Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh: Cơ hội và thách thức

INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
VIỆT NAM HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG XANH:  
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC  
VIET NAM TOWARDS GREEN GROWTH:  
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES  
ThS. Nguyễn Thị Mai - TS. Trần Ngọc Trang - ThS. Hoàng Thị Tâm  
Trường Đại học Thương mại  
Tóm tắt  
Tăng trưởng xanh (Green Growth) là hướng tiếp cận mới của thế giới trong tăng trưởng  
kinh tế, đây là một cách tiếp cận phù hợp với xu hướng tăng trưởng chung của kinh tế toàn cầu.  
Tăng trưởng xanh không chỉ là sự lồng ghép vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế, mà nó  
đã được hiểu sâu rộng hơn, đề cập đến cả phát triển cân bằng, hài hòa giữa các mục tiêu. Ngày  
nay nó đã được coi là một mô hình phát triển mới, được nhiều quốc gia ủng hộ và hướng theo.  
Ở Việt Nam, tăng trưởng xanh được xác định là một nội dung quan trọng trong phát triển  
bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh và hiệu quả của Chiến lược quốc gia về tăng trưởng  
xanh theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25/9/2012. Đến nay, với  
những nỗ lực và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã đạt được một số kết quả nhất định.  
Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh còn gặp nhiều thách thức. Bằng phương  
pháp khảo cứu, phân tích so sánh các nguồn dữ liệu thứ cấp, bài viết tập trung đi sâu nghiên  
cứu, đánh giá những thuận lợi và khó khăn mà Việt Nam đang gặp phải khi thực hiện mục tiêu  
này. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng  
xanh mà Nhà nước và Chính phủ đang hướng tới.  
Từ khóa: Kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, chiến lược phát triển kinh tế  
Abstract  
Green Growth (Green Growth) is a new approach of the world to economic growth, this is  
an approach consistent with the general growth trend of the global economy. Green growth is  
not only the integration of environmental issues in economic development, but it has been un-  
derstood more deeply, referring to balanced and harmonious development among the goals.  
Today it is considered as a new development model, supported and followed by many countries.  
In Vietnam, green growth has been identified as an important content in sustainable de-  
velopment, ensuring rapid and efficient economic development of the National Green Growth  
Strategy according to Decision 1393 / QD- Prime Ministers TTg dated September 25, 2012.  
Up to now, with the efforts and support of the international community, Vietnam has achieved  
certain results. However, the implementation of green growth targets still faces many challenges.  
By the method of research, comparative analysis of secondary data sources, the article focuses  
on research and assessment of the advantages and disadvantages that Vietnam is facing when  
implementing this goal. On that basis, proposing solutions to promote development and realiza-  
tion of green growth goals that the State and the Government are aiming at.  
107  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
Keywords: Green economy, Green growth, sustainable development, Economic develop-  
ment strategy.  
1. Nhận thức về Kinh tế xanh và Tăng trưởng xanh  
Khái niệm Kinh tế xanh (green economy) được chính thức đề cập lần đầu tiên vào năm  
1989 bởi một nhóm các nhà kinh tế môi trường gồm David Pearce, Anil Markandya và Edward  
Barbier trong báo cáo “Blueprint for a green economy” gửi Chính phủ Liên hiệp Vương quốc  
Anh (Pearce, Markandya, & Barbier, 1989) [23]. Tới năm 2008, trong bối cảnh khủng hoảng  
kinh tế toàn cầu, chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) đã nhắc lại khái niệm  
này và coi việc hướng tới xây dựng nền Kinh tế xanh, mà bắt đầu là các các “gói kích thích kinh  
tế xanh” (Green New Deals) trong một số lĩnh vực cụ thể, và sau đó là “Tăng trưởng xanh” (Green  
Growth) để hướng tới Kinh tế xanh là lối thoát quan trọng để đưa các quốc gia ra khỏi tình trạng  
khủng hoảng kinh tế, hướng tới phát triển bền vững.  
Có nhiều định nghĩa khác nhau về Kinh tế xanh, Liên minh châu Âu cho rằng “Kinh tế  
xanh là nền kinh tế tăng trưởng thông minh, bền vững và công bằng” (European Commission,  
2010 Europe 2020: A Strategy for smart, sustainable and inclusive growth) [8]. Nhóm Liên minh  
kinh tế xanh (The Green Economy Coalition) định nghĩa kinh tế xanh là “nền kinh tế tạo ra chất  
lượng cuộc sống tốt hơn cho tất cả mọi người trong giới hạn sinh thái của trái đất” (Green Econ-  
omy Coalition, 2012 The green economy pocketbook: the case for action. Summary: From crisis  
to opportunity) [9]. Phòng Thương mại Quốc tế xem xét kinh tế xanh từ góc độ kinh doanh và  
cho rằng “Kinh tế xanh là nền kinh tế mà tăng trưởng kinh tế và trách nghiệm môi trường đi đôi  
với nhau và tương hỗ cho nhau, đồng thời hỗ trợ quá trình phát triển xã hội” (ICC, 2012, Green  
Economy Roadmap – executive summary) [11]. Báo cáo của Ủy ban các vấn đề Kinh tế - Xã hội  
của Liên Hợp Quốc (UNDESA, 2012 A Guidebook to the Green Economy. Issue 2: Exploring  
green economy principles.) [27] tổng hợp các định nghĩa của nhiều quốc gia và chỉ ra điểm chung  
mà một nền kinh tế xanh cần hướng tới là việc giảm các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế  
tới môi trường và xã hội. Cho đến nay, định nghĩa của UNEP được coi là chính xác và đầy đủ  
nhất về Kinh tế xanh: “là nền kinh tế vừa mang lại hạnh phúc cho con người và công bằng xã  
hội, vừa giảm thiểu đáng kể các nguy cơ về môi trường và suy giảm sinh thái. Đó là nền kinh tế  
ít phát thải các-bon, sử dụng hiệu quả tài nguyên và đảm bảo công bằng xã hội” (UNEP, 2011b,  
p. 16). [32]  
Tăng trưởng xanh (Green Growth) là khái niệm rất gần với Kinh tế xanh, xuất hiện sau  
khái niệm Kinh tế xanh nhưng tới nay Tăng trưởng xanh lại được biết đến nhiều hơn và là hướng  
tiếp cận mới của thế giới trong tăng trưởng kinh tế. Khái niệm Tăng trưởng xanh được đề cập  
chính thức tại Hội nghị Bộ trưởng về Môi trường và Phát triển (MCED) năm 2005 tại Seoul, Hàn  
Quốc. Ban đầu, nhiều nhà nghiên cứu sử dụng các khái niệm Tăng trưởng xanh, Kinh tế xanh và  
cả “Xanh hóa nền kinh tế - Greening the economy” (Seventh “Environment for Europe” Minis-  
terial Conference - UNECE – 9.2011) [28] để thay thế cho nhau, trong đó UNEP, UNDESA và  
ICC thường dùng thuật ngữ Kinh tế xanh, còn Tổ chức Hợp tác Phát triển kinh tế (OECD), Ngân  
hàng thế giới (World Bank) và các doanh nghiệp thường đề cập tới vấn đề tăng trưởng kinh tế  
qua Tăng trưởng xanh, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng: “Tăng trưởng xanh là hiệu quả trong  
việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sạch trong việc giảm thiểu ô nhiễm và các tác động môi  
108  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
trường, linh hoạt trong khả năng thích ứng với các hiểm họa thiên nhiên, quản lý môi trường và  
vốn tự nhiên trong phòng chống thiên tai.” (World Bank, 2012) [41] Theo Tổ chức Hợp tác Phát  
triển kinh tế OECD, ‘‘Tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời  
đảm bảo các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết  
yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác  
trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ  
hội kinh tế mới(OECD, 2014) [22]. Việc các tổ chức này sử dụng thuật ngữ tăng trưởng xanh  
là do phụ thuộc vào tính phù hợp của các khái niệm đó với các ưu tiên của họ. Tuy nhiên, cần  
nhận thức được nội hàm của các khái niệm này là tương đối khác nhau, theo đó Tăng trưởng  
xanh nhấn mạnh tới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn giữ cân bằng hài hòa với môi trường  
sinh thái – mà cụ thể là tránh gây các áp lực làm phá vỡ sự cân bằng của môi trường (EEA Report,  
2016, p. 93) [7], với mục tiêu cao nhất là duy trì bền vững sự tăng trưởng kinh tế (sustainable  
economic growth). Mặc dù vậy, không có gì đảm bảo là các lợi ích mà Tăng trưởng xanh đem lại  
sẽ được phân phối đều cho toàn xã hội (UNESCAP, 2013) [35]. Trong khi đó, Kinh tế xanh nhấn  
mạnh nhiều hơn tới các giới hạn của môi trường chứ không chỉ là sự cân bằng sinh thái, đặc biệt,  
Kinh tế xanh còn chú trọng tới hạnh phúc của con người và công bằng xã hội (UNITAR, 2012)  
[36]. Như vậy, Kinh tế xanh toàn diện hơn khi chú ý tới phát triển bền vững (sustainable devel-  
opment) với cả ba nội dung là kinh tế, môi trường và xã hội. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý nhận  
định của UNESCAP (2013), được đặt ra trong bối cảnh nhiều nơi trên thế giới vẫn còn nghèo  
đói thì tăng trưởng xanh sẽ là điều kiện cần để tiến tới Kinh tế xanh. Đây có lẽ là lý do chính  
khiến Tăng trưởng xanh đã được chú ý nhiều hơn so với Kinh tế xanh trong những năm đầu thế  
kỷ 21.  
Như vậy, mặc dù các khái niệm có cách diễn đạt khác nhau nhưng tất cả đều nhận định nền  
kinh tế xanh theo ba trụ cột chính: phát triển kinh tế (là sự tăng trưởng về thu nhập và việc làm);  
bền vững môi trường (giảm thiểu phát thải cacbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường; sử dụng có  
hiệu quả năng lượng và tài nguyên thiên nhiên và ngăn chặn sự suy giảm đa dạng sinh học, dịch  
vụ của hệ sinh thái...); gắn kết xã hội (bảo đảm mục tiêu giảm nghèo, bình đẳng trước các cơ hội  
mà nền kinh tế xanh tạo ra, đem lại môi trường sống trong lành).  
2. Sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hướng đến tăng trưởng xanh ở  
Việt Nam  
Trong bối cảnh ngày nay, khi mà các quốc gia trên thế giới phải đối mặt cùng lúc với nhiều  
cuộc khủng hoảng như khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế và đặc biệt gần đây là tác  
động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu toàn cầu. Việt Nam cũng là quốc gia không nằm ngoài các  
tác động đó là:  
Thứ nhất, do nền kinh tế tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào sản phẩm thô, sản  
xuất tiêu tốn nhiều năng lượng hóa thạch, với sự đóng góp rất hạn chế về công nghệ, sẽ dẫn đến  
cạn kiệt các nguồn tài nguyên, làm suy thoái và ô nhiễm môi trường, khiến nền kinh tế phát triển  
kém bền vững và thiếu ổn định. Giống như hầu hết các nước thu nhập thấp, trong hai thập kỷ  
qua do thiếu quan tâm đúng mức và sử dụng công nghệ lạc hâu đã khiến Việt Nam trở thành một  
quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào tài nguyên nông nghiệp và khoáng sản để tăng cường phát triển  
kinh tế. Theo báo cáo của World Bank 2017, giá trị ước tính vốn tự nhiên của Việt Nam chiếm  
109  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
khoảng 1/3 tài sản của đất nước trong giai đoạn 1990 - 2014, so với Đông Á là 10% và 17% ở  
các nước thu nhập trung bình cao. So sánh này chỉ ra rằng Việt Nam sẽ phải chuyển sang tăng  
trưởng thâm dụng vốn và nhân lực hơn trong tương lai, điều này này hoàn toàn phù hợp trong  
bối cảnh suy thoái nhanh chóng của nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam trong những  
năm gần đây.  
Hình M.28. Đánh giá trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2017a) [42] cho thấy Việt  
Nam đã dựa rất nhiều vào vốn tự nhiên để tạo ra của cải, giai đoạn 1990–2014.  
Thứ hai, các vấn đề về ô nhiễm môi trường của Việt Nam cũng đang trở nên trầm  
trọng hơn.  
Theo kết quả kiểm kê khí nhà kính (KNK) của Việt Nam năm 2010, trong khuôn khổ Dự  
án “Tăng cường năng lực kiểm kê quốc gia khí nhà kính tại Việt Nam” (2010-2014) do Cơ quan  
Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tài trợ. Hiện tượng phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp  
và ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn chiếm 43,1% tổng phát thải khí nhà kính của Việt  
Nam. Theo dự báo, đến năm 2020, tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam trong điều  
kiện bình thường khoảng 96,29 triệu tấn CO2, trong đó trồng trọt chiếm 59,2% (phần lớn từ canh  
tác lúa nước), chăn nuôi 25,3%, ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn 20,1%, thủy sản 15,8%,  
thủy lợi 0,4% và lâm nghiệp hấp thụ được 20,9% lượng khí trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên  
cạnh đó, việc sử dụng nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu, các loại phụ gia, chất kích thích v.v…  
trong khu vực nông nghiệp vẫn tiếp tục diễn ra đã tác động rất xấu đến môi trường, đa dạng sinh  
học và sức khỏe của con người. Trong khu vực công nghiệp, sự thiếu chặt chẽ trong việc quản lý  
môi trường đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước và các doanh nghiệp FDI, đã dẫn đến  
những tác động tiêu cực đối với kinh tế và xã hội, đặc biệt là ô nhiễm môi trường: Mặc dù những  
110  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
điều chỉnh luật đã hướng tới việc bảo vệ môi trường và khuyến khích chuyển giao công nghệ  
tiên tiến nhưng kết quả không có thay đổi nhiều, tỷ lệ vốn FDI thực hiện tập trung vào các ngành  
có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vẫn không thay đổi so với trước. Một số doanh nghiệp đầu  
tư nước ngoài chưa tự giác trong việc tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường, chỉ vận hành hệ  
thống xử lý chất thải khi cơ quan chức năng quản lý môi trường phát hiện và xử phạt.  
Sự gia tăng tương đối nhanh chóng của dân số sống ở các thành phố, từ 15 triệu người vào  
đầu những năm 2000 lên 34 triệu người vào năm 2018 và có lẽ lên tới 50 triệu người vào năm  
2035. Tổng lượng rác thải do các thành phố tạo ra ước tính đạt hơn 27 triệu tấn mỗi năm và dự  
kiến sẽ đạt 54 triệu tấn trên toàn quốc vào năm 2030, trong khi đó hiện Chỉ có 40 – 60% rác thải  
được thu gom vào bãi rác, phần còn lại được thải ra kênh mương và sông ngòi rồi chảy ra biển  
gây ô nhiễm nguồn nước. Các thành phố đang phát triển đã tăng mức phát thải CO2 và Hà Nội,  
cũng như Thành phố Hồ Chí Minh, hiện là một trong những trung tâm đô thị trên thế giới chịu  
ảnh hưởng nặng nề nhất của ô nhiễm không khí (hình M.29).  
Thứ ba, biến đổi khí hậu sẽ làm gia tăng sự xuống cấp tài sản thiên nhiên và môi trường ở  
Việt Nam, điều này sẽ ảnh hưởng tới kinh tế và đời sống của người dân.  
Việt Nam được đánh giá là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, bao gồm  
các tác động dài hạn như xâm nhập mặn ở vùng trũng thấp của đất nước (như đồng bằng sông  
Cửu Long), ảnh hưởng đến canh tác và nước ngầm. Với mực nước biển dâng cao dự kiến, hơn  
50 triệu người phải đối mặt với rủi ro, đặc biệt là ở miền nam. Ước tính, Việt nam có thể mất  
5,714 triệu ha đất nếu mực nước biển tăng 12 cm (hình M.30). Tổng thiệt hại có thể lên tới gần  
20 triệu ha đất nếu mực nước biển tăng 17 cm. Nhiệt độ cao sẽ làm giảm độ phì nhiêu của đất,  
tăng tần suất cháy rừng và tạo ra nhiều nhu cầu năng lượng hơn để điều hòa không khí. Lượng  
111  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
mưa thay đổi và không thể đoán trước sẽ ảnh hưởng đến cả năng suất nông nghiệp và điều kiện  
sống ở các thành phố. Điều này đang ảnh hưởng đến việc hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh  
tế - xã hội của đất nước.  
Những phân tích ở trên cho thấy nguyên nhân nổi bật của những vấn đề trong nền kinh tế  
hiện nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng của Việt Nam không còn phù hợp. Mô hình tăng  
trưởng “theo chiều rộng” đã được áp dụng quá lâu ở Việt Nam và chỉ phù hợp nếu đặt trong bối  
cảnh những năm của thập niên 1990. Tuy nhiên, nếu cứ kéo dài tiếp mô hình phát triển như hiện  
nay thì nền kinh tế Việt Nam càng gặp nhiều bất cập, đặc biệt khi Việt Nam còn nằm trong nhóm  
các nước có thu nhập trung bình. Do đó, để duy trì tính bền vững trong phát triển cần phải thay  
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển theo chiều sâu, bền vững, tiết kiệm tài  
nguyên, bảo vệ môi trường và được đặt ra như nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn phát triển mới.  
Nhận thức được điều này, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định lại chủ trương “phát triển nhanh  
và bền vững” và “phát triển kinh tế xanh”. Để thực hiện chủ trương về phát triển bền vững, phát  
triển kinh tế xanh, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản luật, quyết định, cũng như các  
chiến lược và chương trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh.  
Bên cạnh luật bảo vệ môi trường, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi  
trường còn có các luật, pháp lệnh bảo vệ các thành phần môi trường. Tính đến nay có trên 33 luật  
và hơn 22 pháp lệnh có nội dung liên quan đến công tác bảo vệ môi trường như luật đa dạng sinh  
học 2008, luật bảo vệ và phát triển rừng 2004; luật đất đai sử đổi 2013, luật thủy sản 2003, luật  
tài nguyên nước sửa đổi 2012, luật khoáng sản 2010.... Về cơ bản chính sách bảo vệ môi trường,  
các văn bản pháp luật đã tương đối đầy đủ và đã được thực thi rộng rãi, đi vào chiều sâu, có sự  
kết hợp hài hòa giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế-xã hội.  
Cùng với thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường, Đảng cũng đã ban hành các chiến lược  
bảo vệ môi trường, tính từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã đưa ra các chiến lược như: Định  
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định  
số 153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 về - Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam); Chiến lược  
phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết  
định số 432/QĐ-TTg phê duyệt Ngày 12/4/2012) Ngày 25/9/2012 thủ tướng ban hành Quyết  
định số 1393/QĐ-TTg về việc Phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-  
2020 và tầm nhìn đến năm 2050” Chiến lược này đề ra ba nhiệm vụ quan trọng: giảm phát thải  
nhà kính, xanh hóa sản xuất, xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững. Ngày 20/3/2014, Thủ  
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia  
tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020, trong đó, đề ra 4 chủ đề chính gồm: Xây dựng thể chế  
và kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương; Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy  
sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Thực hiện xanh hóa sản xuất; Thực hiện xanh hóa  
lối sống và tiêu dùng bền vững. Ngày 26/8/2016, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 73/NQ - CP  
phê duyệt chủ trương đầu tư 21 Chương trình mục tiêu giai đoạn 2016 - 2020, trong đó có Chương  
trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh.  
Từ các văn bản pháp quy, các chính sách, chiến lược về phát triển bền vững và tăng trưởng  
xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu mà Việt Nam ban hành, đã khẳng định quyết tâm của Chính  
phủ Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu tái cơ cấu kinh tế trong phát triển bền vững đi đôi  
112  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
với việc giảm thiểu các tác động của biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang nỗ lực  
chuyển các chính sách thành hành động cụ thể thông qua việc thực hiện giảm cường độ phát thải  
khí nhà kính và tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo. Cho đến nay, việc triển khai các giải pháp  
giảm phát thải khí nhà kính đã được triển khai rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực.  
3. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình thực hiện mục tiêu tăng  
trưởng xanh  
3.1. Cơ hội  
- Thứ nhất, hiện nay sự quan tâm lớn nhất của cộng đồng thế giới là “Biến đổi khí hậu”.  
Nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, các quốc gia đang có nhiều nỗ lực, trong đó  
phát triển kinh tế “Cac bon thấp”, “tăng trưởng xanh” đang là những xu hướng mới trong lộ trình  
tiến tới “Nền kinh tế xanh”. Việt nam sẽ đón nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia  
và các tổ chức quốc tế trên thế giới trong nỗ lực chung giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí  
hậu trên cơ sở hướng tới “Nền kinh tế xanh”. Ngoài ra, từ những thành công đạt được trong thực  
tiễn của các quốc gia đi trước trong việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh, Việt Nam  
sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm để có thể đưa ra các giải pháp, chiến lược phù hợp với  
điều kiện thực tế của mình.  
Thứ hai, Việt Nam đã nhận thức được ý nghĩa của nền kinh tế xanh, tăng trưởng xanh trong  
phát triển kinh tế và đang nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng, được thực hiện với quyết tâm  
chính trị cao. Điều này được thể hiện thông qua một loạt hệ thống văn bản quy phạm pháp luật  
được xây dựng cho việc triển khai thực hiện tăng trưởng xanh; xây dựng kế hoạch hành động  
tăng trưởng xanh. Các hoạt động hoàn thiện thể chế và triển khai thực hiện Chiến lược tăng trưởng  
xanh được thực hiện thông qua việc xây dựng và ban hành kế hoạch hành động tăng trưởng xanh  
ở các bộ và địa phương. Nhiều bộ, ngành cũng đang tích cực hưởng ứng, thực hiện “hành động  
tăng trưởng xăng Thống kê cho thấy, đến hết năm 2018, đã có 7 bộ đã ban hành Kế hoạch hành  
động tăng trưởng xanh. Đến nay, cả nước có 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng  
và thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh cấp tỉnh, thành phố.  
Trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành một số chiến lược và kế hoạch hành động  
để hoàn thiện môi trường pháp lý và thể chế cho nền kinh tế xanh. Ngoài các chiến lược quốc gia  
và cam kết ở cấp quốc tế, 7 bộ và 34 tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động Tăng trưởng xanh.  
Ngoài ra, các ngành công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng đều đang có  
nhiều giải pháp để giảm cường độ phát thải khí nhà kính, và phát triển các nguồn năng lượng  
sạch thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo. Các chính sách này  
bao gồm Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm  
2050, và các chính sách ưu đãi về giá mua điện gió, thủy điện nhỏ, sinh khối, cũng như chính  
sách cho các nhà sản xuất năng lượng mặt trời và xử lý chất thải. Đây cũng sẽ là thuận lợi để Việt  
Nam nhanh chóng hướng tới “Nền Kinh tế xanh” và “Tăng trưởng xanh”.  
- Thứ ba, với lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa Đông Nam Á, Việt Nam được  
đánh giá là quốc gia có nguồn vốn tự nhiên đa dạng và dồi dào, nhất là nguồn vốn tự nhiên có  
khả năng tái tạo, Việt Nam có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào với tổng số giờ nắng trong năm  
dao động từ 1.400 đến 3.000 giờ, tổng bức xạ mặt trời trung bình năm khoảng 230-  
250kcal/cm2/ngày theo hướng tăng dần về phía Nam. Con số này cho thấy Việt Nam có tiềm  
113  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
năng khá về năng lượng mặt trời; ngoài ra, Việt Nam có nhiều thuận lợi trong phát triển năng  
lượng gió với hơn 3.000 km bờ biển và nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa. Hiện tại  
cũng đã có một số dự án điện gió được triển khai ở một số tỉnh Nam Trung Bộ (Bình Thuận,  
Ninh Thuận) và tại một số huyện đảo; Nguồn năng lượng sinh khối ở Việt Nam rất lớn và khá đa  
dạng: chủ yếu từ gỗ, phế thải từ cây nông nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác thải đô thị và chất thải  
hữu cơ khác v.v… đều là những thứ rất có sẵn ở Việt Nam. Hiện tại ước tính mỗi năm có khoảng  
60 triệu tấn sinh khối được tạo ra từ nguồn phụ phẩm- phế thải, trong đó gần 40% sinh khối được  
khai thác đưa vào sử dụng cho mục đích năng lượng. Đây là những lợi thế sẵn có cho Việt Nam  
tham gia vào các chương trình mục tiêu thiên niên kỷ để hướng tới xây dựng một “nền kinh tế  
xanh” phát triển bền vững và thực hiện thành công Chiến lược “Tăng trưởng xanh” đang trong  
quá trình hoàn thiện. Tuy nhiên, tất cả những loại năng lượng trên vẫn ở dạng tiềm năng là chính,  
chưa được khai thác phục vụ cho nền kinh tế và xã hội của Việt Nam.  
3.2. Thách thức  
Cùng với những thuận lợi trên, việc hướng tới tăng trưởng xanh tại Việt Nam vẫn phải đối  
diện với không ít khó khăn, thách thức cụ thể:  
- Thách thức từ sự hợp tác quốc tế kém hiệu quả: Giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi  
trường là công việc của cả thế giới không chỉ riêng quốc gia nào. Những ảnh hưởng do sự xuống  
cấp của môi trường có tác động đến nhiều nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy, để xử lý vấn  
đề về môi trường - những vấn đề có tính thách thức toàn cầu đòi hỏi các quốc gia phải cùng hành  
động. Trong khi đó, không phải quốc gia nào cũng có thiện chí và thực hiện đúng cam kết với  
đối tác thậm chí vẫn còn không ít quan điểm phản đối kinh tế xanh, cho rằng kinh tế xanh chỉ  
làm tốn kém của cải vật chất mà không tạo được lợi ích tương xứng, nền kinh tế xanh là điều xa  
xỉ, chỉ các quốc gia giàu có mới đủ khả năng chi trả và thậm chí đây là âm mưu của các nước  
phát triển nhằm kìm hãm các nước đang phát triển. Do đó, nó có thể phá vỡ mục tiêu chống biến  
đổi khí hậu và tăng trưởng xanh của Việt Nam.  
- Thách thức trong giải quyết mâu thuẫn giữa công nghiệp hóa và giảm thải khí nhà kính.  
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình tăng tốc nên rất khó cắt giảm tiêu hao nhiên liệu hay  
dùng nhiên liệu xa xỉ hơn thay thế. Bên cạnh đó, bất cứ một quá trình tái cấu trúc nào cũng đòi  
hỏi phải giảm tốc tăng trưởng để chuyển đổi, điều này sẽ khiến cho tình trạng việc làm và thu  
nhập của người dân bị ảnh hưởng trong khi cơ cấu mới chưa phát huy lợi thế. Việt Nam hiện vẫn  
là nước có thu nhập và trình độ phát triển thấp, vì vậy nếu không kết hợp hài hòa các chính sách  
sẽ dễ dẫn đến những vấn đề mâu thuẫn xã hội sâu sắc.  
- Để phát triển nền kinh tế xanh cần phải có sự cải thiện mạnh mẽ về năng lực công nghệ,  
trong khi nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào khai thác thô và sử dụng nhiều tài nguyên  
thiên nhiên, năng lượng hóa thạch, trình độ công nghệ lạc hậu, tốc độ đổi mới công nghệ còn  
diễn ra chậm, đặc biệt những công nghệ liên quan đến kiểm soát phát thải khí nhà kính vẫn chưa  
được phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế  
xanh là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam nếu không có trợ giúp về vốn và công nghệ của  
các nước có công nghệ cao trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam đứng vị trí thứ 25 về thu hút vốn  
FDI trên thế giới, vượt trên các nước trong khu vực Đông Nam Á rất mạnh về thu hút FDI như  
Indonesia, Philippines và Thái Lan. Tuy nhiên, phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đầu tư  
114  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
vào những lĩnh vực thâm dụng lao động và tài nguyên - được coi là lợi thế so sánh của Việt Nam  
trong 2 thập kỷ qua, trong khi đó các nhà đầu tư nước ngoài mang công nghệ hiện đại vào Việt  
Nam vẫn còn rất hạn chế, các công nghệ này ít được chuyển giao mà chỉ đặt tại Việt Nam để sản  
xuất. Như vậy, mặc dù là quốc gia có thứ hạng cao trong thu hút FDI nhưng chất lượng của các  
khoản đầu tư này lại không đem lại hiệu quả cho nền kinh tế xanh, trái lại Việt Nam còn có nguy  
cơ đón nhận làn sóng di chuyển công nghệ lạc hậu từ các nước phát triển hơn sang các nước kém  
phát triển hơn khi các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan đang đẩy mạnh  
việc xanh hóa nền kinh tế, họ đã hạn chế hoặc cấm những dự án công nghiệp nặng hao tổn nhiên  
liệu và ô nhiễm môi trường, và rất có thể những dự án này sẽ chuyển sang các nước kém phát  
triển hơn trong đó có Việt Nam.  
- Về huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu “xây dựng nền kinh xanh”. Mặc dù, Việt  
Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ quốc gia so với các nước phát triển  
còn quá thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai “nền kinh tế xanh”. Nguồn  
lực thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh hiện nay chưa rõ ràng, đặc biệt trong bối cảnh suy  
giảm kinh tế và cắt giảm đầu tư công về huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu “xây dựng  
nền kinh xanh”, mặc dù Việt nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ quốc gia  
so với các nước đã phát triển còn quá thấp, hầu hết các dự án mà các Bộ, Ngành, địa phương đã,  
đang thực hiện liên quan đến Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đều dựa trên sự hỗ trợ về  
tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ mà chưa xuất phát từ  
năng lực nội sinh của Bộ, Ngành, địa phương, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định của  
quá trình triển khai các hoạt động hướng tơi “Nền kinh tế xanh”.  
- Về nhận thức, hiểu thế nào là một nền “kinh tế xanh”, “ tăng trưởng xanh” hiện nay ở  
Việt nam vẫn còn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến  
thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân.  
Nếu không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó  
thực hiện. Theo kết quả khảo soát, đến cuối năm 2018, mới chỉ có 7 bộ, ngành và 34/63 tỉnh,  
thành ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh. Điều đó cho thấy, việc cụ thể  
hóa chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia chưa phải là một nhiệm vụ bắt buộc cần ưu tiên thực  
hiện ở bộ, ngành và địa phương.  
- Tăng trưởng xanh là hướng đi mới trên thế giới đã được giới thiệu cách đây khoảng 8 -  
10 năm. Muốn thực hiện các chính sách tăng trưởng xanh Việt Nam cần phải có công cụ kiểm  
soát và chế tài đối với các chủ thể nền kinh tế, vấn đề đo lường quá trình chuyển đổi sang nền  
kinh tế xanh cũng cần được cải thiện, tuy nhiên Cơ sở hạ tầng mềm cho tăng trưởng xanh ở Việt  
Nam chưa phát triển, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong xây dựng và thực hiện cả về thể chế,  
chính sách, huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện. Như vậy, việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng mềm  
cho tăng trưởng xanh là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam hiện nay.  
4. Một số giải pháp thúc đẩy việc thực hiện tăng trưởng xanh ở Việt Nam  
Có nhiều cách để hướng tới tăng trưởng xanh và thích ứng với khí hậu, nhưng tất cả sẽ đòi  
hỏi các cá nhân, các tổ chức Chính phủ cùng phải thay đổi tư duy và hành động để khắc phục  
những thất bại của cả thị trường. Để đẩy mạnh thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh, thời gian  
tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:  
115  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
Một là hoàn thiện khung chính sách cho việc quản lý và thực hiện chiến lược tăng trưởng  
xanh. Bên cạnh việc tiếp tục xây dựng lộ trình các hoạt động tăng trưởng xanh cần phải xây dựng  
được các chính sách hướng dẫn cụ thể, quản lý, đánh giá việc thực hiện chiến lược bao gồm:  
Xây dựng khung chính sách phân bổ và quản lý ngân sách quốc gia phục vụ thực hiện  
Chiến lược tăng trưởng xanh, theo đó tăng cường ngân sách đầu tư phát triển khoa học công  
nghệ; đẩy mạnh nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề phát triển kinh tế xanh  
như sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng;  
công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính; hạn chế tối đa gây ô nhiễm môi trường; Phục hồi  
hệ sinh thái tự nhiên; định hướng lại đầu tư công, hướng tới mức đầu tư khoảng 2% tổng chi  
ngân sách hằng năm cho khôi phục hệ sinh thái và bảo vệ môi trường...  
Hoàn thiện công cụ đo lường, đánh giá việc thực hiện quá trình thực hiện tăng trưởng xanh.  
Cùng với việc, các ngành và địa phương tiếp tục xây dựng lộ trình cụ thể các hoạt động tăng  
trưởng xanh và triển khai thực hiện, nhằm hoàn thành những mục tiêu đề ra vào năm 2020; cần  
nghiên cứu ban hành các định mức, tiêu chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật xanh cũng như hoàn thiện và  
sớm ban hành bộ chỉ tiêu đo lường tăng trưởng xanh cấp quốc gia của Việt Nam. Theo đó, cần  
bổ sung một số chỉ tiêu tăng trưởng xanh vào hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Chuẩn  
bị sẵn sàng để hoàn thiện và áp dụng bộ chỉ tiêu tăng trưởng xanh vào xây dựng kế hoạch phát  
triển kinh tế – xã hội 5 năm (2021-2025). đối với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần có sự đổi mới, xem  
xét lại và hoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh, cải tiến hệ thống SNA phản ánh đủ các chỉ tiêu tính toán  
môi trường trong hạch toán cân đối tài khoản quốc gia. Hướng tới những hao hụt trong trữ lượng  
tài nguyên quốc gia cần được quy ra giá trị tiền tệ và cân đối trong hệ thống tài khoản quốc gia  
bao gồm hạch toán Môi trường và Kinh tế (SEEA) theo hướng dẫn của Văn phòng Thống kê  
Liên Hợp Quốc.  
Xây dựng cơ chế chính sách tài chính (thuế, phí, trợ giá, vốn) nhằm hỗ trợ, khuyến khích  
và thu hút sự tham gia đầu tư của khu vực tư nhân vào lĩnh vực biến đổi khí hậu, tăng trưởng  
xanh (dưới hình thức chuyển đổi công nghệ/dự án thí điểm/nghiên cứu điển hình). Song song  
với đó có các chế tài xử lý cũng như can thiệp trực tiếp của Nhà nước thông qua các quy định  
pháp lý, văn bản pháp luật trong việc kiểm soát các hoạt động ảnh hưởng tới tài nguyên và  
môi trường.  
Hai là tuyên truyền nâng cao nhận thức của mọi thành phần trong xã hội về tăng  
trưởng xanh  
Cùng với việc hình thành và phát triển thể chế thực hiện tăng trưởng xanh thì công tác  
tuyên truyền nâng cao nhận thức là hoạt động ưu tiên. Về nhận thức, cần xác định Tăng trưởng  
xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ của mọi cấp chính quyền, từ các Bộ,  
Ngành đến chính quyền các địa phương, thích ứng với một hệ thống phân cấp quản lý phi tập  
trung hóa. Vì vậy, cần tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi nhận thức về tăng  
trưởng xanh cho các cấp lãnh đạo ở các cơ quan quản lý Nhà nước, các ngành, địa phương và  
khu vực doanh nghiệp và người dân. Khác với nhiều chiến lược, chương trình, kế hoạch khác,  
chiến lược tăng trưởng xanh cần sự tham gia tích cực, trực tiếp của doanh nghiệp và người dân.  
Các kế hoạch hành động tăng trưởng xanh của ngành và địa phương không thể thành công nếu  
116  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
doanh nghiệp, người dân tại đó không nhận thức được ý nghĩa, vai trò cũng như cách thức thực  
hiện tăng trưởng xanh tại doanh nghiệp. Trong giai đoạn đầu, các cơ quan quản lý nhà nước cần  
đóng vai trò định hướng, có các giải pháp hỗ trợ để khuyến khích một số doanh nghiệp tiên phong  
làm thí điểm, từ đó giới thiệu các mô hình thành công để nhân rộng. bên cạnh đó, Sự chủ động  
tham gia của cộng đồng sẽ tạo nền tảng vững chắc cho việc hiện thực hóa kinh tế xanh, bởi vậy,  
cần chú trọng nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển kinh tế xanh.  
Ba là tăng trưởng xanh cần sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của nhiều bên liên quan và  
doanh nghiệp đóng vai trò chính trong việc cung cấp các giải pháp để tăng trưởng xanh.  
Để có thể thực hiện được chiến lược tăng trưởng xanh cần có sự phối kết hợp thực hiện  
của các doanh nghiệp, tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân trên cơ sở hướng dẫn, giám sát đan  
chéo của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.  
Trong đó, vai trò của các doanh nghiệp quan trọng. Các doanh nghiệp là chủ thể tạo ra một khối  
lượng lớn công việc cũng như đóng góp nhiều cho tăng trưởng việc làm và ổn định xã hội. bên  
cạnh đó, Doanh nghiệp có thể đưa ra giải pháp để kiểm soát chi phí phát triển xanh bằng cách  
đổi mới và điều chỉnh quy trình sản xuất của mình. Tăng trưởng xanh cũng sẽ yêu cầu sự tham  
gia của người dân và các tổ chức phi chính phủ vì thay đổi hành vi là một yếu tố quan trọng của  
tăng trưởng xanh. Người dân với tư cách “Người tiêu dùng xanh” cần tránh tiêu thụ những sản  
phẩm gây nguy hại cho sức khỏe và môi trường. Người tiêu dùng có quyền yêu cầu nhà cung cấp  
phải tạo ra và cung ứng những sản phẩm, dịch vụ không ảnh hưởng xấu tới môi trường. Khi thay  
đổi nhận thức và thói quen, người tiêu dùng xanh có quyền thay đổi nhà cung cấp, họ có thể trao  
tiếng nói cho các bên liên quan tại địa phương trong các quy trình lập kế hoạch tại địa phương.  
Người dân và các tổ chức dân sự thường khuyến khích quản lý tốt hơn các tài sản tự nhiên và  
môi trường vì Các bên liên quan có thể hỗ trợ thu thập và phổ biến thông tin về các hành động  
để tăng trưởng xanh, giúp theo dõi tiến độ và đo lường kết quả và giúp đảm bảo trách nhiệm giải  
trình khi thực hiện tăng trưởng xanh. Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với  
người dân và doanh nghiệp là 3 yếu tố then chốt để hoàn thành chiến lược tăng trưởng xanh.  
Bốn là tích cực hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng kinh tế xanh ở Việt Nam.  
Từ Chiến lược đến Kế hoạch hành động và triển khai thực tế là một quá trình lâu dài với  
nhiều thách thức từ hình thành và phát triển thể chế, chính sách, phân công tổ chức thực hiện,  
huy động các nguồn lực tài chính và công nghệ đến theo dõi, đánh giá, báo cáo tình hình thực  
hiện. Do đó, việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, hỗ trợ quốc tế có vai trò hết sức quan  
trọng. Theo ước tính, tổng kinh phí để thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cần  
đến khoảng 30 tỷ USD, trong đó dự kiến 70% là đầu tư của khu vực doanh nghiệp. Trong điều  
kiện Việt Nam còn thiếu công nghệ và kinh nghiệm để thực hiện toàn diện tái cấu trúc các ngành  
và triển khai các dự án đổi mới công nghệ, việc huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước cũng  
ngày càng hạn chế thì giải pháp đột phá thực hiện tăng trưởng xanh là tích cực hợp tác quốc tế  
trong nỗ lực xây dựng “Nền kinh tế xanh” ở Việt nam, huy động các nguồn lực hỗ trợ của quốc  
tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu cho phát triển “Kinh tế xanh”. Các cơ chế tài  
chính khác cho phát triển rừng như REDD+; CDM. Kinh nghiệm trước đây cho thấy Việt Nam  
thường bỏ lỡ nhiều cơ hội đầu tư quốc tế cũng như các thể chế tài chính khác mà Việt nam có ưu  
thế như CDM. Điều này cần học tập kinh nghiệm của Trung Quốc và Ấn Độ.  
117  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
5. Kết luận  
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu, nguồn năng lượng ngày càng cạn kiệt hướng tới  
kinh tế xanh là chìa khóa cho sự thành công, giải pháp mang tính đột phá cho sự phát triển bền  
vững của quốc gia trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, việc chuyển đổi sang mô  
hình tăng trưởng xanh sẽ góp phần giúp Việt Nam thực hiện thắng lợi các mục tiêu: tăng trưởng  
nhanh, bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc  
sống, coi trọng bảo vệ môi trường.  
Để đạt được mục tiêu trên ngoài việc phát huy lợi thế nguồn vốn tự nhiên thì cần có sự can  
thiệp chủ động của chính phủ để xây dựng khung thể chế và pháp lý bền vững cho tăng trưởng  
xanh, giới thiệu những chính sách, kế hoạch điều tiết thống nhất, thúc đẩy sự thay đổi trong thực  
tế. Bên cạnh đó, sự can thiệp của chính phủ có thể tối đa hóa sức mạnh và ảnh hưởng của thị  
trường đối với tăng trưởng xanh. Ngoài ra, sự chủ động tham gia của cộng đồng sẽ tạo ra một  
nền tảng bền vững cho tăng trưởng xanh. Bên cạnh đó, Việt nam là quốc gia phát triển sau, cần  
phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, học tập cách thức tiến hành của các quốc gia đã thực hiện  
trước để từ đó có lộ trình và bước đi phù hợp, điều này không chỉ giúp đạt mục tiêu phát triển  
bền vừng từ thực hiện nền kinh tế xanh mà còn rút ngắn khoảng cách phát triển, tạo ra thế ổn  
định về mặt chính trị, góp phần xóa đói giảm nghèo.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Barbier, E. B. (1989). Economics, natural resources scarcity and development conven-  
tional and alternative views. London: Earthscan Publications.  
2. Barbier, E. B. (2007). Frontiers and sustainable economic development. Environmental  
and Resource Economics, 37(1), 271-295.  
3. Bộ KH-ĐT (2012) “Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và  
tầm nhìn 2050”;  
4. Đỗ Phú Hải , Những vấn đề lý luận về phát triển bền vững và kinh tế xanh ở Việt Nam,  
Đại học Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Nghiên cư  
2 (2018) 1-7  
5. EEA. (2012). Environmental indicator report 2012: Ecosystem resilience and resource  
́u Chính sách và Quản lý, Tập 34, Số  
efficiency in a green economy in Europe. Copenhagen: European Environment Agency [EEA].  
6. EEA. (2016). Europes environment — An Assessment of Assessments. Retrieved from  
7. EEA. (2016). Enviroment indicator report 2016. In support to the monitoring of the 7th  
Environment Action Programme  
8. European Commission. (2010). Europe 2020: A Strategy for smart, sustainable and in-  
clusive growth. Brussels.  
9. Green Economy Coalition. (2012). The green economy pocketbook: the case for action.  
10. Hai, H. T., Quang, N. D., Thang, N. T., & Nam, N. H. (2020). Circular Economy in  
Vietnam. In.  
118  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
11. ICC. (2012). ICC Green Economy Roadmap – executive summary. International Cham-  
roadmap-executive-summary-2012/.  
12. IEA. (2019, 02/05/2019). International energy statistics (2019). International Energy  
13. IMF. (2014, 20/2/2019). World Economic Outlook Database, October 2014. Retrieved  
14. GS.TS. Lê Văn Khoa (2014), Xây dựng định hướng phát triển nền Kinh tế xanh - Giải  
pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, Tạp chí Môi trường, số 2/2014, Viện Tư vấn phát triển:  
15. Nam, N. H., & Hanh, N. T. (2019). Implementing Circular economy: International ex-  
perience and policy implications for Vietnam. VNU Journal of Science: Economics and Business,  
No. 4, 2019.  
16. Ngo Dang, T., Tran Thuy, C., Tran Van, Y., & Nguyen Thanh, T. (2018). Sets of sus-  
tainable development indicators in Vietnam: Status and solutions. Economies, 6(1), 1.  
17. Nguyen, N. H. (2014). Some economics of climate change adaptation in Vietnam (Ph.D.  
Thesis, Faculty of Business, Economics and Law, La Trobe University, Melbourne,  
18. Nguyen An Dinh & Cộng sự (2020). “Green growth in Vietnam: policies and chal-  
lenges”. E3S Web of  
nam_policies_and_challenges  
19. TS. Nguyễn Thị Thanh Tâm Tăng trưởng xanh tại Việt Nam và những vấn đề đặt ra –  
Khoa Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Khu vực 1;  
20. Nguyễn Thị Thu Trang (2015), Một số vấn đề về tăng trưởng xanh ở Việt Nam, Tạp  
chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5, 109-113;  
21. GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, TS. Nguyễn Xuân Trung , Kinh tế xanh trong đổi mới  
mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam giao đoạn tới;  
22. OECD. (2014). Green Growth Indicators 2014. OECD Green Growth Studies, OECD  
Publishing.  
23. Pearce, D. W., Markandya, A., & Barbier, E. (1989). Blueprint for a green economy  
(Vol. 1). London: Earthscan.  
24. TS. Trần Thị Hương (2019) - Phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam trong bối cảnh biến  
đổi khí hậu toàn cầu, Tạp chí Lý luận chính trị số 6/2019, Học viện Báo chí và Tuyên truyền;  
25. UN. (2012). Green Growth. Sustainable Development Goals Knowledge Platform. Re-  
26. UN. (2015). Sustainable Development Goals: 17 goals to transform our world. Re-  
27. UNDESA. (2012). A Guidebook to the Green Economy. Issue 2: Exploring green econ-  
119  
INTERNATIONAL CONFERENCE FOR YOUNG RESEARCHERS IN ECONOMICS & BUSINESS 2020  
ICYREB 2020  
omy principles. New York: Division for Sustainable Development, Department of Economic and  
Social Affairs.  
28. UNECE (2011). Green economy, mainstreaming the environment into economic devel-  
opment. Environment for Europe .  
29. UNEP. (2010a). Green economy, developing countries success stories. Nairobi: United  
Nations Environment Programme.  
30. UNEP. (2010b). Overview of the Republic of Koreas National Strategy for Green  
Growth. P. Sukhdev, K. Bouzar & Y.-W. Park. Geneva, Switzerland  
31. UNEP. (2011a). Decoupling natural resource use and environmental impacts from eco-  
nomic growth. AReport of the Working Group on Decoupling to the International Resource Panel.  
Fischer-Kowalski, M., Swilling, M., von Weizsäcker, E.U., Ren, Y., Moriguchi, Y., Crane, W.,  
Krausmann, F., Eisenmenger, N., Giljum, S., Hennicke, P., Romero Lankao, P., Siriban Manalang,  
A. UNEP/Earthprint.  
32. UNEP. (2011b). Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development  
and Poverty Eradication. Geneva: United Nations Environment Programme (UNEP).  
33. UNEP. (2011c). Towards a green economy: Pathways to sustainable development and  
poverty eradication. A Synthesis for Policy Makers. Kenya: United Nations Environment Pro-  
gramme (UNEP)  
34. UNEP, UNCTAD, & UN OHRLLS. (2011). What a Green Economy Matters for Least  
Developed Countries: UNEP.  
35. UNESCAP. (2013). Green Growth and Green Economy. Retrieved 2 May, 2019, from  
economy/about  
36. UNITAR. (2012). Advancing an Inclusive Green Economy: Rationale and Context.  
tions%20for %20Green%20Economy.pdf  
37. UNSTATS. (2017). SDG Indicators: Global indicator framework for the Sustainable  
Development Goals and targets of the 2030 Agenda for Sustainable Development. Retrieved from  
38. UNEP (2011), Hướng tới nền kinh tế xanh - Lộ trình cho phát triển bền vững và xóa  
đói giảm nghèo, Bản dịch của Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Nhà xuất  
bản Nông nghiệp, Hà Nội 2011, tr.13.  
39. Viên Thế Giang (2017), Tài chính cho phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam - Khuôn khổ  
chính sách, pháp luật và thực tiễn thi hành, Tạp chí Phát triển KH & CN, tập 20, số Q2;  
40. Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường (2011), Báo cáo tổng hợp phục  
vụ các nhà hoạch định chính sách, Hướng tới nền kinh tế xanh, lộ trình cho phát triển bền vững  
và xóa đói giảm nghèo, NXB Nông nghiệp;  
41. World Bank. (2012). Báo cáo phát triển Việt Nam, Báo cáo tổng quan năm 2012  
42. World Bank. (2020). Việt Nam năng động tạo nền tảng cho một nền kinh tế thu nhập  
cao, Báo cáo Tổng quan tháng 5/2020.  
120  
pdf 14 trang yennguyen 22/04/2022 1080
Bạn đang xem tài liệu "Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh: Cơ hội và thách thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfviet_nam_huong_toi_tang_truong_xanh_co_hoi_va_thach_thuc.pdf