Xử lý nước thải sinh hoạt và tái sử dụng nước thải sau xử lý tại Việt Nam

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC  
NG DỤNG CÔNG NGHỆ  
XỬ LÝ NƯỚC THẢI SINH HOẠT VÀ TÁI SỬ DỤNG NƯỚC  
THẢI SAU XỬ LÝ TẠI VIỆT NAM  
(1)  
Nguyễn Văn Quân, Trần ị Huyền Nga  
Phạm ị úy, Nguyễn Mạnh Khải*  
TÓM TẮT  
Nhu cầu nước sạch là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, vì thế, việc xử lý nước thải (XLNT) để tái sử dụng  
sớm nhận được sự quan tâm của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc sử dụng nước tái chế còn gặp  
nhiều khó khăn. Với lượng phát sinh lớn vào hàm lượng chất ô nhiễm cao gây khó khăn cho việc quản lý và  
XLNT. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đánh giá tổng quan hiện trạng phát sinh, tính chất, các  
công nghệ XLNT sinh hoạt đang được áp dụng và tiềm năng sử dụng nước tái chế tại Việt Nam. ông qua  
việc phân tích cơ sở dữ liệu trực tuyến và các báo cáo đã được công bố, các thông tin liên quan sẽ được tổng  
hợp, phân tích, từ đó đưa ra tổng thể về XLNT sinh hoạt và tái sử dụng nước thải sau xử lý tại Việt Nam. Kết  
quả cho thấy, nước thải sinh hoạt ở Việt Nam được xử lý chưa tốt, lượng nước xử lý chỉ chiếm khoảng 13%  
tổng lượng nước thải phát sinh, còn lại được thải trực tiếp ra môi trường, các công nghệ XLNT chủ yếu là sử  
dụng các phương pháp sinh học, nước thải sau xử lý thường được thải ra các thủy vực tiếp nhận. Việc tái sử  
dụng nước thải sau xử lý hiện chỉ dừng ở mức sử dụng để cấp nước cho các hệ thống sông hồ và tưới tiêu chưa  
có các mục đích sử dụng với yêu cầu cao hơn. Các chất độc sinh học, chất kháng sinh trong nước thải là vấn  
đề đáng lưu tâm trong việc tái sử dụng nước thải sinh hoạt sau xử lý. Vì vậy, các phương pháp xử lý tiên tiến  
như công nghệ màng, hấp phụ, ôxy hóa nâng cao cần được xem xét nghiên cứu, áp dụng.  
Từ khóa: Nước thải sinh hoạt, tái sư dụng nước thải, XLNT, cấp nước sinh hoạt.  
Nhận bài: 15/3/2021; Sử chh̉: 22/3/2021; ; Dut ̣tng: 2:/3/2021.  
1. Mở đầu  
các nước trên thế giới. Tuy nhiên, việc sử dụng nước tại  
Việt Nam chưa hiệu quả thể hiện qua hiệu suất sử dụng  
nước trên một đơn vị nước (m3) ở Việt Nam chỉ đạt  
2,37 USD GDP (với Australia là 83,20 USD) [3]. eo  
ước tính của Liên minh Tài nguyên nước (2030 WRG),  
đến năm 2030 Việt Nam phải đối mặt với mức độ căng  
thẳng về nước ở hầu hết các khu vực trên cả nước. Các  
lưu vực sông, khu vực đóng góp 80% GDP của Việt  
Nam, sẽ gặp phải tình trạng "căng thẳng nước nghiêm  
trọng" (lưu vực nhóm sông Đông Nam bộ) hoặc "căng  
thẳng về nước" (ở lưu vực sông Hồng - ái Bình, sông  
Đồng Nai và sông Cửu Long) [4]. Vì vậy, việc tái sử  
dụng lại nước thải đã qua xử lý sẽ góp phần giải quyết  
căng thẳng nước trong tương lai.  
Nước thải sinh hoạt tại các hộ gia đình Việt Nam là  
nước thải từ bếp, nhà tắm, giặt là và nước đen từ nhà vệ  
sinh. Nước đen được xử lý trong các bể tự hoại trong  
nhà. Nước xám được xả trực tiếp vào hệ thống thoát  
nước. Ở nhiều nước trên thế giới, nước thải sinh hoạt  
đã được xử lý và tái sử dụng như một nguồn cấp nước  
cho việc tưới cây, vệ sinh, thậm chí là nước cấp cho sinh  
hoạt. Bài báo này được viết nhằm mục đích tổng quan  
Nhu cầu nước sạch là nhu cầu thiết yếu của cuộc  
sống. Trong tổng số nước hiện có trên trái đất, khoảng  
97% là nước mặn, không thích hợp cho việc sử dụng  
trực tiếp làm ăn uống. Trong số 3% nước ngọt, chỉ một  
phần ba là chất lượng nước phù hợp để có thể duy trì  
cuộc sống hàng ngày của con người và các hoạt động  
sử dụng khác [1]. Nhu cầu ngày càng tăng về các nguồn  
nước thay thế và các tiêu chuẩn chất lượng nước thải  
nghiêm ngặt đã thúc đẩy việc tái sử dụng nước sau xử  
lý, đó là biện pháp quan trọng để quản lý tổng hợp tài  
nguyên nước và phát triển xã hội bền vững trên thế  
giới [2]. ực tế cho thấy, vấn đề tái sử dụng nước đã  
qua xử lý nhận được sự quan tâm khá sớm ở các nước  
phát triển như: Singapo (1970), Australia (1977), Nhật  
Bản (1980), Canađa (1980). Tại Việt Nam, với đặc điểm  
địa lý nằm ở khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa,  
lượng mưa trung bình năm lớn trong khoảng từ 1.500  
đến 2.000 mm, tổng lượng dòng chảy nước mặt hàng  
năm lên đến 830 - 840 tỷ m3, phần lớn trong số chúng  
có nguồn gốc ngoài biên giới. Việc sở hữu một nguồn  
nước lớn như vậy cho thấy ưu thế của Việt Nam so với  
1 Khỏ Môi trường, Trường Đại học Khỏ học Tự nhiên, Đại học Q ốc gỉ Hà Nội  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 31  
đánh giá hiện trạng phát sinh, tính chất, các công nghệ trạng tái sử dụng nước thải sau xử lý trên thế giới và ở  
XLNT sinh hoạt đang được áp dụng và tiềm năng sử Việt Nam, từ đó đề xuất công nghệ XLNT hợp lý, phù  
dụng nước tái chế tại Việt Nam.  
hợp với bối cảnh Việt Nam.  
2. Phương pháp nghiên cứu  
3. Kết quả và thảo luận  
Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong  
nghiên cứu này gồm xác định các tài liệu có liên quan,  
kiểm tra và lựa chọn tài liệu phù hợp với phạm vi của  
tổng quan này. Để xác định được tài liệu có liên quan,  
các từ khóa như: Nước thải sinh hoạt, XLNT, tái sử  
dụng nước thải, độc tính nước thải sau xử lý được sử  
dụng để tra cứu trên các cơ sở dữ liệu trực tuyến như:  
Science Direct, ResearchGate và Google Scholar, thêm  
vào đó các báo cáo, nghiên cứu khác của các đơn vị  
trong và ngoài nước cũng được tổng hợp. Sau đó, các  
nghiên cứu được phân loại và kiểm tra thủ công, các  
nghiên cứu có nội dung không liên quan hoặc nghiên  
cứu không có tính cập nhật, không phù hợp với hoàn  
cảnh của Việt Nam được loại bỏ. ông tin thu được từ  
các tài liệu được chia thành các nhóm: Hiện trạng phát  
sinh, tính chất của nước thải, hiện trạng XLNT, hiện  
3.1. Hiện trạng phát sinh nước thải sinh hoạt  
Lượng nước thải sinh hoạt phát sinh phụ thuộc vào  
dân số và thói quen sử dụng. Mặc dù khó có thể xác  
định con số chính xác của lượng nước thải sinh hoạt  
phát sinh, nhưng có thể ước tính được lượng nước thải  
theo mật độ dân số, diện tích và hệ số phát sinh nước  
thải. Lượng nước thải bình quân đầu người được thể  
hiện qua Bảng 1. Với năm 2015 lượng nước thải được  
ước tính trong các dự án xây dựng tại các địa phương,  
năm 2025 và năm 2050 được ước tính theo mục tiêu  
cấp nước đô thị theo Quyết định số 1929/QD-TTg ban  
hành ngày 20/11/2009, lượng nước thải bình quân đầu  
người nước thải sinh hoạt chiếm 70% lượng nước cấp  
[5]. Từ Bảng 1 có thể thấy được nếu không có các biện  
pháp giúp sử dụng nước hiệu quả hơn thì lượng nước  
thải sinh hoạt phát sinh sẽ rất lớn.  
Bảng 1: Ước tính lượng nước thải sinh hoạt phát sinh tại khu đô thị của một số tỉnh, thành phố tại Việt Nam[5]  
STT Tỉnh/  
thành  
2015  
Lượng  
nước  
2025  
Lượng  
nước  
2050  
Lượng  
nước  
Dân số  
đô thị  
Hệ số  
Dân số  
đô thị  
Hệ số  
Dân số  
đô thị  
Hệ số  
phố  
phát thải  
phát thải  
phát thải  
(người) thải (m3/ (L/người. (người) thải (m3/ (L/người. (người) thải (m3/ (L/người.  
ngày)  
3,968,800 682,634  
6,455,943 1,129,790  
ngày)  
172  
175  
ngày)  
4,420,000 994,586  
8,400,000 1,889,933  
ngày)  
158  
158  
ngày)  
7,544,000 2,082,081  
9,046,000 2,496,660  
ngày)  
193  
193  
1
2
Hà Nội  
TP. Hồ  
Chí Minh  
3
4
Đà Nẵng  
Hải  
Dương  
ái  
Nguyên  
anh  
Hóa  
897,114  
571,389  
113,036  
59,996  
126  
105  
1,033,000 232,740  
158  
85  
1,160,000 320,051  
193  
154  
539,000  
480,000  
592,000  
768,000  
65,265  
58,027  
71,637  
92,948  
973,000  
214,165  
5
6
7
379,801  
39,879  
105  
67  
85  
85  
85  
866,000  
190,413  
154  
154  
154  
2,424,798 162,461  
1,069,000 235,072  
1,318,000 289,874  
Khánh  
Hòa  
508,637  
53,407  
105  
8
9
Bắc Ninh 421,466  
Sơn La 245,939  
48,890  
17,216  
11,990  
10,632  
116  
70  
70  
67  
104  
402,000  
248,000  
234,000  
241,000  
755,000  
48,692  
29,981  
28,348  
29,175  
91,335  
85  
85  
85  
85  
85  
726,000  
447,000  
423,000  
435,000  
159,780  
98,382  
93,023  
95,736  
154  
154  
154  
154  
154  
10 Lạng Sơn 171,285  
11 Kon Tum 158,688  
12 Bình  
Dương  
13 Đồng Nai 1,406,407 129,389  
14 An Giang 681,591  
15 Kiên  
1,555,229 161,744  
1,362,000 299,712  
92  
70  
84  
1,382,000 167,206  
1,016,000 122,930  
757,000  
85  
85  
85  
2,494,000 548,678  
1,834,000 403,387  
1,365,000 300,374  
154  
154  
154  
47,711  
41,862  
498,363  
91,537  
Giang  
16 Nghệ An 450,393  
37,833  
84  
625,000  
75,629  
85  
1,128,000 248,172  
154  
32 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC  
NG DỤNG CÔNG NGHỆ  
ngăn, bổ sung thêm giá thể vào ngăn cuối, bể tự hoại  
dòng chảy ngược có vách ngăn. Kết quả cho thấy, hiệu  
quả XLNT đều được cải thiện trong các nghiên cứu.  
3.2. Tính chất của nước thải sinh hoạt  
Do nước thải sinh hoại không được thu gom riêng,  
mà được thải vào hệ thống thoát nước chung của thành  
phố, vì vậy, tính chất của nước thải không ổn định, hơn  
nữa tại các khu vực khác nhau tính chất của nước thải  
sinh hoạt cũng khác nhau.  
Có thể thấy được đặc trưng nước thải của thành  
phố Hà Nội là ô nhiễm chất hữu cơ. Nước thải đen  
có hàm lượng chất ô nhiễm lớn nhất so với nước thải  
xám, nước thải sinh hoạt và nước thải đô thị. Nước thải  
đô thị có hàm lượng chất ô nhiễm thấp nhất, đôi khi  
thấp hơn nước quy chuẩn vào mùa mưa. Hàm lượng  
chất dinh dưỡng N, P trong nước thải sinh hoạt lớn  
hơn nước tự nhiên, khiến nó có tiềm năng gây ra hiện  
tượng phú dưỡng cho các hồ tiếp nhận. Trong nước  
thải sinh hoạt cũng có chứa các kim loại như: Canxi,  
Magie, Chì, Đồng, Kẽm, Cadimi… tuy hàm lượng của  
chúng không cao, nhưng vẫn có thể gây những mối lo  
ngại liên quan đến vấn đề tích tụ sinh học.  
Một trong các vấn đề đáng lo ngại khi tái sử dụng  
nước là các tác động bất lợi của hóa chất và các yếu  
tố sinh học như các chất gây ô nhiễm cần quan tâm  
(contaminants of emerging concern - CEC) và gen  
kháng thuốc kháng sinh (antibiotic resistance genes -  
ARG) [7]. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên  
cứu về hai vấn đề trên đối với nước thải sinh hoạt, mà  
chỉ tập trung vào nghiên cứu trên nước thải bệnh viện,  
phòng khám và trên nước mặt. Các loại dược phẩm  
do con người sử dụng có thể thông qua nước thải sinh  
hoạt đi vào môi trường, điều này góp phần tạo ra các  
gen đột biến có khả năng kháng chất kháng sinh, từ đó  
gây ra các lo ngại về nguy cơ xuất hiện các chủng virut  
đã kháng thuốc kháng sinh.  
Hình 1: Vị trí bể tự hoại trong sơ ̣ồ hu thống thoát  
nước ch ng  
Trước năm 2000, hoạt động XLNT ở Việt Nam hầu  
như chỉ được thực hiện trong các công trình vệ sinh tại  
chỗ như bể tự hoại, công trình được người Pháp mang  
đến Việt Nam từ thế kỷ XIX trong thời kỳ thuộc địa.  
Sau đó, công trình này được sử dụng rộng rãi, với quy  
định tất cả các hộ gia đình phải xây dựng công trình vệ  
sinh tại chỗ. Gần 90% hộ gia đình ở khu vực thành thị  
có bể tự hoại. Hệ thống tự hoại thường chỉ bao gồm  
một bể tự hoại và chỉ nhận nước đen, trong khi nước  
xám thường được xả trực tiếp ra các cống thoát nước.  
Ở Việt Nam, rất ít nơi có hệ thống thu gom riêng nước  
thải sinh hoạt và nước chảy bề mặt, ngoại trừ một số  
khu đô thị mới được xây dựng gần đây do yêu cầu bắt  
buộc tách nước thải sinh hoạt và nước mưa. Nước thải  
sinh hoạt (gồm nước thải đen và nước thải xám) được  
thải trực tiếp vào hệ thống thoát nước mặt thông qua  
hệ thống cống trở thành nước thải đô thị, sau đó nước  
thải đô thị được thu gom và vận chuyển về trạm XLNT  
tập trung và xử lý trước khi thải ra môi trường [6].  
Bể tự hoại tại các hộ gia đình thường được xây dựng  
chủ yếu theo kinh nghiệm và không có bản vẽ, có dạng  
hình hộp hoặc hình trụ, hiệu quả xử lý thường đạt 30 -  
40%. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm nâng  
cao hiệu quả xử lý của bể tự hoại như làm thêm nhiều  
Bảng 2: Hàm lượng chất ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt và nước thải đô thị  
Loại nước thải  
COD (mg/L) BOD5 (mg/L)  
SS (mg/L)  
T-N (mg/L)  
T-P (mg/L)  
Coliform  
(MPN  
/100mL)  
Nước thải đen  
Nước thải xám  
Nước thải sinh hoạt  
1086  
208  
583  
145,67  
96-135  
60-604  
500  
200  
30  
50  
-
151  
243  
72,67  
64-95  
31-380  
250  
100  
75  
150  
7905  
63  
223  
34,00  
90-140  
41-792  
300  
50  
50  
100  
-
24,2  
48  
32,69  
31-37  
11-95  
40  
20  
20  
40  
-
4,9  
9
-
16-32  
1,4-19  
-
4,7×105  
3,7×107  
2,48×105  
>9000  
-
Nước thải đô thị  
9
4
4
6
108 - 109  
-
3000  
QCVN cột A  
QCVN cột B  
;  “-” thể hiun không ̣ề cập ̣ến  
5000  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 33  
3.3. Hiện trạng XLNT  
Gần đây, nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm  
mục đích tăng hiệu quả XLNT, giảm chi phí đầu tư xây  
dựng cũng như vận hành. Các công nghệ được chú ý  
như sử dụng thực vật nổi (bèo lục bình), đất ngập nước  
nhân tạo (constructed wetland) sử dụng phương pháp  
tự nhiên để XLNT, đem lại hiệu quả xử lý tương đối  
tốt. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp cần diện tích  
lớn, phát sinh các vấn đề như: Muỗi, lượng sinh khối  
tạo ra lớn… Nhiều phương pháp cải tiến các công nghệ  
cũ dựa trên những tiến bộ của công nghệ màng cũng  
đã được chú ý như công nghệ màng sinh học MBR,  
MBBR… có thể giảm thể tích thiết bị, tăng hiệu quả  
xử lý. Việc XLNT sinh hoạt bằng các phương pháp  
sinh học không thể xử lý được với các chất ô nhiễm  
khó phân hủy sinh học hoặc các chất độc sinh học.  
Các phương pháp như hấp phụ, lọc màng, đông tụ/tạo  
bông và các phương pháp sinh học cơ bản chỉ có thể  
tách chúng ra khỏi nước thải chứ không thể xử lý triệt  
để được chúng. Hiện nay, phương pháp ôxy hóa nâng  
cao đang được các nhà nghiên cứu quan tâm, với sự  
hoạt động của nhóm ôxy hóa mạnh hydroxyl (•OH),  
ôxy hóa trực các chất khó phân hủy sinh học, hứa hẹn  
sẽ là một giải pháp XLNT phù hợp trong tương lai. Rào  
cản lớn trong việc áp dụng các phương pháp ôxy hóa  
nâng cao là tiêu thụ năng lượng lớn và có khả năng  
phát sinh các chất có độc tính cao hơn cả tiền chất.  
eo số liệu của Bộ Xây dựng, tính đến năm 2018, tỷ  
lệ khu đô thị (từ loại III trở lên) được đầu tư xây dựng  
hệ thống XLNT tập trung là 39% với 43 nhà máy XLNT  
tập trung đã đi vào hoạt động, tổng công suất thiết kế  
đạt 926.000 m3/ngày đêm, đáp ứng được khoảng 13%  
nhu cầu. Hầu hết các trạm XLNT cho chất lượng nước  
đầu ra đạt loại B (QCVN 14-MT:2015/BTNMT) về  
COD, BOD, SS nhưng chưa đạt tiêu chuẩn về T-N và  
T-P.  
Hình 2: Công nghu XLNT ở trạm XLNT Kim Liên và Trúc  
Bạch (Hà Nội)  
3.4. Tái sử dụng nước thải sau xử lý trên thế giới  
và ở Việt Nam  
3.4.1. Trên thế giới  
Các công nghệ XLNT sinh hoạt hiện nay được áp  
dụng tại các trạm XLNT tập trung ở Việt Nam gồm:  
Cụm bể AAO, bể hiếu khí truyền thống, hồ sinh học,  
bể lọc sinh học, mương ôxy hóa... Điểm chung của các  
công nghệ này là đều sử dụng các tác nhân sinh học vào  
trong XLNT. Mặc dù có thể xử lý đạt quy chuẩn xả thải,  
tuy nhiên, các hệ thống trên còn có nhiều hạn chế về  
chi phí vận hành, diện tích, phát sinh chất thải thứ cấp,  
sinh mùi khó chịu… nước thải sau xử lý chưa đảm bảo  
các tiêu chuẩn về sức khỏe khi sử dụng cho cấp nước  
sinh hoạt.  
Hệ thống quản lý nước thải tập trung không phải là  
giải pháp duy nhất giải quyết được tất cả các vấn đề vệ  
sinh môi trường của Việt Nam. Hệ thống quản lý phân  
tán nên được xem xét ở cả các khu vực nội đô mà hệ  
thống quản lý tập trung không mang lại hiệu quả kinh  
tế. Ước tính hàng nghìn hệ thống XLNT phân tán đã  
được xây dựng cho các tòa văn phòng, khách sạn, nhà  
máy, bệnh viện, cộng đồng dân cư mới và làng nghề ở  
Việt Nam. Trong TCVN 51:2008 của Bộ Xây dựng đã  
có nhiều công nghệ XLNT như: Hiếu khí, yếm khí, hồ  
sinh học, mương ôxy hóa… Hiện nay, các công nghệ  
xử lý được cải tiến nhỏ gọn hiệu quả hơn, sử dụng vật  
liệu compozit giúp giảm chi phí đầu tư, vận chuyển, dễ  
dàng tháo lắp [6].  
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, việc tái sử dụng nước  
thải sau xử lý đã được thực hiện từ lâu. Ở Nhật Bản,  
ban đầu nước thải từ nhà vệ sinh và nước tưới tiêu được  
xử lý tại trạm xử lý theo phương pháp lọc cát và khử  
trùng bằng ozon hoặc clo sau công đoạn xử lý sinh học.  
Nước sau xử lý được sử dụng làm nước vệ sinh cho các  
tòa nhà lớn. Sau đó, nước thải được quan tâm xử lý để  
tạo thành nguồn cấp nước cho các thủy vực nước mặt.  
Hiện nay, nước tái chế được sử dụng với nhiều mục  
đích khác nhau: Làm nước vệ sinh, nước tưới cây, nước  
rửa, nước làm mát… thông qua việc áp dụng công nghệ  
màng siêu lọc, màng nano, màng thẩm thấu ngược sau  
công đoạn xử lý sinh học [8]. Tại Singapo, ban đầu  
lượng nước sinh hoạt ở đây là do Malaysia cung cấp,  
cho đến năm 1970 vấn đề tái sử dụng nước được quan  
tâm. Ngày nay, các nhà máy NEWater cung cấp trung  
bình 30% nhu cầu nước của Singapore, con số dự kiến  
sẽ tăng lên 55% vào năm 2060, vào thời điểm đó, sản  
lượng NEWater có thể lên tới 2 triệu mét khối mỗi  
ngày. Phương pháp XLNT được áp dụng là công nghệ  
màng RO, ôxy hóa nâng cao và công nghệ điện hóa [9].  
3.4.2. Ở Viut N̉m  
Ở Việt Nam, việc tái sử dụng nước thải sau xử lý  
chưa thật sự mạnh mẽ, nước thải sau xử lý chủ yếu  
34 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC  
NG DỤNG CÔNG NGHỆ  
được thải trực tiếp ra ngoài môi trường, một phần được tiêu dùng và khả năng chấp nhận nước tái chế sử dụng  
sử dụng cho nông nghiệp, thủy sản [6].  
bảng câu hỏi khảo sát. Nghiên cứu cho thấy rằng, công  
chúng nói chung có mức độ sẵn sàng rất thấp đối với  
việc sử dụng nước thải đã qua xử lý, họ lo lắng về sự  
an toàn và những tiêu cực có thể xảy ra đối với môi  
trường, kinh tế và sức khỏe, vấn đề sử dụng nước thải  
tái chế. Hơn nữa, vấn đề chi phí và kỹ thuật được sử  
dụng cũng khiến việc tái chế nước thải gặp nhiều khó  
khăn.  
̉. Sư dụng cho nông nghiup  
Với một đất nước còn có tỷ trọng nông nghiệp  
lớn như Việt Nam, lượng nước cần để cấp cho nông  
nghiệp là rất lớn. eo dự đoán, đến năm 2030 nhu  
cầu nước sử dụng cho nông nghiệp của Việt Nam lên  
đến 91 tỷ m3/năm. Nước thải sinh hoạt có hàm lượng  
dinh dưỡng cao hơn nước thải tự nhiên, vì vậy nhiều  
nghiên cứu chỉ ra có thể sử dụng nước thải cho nông  
nghiệp[10]. Chất dinh dưỡng có trong nước thải biogas  
cao hơn so với phân chuồng và phân ủ theo phương  
pháp thông thường, ngoài các dưỡng chất như N, P,  
K, nước thải biogas còn chứa nhiều chất hữu cơ và các  
nguyên liệu cần thiết cho cây trồng. Các nguyên tố  
NPK của nguyên liệu sau khi phân hủy qua hệ thống  
biogas hầu như không bị tổn thất mà được chuyển hóa  
3.5. Đề xuất công nghệ phù hợp tái chế nước thải  
tại Việt Nam  
Đối mặt với nguy cơ thiếu nước trong tương lai, việc  
sử dụng lại nước thải sau xử lý sẽ là yêu cầu bắt buộc.  
Trong điều kiện Việt Nam, việc đầu tư hệ thống thoát  
nước phân tách giữa nước thải sinh hoạt và nước mặt  
là cần thiết, giúp giảm lượng nước thải đô thị, ổn định  
thành phần và hàm lượng chất ô nhiễm. Phương pháp  
xử lý yếm khí được sử dụng như một phương pháp xử  
lý sơ bộ sẽ phù hợp vì có khả năng xử lý được nước thải  
chứa hàm lượng chất ô nhiễm hữu cơ cao, hơn nữa có  
thể thu năng lượng dưới dạng khí biogas. Nước thải sau  
xử lý yếm khí thường có hàm lượng chất dinh dưỡng N,  
P cao thích hợp cho việc sinh trưởng của các loài thực  
vật, theo đó, công nghệ Constructed Wetland có thể  
xem xét áp dụng xử lý. Hồ sinh học sử dụng thực vật  
nổi cũng là một hướng đi có tiềm năng khi XLNT chứa  
hàm lượng chất dinh dưỡng cao, hơn nữa đóng góp  
việc điều hòa không khí, tạo cảnh quan môi trường.  
+
thành dạng phân lỏng mà cây dễ hấp thụ như N-NH4 ,  
-
N-NO3 , đồng thời chứa chất hữu cơ cao cải thiện tính  
chất đất, giúp cây phát triển mạnh, ít sâu bệnh. Vì thế,  
nước thải sau xử lý đã được xem xét sử dụng để trồng  
bắp (Zea maysL.), sử dụng như phương pháp bổ sung  
dinh dưỡng cho đất.  
b. Sư dụng cho thủD sản  
Đối với nghề nuôi trồng thủy sản, chất lượng nước  
là một vấn đề quan trọng sống còn. Nguồn nước cấp  
cần phải đạt tiêu chuẩn chất lượng nước phục vụ nuôi  
trồng thủy sản, cụ thể là đáp ứng được Quy chuẩn kỹ  
thuật Quốc gia về chất lượng nước mặt QCVN 08-  
MT:2015/BTNMT cột A2. Tuy nhiên, trên thực tế chất  
lượng nước trong khu vực thường bị ô nhiễm hữu cơ  
Các phương pháp trên tuy giải quyết được các chất  
ô nhiễm hữu cơ, tuy nhiên nước thải sau xử lý còn gây  
ra nhiều lo ngại về các vấn đề sức khỏe. Các công nghệ  
và ô nhiễm dinh dưỡng như đạm, phốt pho. Tính chất như sử dụng màng, hấp phụ, ôxy hóa nâng cao sẽ phù  
nước trong hệ thống ao nuôi gồm các thành phần  
gây hại cho môi trường và chủ yếu là nitơ, photpho  
được sinh ra từ chất thải của cá, thức ăn dư thừa. Hàm  
hợp cho việc XLNT chứa các chất độc, các chất khó  
phân hủy sinh học, trong đó ôxy hóa nâng cao có phần  
đáng chú ý hơn khi xử lý được tận gốc chất ô nhiễm,  
chứ không chỉ đơn thuần là tách chất ô nhiễm ra khỏi  
nước thải.  
+
-
-
lượng NH4 , NO , NO3 phát sinh lại là chất độc đối  
với sự sinh trưởn2g và phát triển các loài thủy sản. Một  
vài nghiên cứu XLNT bằng công nghệ AAO – MBR;  
Biofloc đã được nghiên cứu để có thể tái sử dụng được  
nước thải thủy sản [11].  
4. Kết luận  
Hiện nay, XLNT ở Việt Nam còn gặp nhiều vấn đề,  
tỷ lệ nước thải được xử lý còn thấp so với tổng lượng  
nước thải phát sinh. Các thành phố trực thuộc Trung  
ương có lượng nước thải sinh hoạt lớn hơn so với các  
thành phố cấp địa phương. Các chất ô nhiễm trong  
nước thải sinh hoạt chủ yếu là các chất ô nhiễm hữu  
cơ và được xử lý tương đối tốt nhưng các chất dinh  
dưỡng N, P vẫn chưa được xử lý triệt để. Công nghệ  
XLNT sinh hoạt ở Việt Nam chủ yếu vẫn là xử lý sinh  
học, chưa phù hợp với mục đích để tái sử dụng nước  
thải. Vấn đề XLNT cho mục đích tái sử dụng là nước  
cấp ở Việt Nam hiện chỉ dừng lại ở mức độ để cấp cho  
các hoạt động nông nghiệp, thủy sản, để có thể sử dụng  
cho các mục đích cao hơn như cấp nước ăn uống sinh  
Ngoài ra, nước thải sau xử lý còn được sử dụng  
với nhiều mục đích khác như tưới cây, tưới đường,  
cấp nước cho các hệ thống sông hồ, kênh rạch… tuy  
nhiên tái sử dụng nước sau xử lý còn gặp nhiều vấn đề  
khi sử dụng để cấp nước cho sinh hoạt. Việc sử dụng  
nước thải sau xử lý bị thách thức do nhận thức sai lầm  
của công chúng. Nước thải đã qua xử lý thường được  
cho là nguy hại cho sức khỏe cộng đồng do sự hiện  
diện tiềm ẩn của các chất ô nhiễm, chất dinh dưỡng,  
các chất độc hại và các mầm bệnh. Sự hiện diện của  
các chất ô nhiễm trong nước thải đã qua xử lý, có thể  
tiềm ẩn những nguy cơ đối với sức khỏe con người,  
phần lớn phụ thuộc vào việc lựa chọn công nghệ thích  
hợp để XLNT. Một nghiên cứu về nhận thức của người hoạt cần xem xét áp dụng các công nghệ màng, ôxy hóa  
Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021 35  
nâng cao, hấp phụ và phải đảm bảo mức độ an toàn về gia của các bên để cung cấp và tái sử dụng nước quy mô  
hàm lượng các chất độc.  
nhỏ trong các lưu vực sông Danube và sông Mê Kông”,  
mã số: NĐT.103.SEA-EU/21. Tập thể tác giả cảm ơn  
sự tài trợ của đề tài và Trường Đại học Khoa học Tự  
Lời cám ơn: Nghiên cứu tổng quan này được tài trợ  
bởi đề tài hợp tác quốc tế “Quản lý tài nguyên nước  
tổng hợp thông qua đối thoại song phương với sự tham nhiên, ĐHQGHN  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
w̉stew̉ter intended for ̉gric  lt  r̉l re  se”, Environment  
Intern̉tion̉l 138, 105597.  
1. Gr̉ce K̉m Ch n ;ing, 2017 “W̉stew̉ter trẻtment ̉nd  
re se - e f t re so rce of w̉ter s pplD”, EncDclopedỉ of  
S st̉in̉ble Technologies, , pp. 43 - 52.  
2. N. P. ;̉n, L.V. Khỏ, B. X. ̉nh, P. T. Ng̉, C. Visv̉n̉th̉n,  
2011, “Potentỉl of W̉stew̉ter Recl̉m̉tion to Red ce Fresh  
W̉ter Stress in Ho Chi Minh CitD-Vietn̉m”, Jo  rn̉l of  
W̉ter S st̉in̉bilitD, V. 1, I. 3, pp. 279 - 287.  
8. John C. R̉dcliffe, ;ecl̉n P̉ge, 2020, “W̉ter re  se ̉nd  
recDcling in A str̉lỉ - historD, c rrent sit ̉tion ̉nd f t re  
perspectives”, W̉ter CDcle, V. 1, pp. 19 - 40.  
9. Olivier Lefebvre, 2018, “BeDond NEW̉ter: ̉n insight into  
Sing̉pore’s w̉ter re  se prospects”. C  rrent Opinion in  
Environment̉l Science & Hẻlth, V.2, , pp. 26 - 31.  
3. World B̉nk, 2019, “Vietn̉m: Tow̉rd ̉ S̉fe, Clẻn, ̉nd  
Resilient W̉ter SDstem.” World b̉nk, W̉shington, ;C.  
10. Ng Den M̉nh Kh̉i, Ph̉m ̉nh T ̉n, Ng Den Cong Vinh,  
Ingrid Oborn, 2008 “Effects of  sing w̉stew̉ter ̉s n trient  
so rces on soil chemic̉l properties in peri- rb̉n ̉gric lt r̉l  
sDstems”, VNU Jo rn̉l of Science, Ẻrth Sciences V. 24, pp.  
87 - 95  
4. om̉s S̉gris; Sir̉j T̉hir; Jennifer Möller-G ll̉nd; Ng Den  
Vinh Q ̉ng; J stin Abbott; L  Ỷng, 8/2017, “Vuit N̉m:  
Kh ôn khổ kinh tế về nước ̣ể ̣ánh giá các thách thức củ̉  
ngành nước”, 2030 W̉ter Reso rces Gro p,  
5. Cơ q ̉n hợp tác q ốc tế Nhật Bản (JICA), 2015, Báo cáo  
c ối kỳ: Điề  tr̉ ngành cấp thoát nước ̣ị̉ phương.  
11. Ng Dễn X ân Hoàng, Lê Anh ư, Ng Dễn Minh ư, Lê  
Hoàng Viut, 2019, “Nghiên cứ  XLNT thủD sản bằng công  
nghu AA/O - MBR”, Tạp chí Khỏ học Trường Đại học Cần  
ơ, Tập 55, Số ch Dên ̣ề: Môi trường và Biến ̣ổi khí hậ  
(1) 149 - 156.  
6. Ngân hàng ế giới, 12/2013, “Đánh giá hoạt ̣ộng q ản lý  
nước thải ̣ô thị tại Viut N̉m”.  
7. Nikiforos A. AlDgiz̉kis el ̉t., 2020 “Ev̉l ̉tion of chemic̉l  
̉nd biologic̉l cont̉min̉nts of emerging concern in trẻted  
DOMESTICWASTEWATERTREATMENTANDREUSEOFRECLAIMED  
WASTEWATER IN VIETNAM  
Nguyen Van Quan, Tran i Huyen Nga, Pham i uy, Nguyen Manh Khai*  
F̉c ltD of Environment̉l Sciences, UniversitD of Science, Vietn̉m N̉tion̉l UniversitD, H̉noi  
ABSTRACT  
e need for fresh water is an essential need of life, so the treatment of wastewater for reuse soon receives  
the attention of many countries. However, reuse of reclaimed water still faces many difficulties in Vietnam.  
e domestic wastewater with the increase in quantity and substance makes it difficult for managers. is  
study is conducted to assess the current situation of generation, composition, treatment technology and the  
current situation of reuse reclaimed domestic wastewater in Vietnam, examining the problems encountered  
when using reclaimed water. So that, propose advanced wastewater treatment technologies to treat wastewater  
for reuse. By online database analysis and published reports, relevant information will be synthesized and  
analyzed, thereby drawing a sketch of domestic wastewater treatment and using reclaimed water in Vietnam.  
e results show that domestic wastewater in Vietnam is not treated very well, the amount of treated water only  
accounts for about 13% of the total generated wastewater, the rest is discharged directly into the environment.  
Using reclaimed water is only used to supply water for river and lake systems and irrigation, it has not yet  
used with higher requirements. Biological toxins, antibiotics in wastewater are a remarkable issue in the reuse  
of treated domestic wastewater. erefore, the advanced treatment methods such as advanced membrane  
technology, adsorption and advanced oxidation need to be researched and applied more.  
Key words: ;omestic w̉stew̉ter, w̉stew̉ter re se, w̉stew̉ter trẻtment, domestic w̉ter s pplD.  
36 Chuyên đề I, tháng 3 năm 2021  
pdf 6 trang yennguyen 22/04/2022 520
Bạn đang xem tài liệu "Xử lý nước thải sinh hoạt và tái sử dụng nước thải sau xử lý tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfxu_ly_nuoc_thai_sinh_hoat_va_tai_su_dung_nuoc_thai_sau_xu_ly.pdf