,43%) (Hình 4). Tuy nhiên, sự khác biệt về  
SR giữa 3 nghiệm thức là không có ý nghĩa thống  
kê (P > 0,05).  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
     
68  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Bảng 4. Các chi phí, doanh thu, lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn của nuôi cá chẽm với  
các mật độ khác nhau  
Các thông số  
Cá giống  
NT1  
9.000  
NT2  
27.000  
NT3  
Ghi chú  
45.000 5.000 đ/con  
Thức ăn  
63.345 172.942 270.393 26.000 đ/kg  
Lao động, quản lý  
Điện/nhiên liệu  
Thuốc, hóa chất  
Khấu hao  
16.000  
8.000  
5.000  
5.000  
16.000  
16.000  
10.000  
7.500  
16,000  
24.000 Điện sục khí, thay nước  
15.000 Men. Vitamin. vôi...  
10.000 Máy móc, thiết bị  
Tổng chi phí  
Giá thành  
Tổng doanh thu  
Lợi nhuận  
106.345 249.442 380.393  
67,2 60,5 60,5  
115.529 300.878 458.931  
9.184 51.436  
78.538 Tính cho 1800 m2  
51.020 285.758 436.324 Tính cho 1 ha  
8,64 20,62 20,65 Tính trên tổng chi phí  
Tính trên 1 kg cá  
Lợi nhuận  
Tỷ suất lợi nhuận (%)  
Tính trên mỗi NT có tổng diện tích nuôi 1800 m2 (đơn vị tính 1.000 đ)  
Hình 4. Tỷ lệ sống (%) của cá chẽm ở 3 nghiệm Hình 5. Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) của cá  
thức.  
chẽm .  
3.3.2. Hệ số chuyển đổi thức ăn  
NT1 (Bảng 4).  
3.5. Thảo luận  
FCR của cá có khuynh hướng tăng dần từ NT1  
đến NT2 và NT3 (lần lượt là 1,54, 1,61 và 1,65)  
(Hình 5). Tuy nhiên, sự khác biệt về FCR giữa 3  
nghiệm thức là không có ý nghĩa thống kê.  
Các yếu tố môi trường ở 3 nghiệm thức có sự  
biến động tương tự nhau theo thời gian nuôi. Sự  
biến động này, ngoài những quá trình sinh hóa  
xảy ra trong ao nuôi, còn do tác động của thời  
tiết và hoạt động quản lý của con người. Theo  
3.4. Hiệu quả kinh tế  
Sự gia tăng mật độ nuôi đã làm gia tăng sản Boyd (1998), các yếu tố môi trường lý tưởng cho  
lượng và tổng chi phí. Tuy nhiên, giá thành lại cá nhiệt đới bao gồm nhiệt độ từ 25 - 32oC, ôxy  
giảm theo mật độ nuôi do tận dụng được trang hòa tan (DO) 4 mg/L, pH từ 7 – 9, ammonia  
thiết bị, lao động, ... khi mật độ nuôi tăng lên. (NH3-N) < 0,1 mg/L và độ trong từ 30 – 45 cm.  
Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cũng gia tăng theo Theo Kungvankij & ctv. (1986), trong tự nhiên  
mật độ nuôi. Lợi nhuận của NT2 đạt 5,6 lần so cá chẽm là loài rộng muối (euryhaline) và di cư  
với NT1, và của NT3 đạt 1,5 lần so với NT2 và xuôi dòng (catadromous) - cá sinh trưởng trong  
8,6 lần so NT1. Tương tự, Tỷ suất lợi nhuận của nước ngọt và di lưu ra nước mặn đẻ trứng - nên  
NT2 và NT3 tương đương và gấp 2,4 lần so với có thể chịu đựng được khoảng dao động của độ  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
     
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
69  
mặn rộng, từ 0 - 36%₀ và độ mặn thích hợp cho 4. Kết Luận  
sinh trưởng là 10 - 30%₀. Như vậy, hầu hết các  
yếu tố môi trường ở cả 3 nghiệm thức đều nằm  
Các yếu tố môi trường biến động theo thời  
trong khoảng thích hợp cho cá nói chung (Boyd, gian nuôi nhưng ở giới hạn thích hợp cho sự sinh  
1998) và cho cá chẽm nói riêng (Kungvankij & trưởng và phát triển của cá chẽm.  
ctv., 1986).  
Chiều dài và khối lượng trung bình của cá khi  
Cá thí nghiệm ở cả 3 nghiệm thức có sự tăng thu hoạch ở mật độ 1 con/m2 là cao hơn so với  
trưởng đều đặn cả về chiều dài và khối lượng. Ưu 3 và 5 con/m2. Tuy nhiên sự khác biệt của các  
thế tăng trưởng về chiều dài (AL) và khối lượng chỉ tiêu sinh trưởng như tăng trưởng theo ngày  
(AW) của cá ở NT1 chỉ thể hiện rõ từ ngày thứ về chiều dài và khối lượng, tỷ lệ sống, và hệ số  
150 và 180 cho đến cuối thí nghiệm, một cách chuyển đổi thức ăn của cá ở các NT là không rõ  
tương ứng; trong khi đó AL và AW của cá ở NT2 rệt.  
Nuôi cá chẽm ở mật độ 3 và 5 con/m2 cho hiệu  
quả kinh tế cao hơn so với các mật độ 1 con/m2.  
Lợi nhuận tính trên diện tích ở mật độ 5 con/m2  
là cao nhất.  
và NT3 là tương đương nhau (Bảng 2 3). Tăng  
trưởng theo ngày về chiều dài (DLG) của cá thí  
nghiệm ở cả 3 nghiệm thức là tương đương nhau  
từ ngày thứ 180, và tăng trưởng theo ngày về  
khối lượng (DWG) của cá ở cả 3 nghiệm thức là  
tương đương nhau trong suốt thí nghiệm. Như  
vậy, trong phạm vi mật độ 1 - 5 con/m2, ảnh  
hưởng của mật độ đến sinh trưởng của cá thí  
nghiệm là không rõ rệt. Daet (2019) cũng tìm  
thấy mật độ không có ảnh hưởng đến sinh trưởng  
của cá chẽm nuôi trong giai đặt trong cùng một ao  
đất. Tăng trưởng của cá trong thử nghiệm cũng  
tương đương về AW và DWG nhưng thấp hơn về  
SGR so với cá chẽm nuôi lồng của Anil & ctv.  
(2010). Tỷ lệ sống (SR) của cá trong thử nghiệm  
này đạt cao (88,43 – 95,57%) và hệ số chuyển đổi  
thức ăn (FCR) đạt thấp (1,54 – 1,65), tốt hơn so  
với SR (66%) và FCR (2,5) của cá chẽm muôi ao  
với thức ăn viên (Hajirezaee & ctv. (2015).  
Đề xuất tiến hành thử nghiệm nuôi ở những  
mật độ cao hơn (trên 5 con/m2) để xác định ảnh  
hưởng của mật độ đến sinh trưởng và hiệu quả  
kinh tế của hoạt động nuôi cá chẽm trong ao đất.  
Tài Liệu Tham Khảo (References)  
Anil, M. K., Santhosh, B., Jasmine, S., Saleela, K. N.,  
George, R. M., Kingsly, H. J., Unnikrishnan, C., Rao,  
G. H., & Rao, G. S. (2010). Growth performance of the  
seabass (Lates calcarifer) in sea cage at Vizhinjam Bay  
along the south-west coast of India. Indian Journal of  
Fisheries 57(4), 65-69.  
Boyd, C. E. (1998). Water Quality for Pond Aquaculture.  
Research and Development Series No. 43. International  
Center for Aquaculture and Aquatic Environments, Al-  
abama Agricultural Experiment Station, Auburn Uni-  
versity, Alabama.  
So sánh năng suất qui đổi từ thử nghiệm với  
cùng kích cỡ giống thả (8 – 10 cm), mật độ nuôi  
(5 con/m2) và thời gian nuôi (8 tháng) thì năng  
suất đạt được của thử nghiệm (34,93 tấn/ha) là  
cao hơn của các mô hình nuôi ở ĐBSCL (33,3  
tấn/ha) theo báo cáo nhóm tác giả Ly & ctv.  
(2016). Giá thành nuôi cá chẽm có khuynh hướng  
gia tăng theo thời gian, trung bình 42.860 đ/kg  
(ở Khánh Hòa) vào năm 2008 (Nguyen, 2009) lên  
trung bình 58.400đ/kg (ở ĐBSCL) vào năm 2013  
(Ly & ctv., 2016) và 60.395 - 67.210 đ/kg (của thử  
nghiệm này, 2018). Trong điều kiện thử nghiệm,  
do lợi nhuận tăng theo mật độ nuôi (từ 51 triệu  
đ/ha ở mật độ 1 con/m2, lên 286 triệu đ/ha ở  
mật độ 3 con/m2 và 436 triệu đ/ha ở mật độ 5  
con/m2) và tỷ suất lợi nhuận ở mật độ 3 và 5  
con/m2 tương đương nhau (21%) cao hơn mật  
độ 1 con/m2 (9%), nên nuôi cá chẽm ở mật độ 3  
và 5 con/m2 sẽ cho hiệu quả kinh tế cao so với  
mật độ 1 con/m2.  
Daet, I. (2019). Study on culture of sea bass (Lates cal-  
carifer, Bloch 1790) in hapa-in-pond environment. IOP  
Conference Series: Earth and Environmental Science  
230, 012115.  
Do, X. V., & Dang, P. T. K. (2010). Economic analysis  
of cropping system: The case study of Cai Lay district,  
Tien Giang province. Can Tho University Journal of  
Science 13, 113-119.  
FAO-FAD (Food and Agriculture Organization-Fisheries  
and Aquaculture Department). (2020). Cultured  
Aquatic Species Information Programme - Lates cal-  
carifer (Block, 1790).  
GAA (Global Aquaculture Alliance). (2016). Global Fish  
Production Data & Analysis - Global Fish Production  
Estimates & Trends. Guangzhou, China: GAA.  
Hajirezaee, S., Ajdari, D., Matinfar, A., Aghuzbeni. S.  
H. H., & Rafiee, G. R. (2015). A preliminary study on  
marine culture of Asian seabass, Lates calcarifer in the  
coastal earthen ponds of Gwadar region, Iran. Journal  
of Applied Animal Research 43(3), 309-313.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
 
70  
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh  
Ly, K. V., Tran, H. N., & Le, H. V. (2016). An evaluation  
on the potential development of seabass model (Lates  
calcarifer) along the coastal provinces of the Mekong  
Delta area. An Giang University Journal of Science  
11(3), 60-71.  
Nguyen, S. X. B. (2009). Evaluation of socio-economic ef-  
ficiency of commercial culture of Asian seabass (Lates  
calcarifer) in Khanh Hoa province (Unpublished mas-  
ter’s thesis). Nha Trang University, Khanh Hoa, Viet-  
nam.  
Kungvankij, P., Pudadera, Jr. B. J., Tiro, Jr. L. B., &  
Potesta, I. O. (1986). Biology and Culture of Seabass  
(Lates calcarifer). NACA Training Manual Series No.  
3. Network of Aquaculture Centers in Asia (NACA),  
Thailand.  
Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển 19(5)  
pdf 9 trang yennguyen 22/04/2022 420
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả kinh tế của cá chẽm (Lates calcarifer) nuôi trong ao đất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mat_do_nuoi_den_sinh_truong_ty_le_song_va_hieu.pdf