Tư duy tập trung vào giá trị - Định hướng nâng cao năng lực quản lý giáo dục ở Việt Nam

Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
TƯ DUY TẬP TRUNG VÀO GIÁ TRỊ - ĐỊNH HƯỚNG  
NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM  
Hồ Cảnh Hạnh(1)  
Nguyễn Hữu L(2)  
rong một xã hội phát triển, giá trị chính là động lực và mục tiêu; đồng thời tư duy được xem là  
T
giá trị và có ý nghĩa tác động đến sự phát triển của xã hội. Giá trị học là một khoa học có sự  
ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống và xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới,  
trong đó có khoa học quản lý. Tư duy giá trị và tư duy tập trung vào giá trị là những thành tựu của  
khoa học quản lý đương đại; tư duy giá trị đang được ứng dụng trong quản lý ở nhiều lĩnh vực khác  
nhau của kinh tế và xã hội bởi nó xây dựng được phương pháp và kỹ thuật cho các nhà quản lý đưa  
ra quyết định. Ứng dụng tư duy tập trung vào giá trị có khả năng nâng cao năng lực quản lý giáo dục  
ở Việt Nam trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.  
Từ khóa: Giá trị; tư duy giá trị; tư duy tập trung vào giá trị; khoa học quản lý; quản lý giáo dục.  
1. Đặt vấn đề  
ment of Value), một tác phẩm gây nhiều tranh luận  
nhưng cũng gợi ra nhiều ý tưởng thú vị.  
Khi bàn về Tư duy giá trị (Value in Thinking),  
Jozef Tischner, giáo sư Học viện Thần học Ba Lan  
đã khẳng định “trong một thế giới trật tự, tư duy bao  
giờ cũng được ưu tiên” [8, tr.477]. Giáo dục có chức  
năng định hướng giá trị bằng nhiều hoạt động, trong  
đó tư duy như là một giá trị đặc trưng. Trong bối  
cảnh của một nền giáo dục được quản lý chủ yếu  
bằng hành chính hóa công vụ như nước ta hiện nay,  
tư duy giá trị không những khắc phục những hạn  
chế của cơ chế quản lí hiện hành mà còn tạo ra cơ  
hội để những nhà hoạch định chính sách lựa chọn  
hướng phát triển cho tương lai. Tư duy tập trung  
vào giá trị có khả năng đưa giáo dục và đào tạo Việt  
Nam đi vào quỹ đạo phát triển của giáo dục thế giới,  
khi mà hoạt động quản lý mang tính khoa học, tư  
duy được ưu tiên để ra quyết định, sự sáng tạo được  
coi trọng, tri thức được xem là những tài sản có giá  
trị. Trong bài viết này, chúng tôi khái quát một số  
vấn đề về tư duy giá trị và tư duy tập trung vào giá  
trị để định hướng thông tin, góp phần nâng cao năng  
lực cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) ở nước ta  
trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0  
Hartman không trình bày định nghĩa như những  
người khác thường làm mà ông đi tìm mối liên hệ  
logic của giá trị. Trên cơ sở của các mối liên hệ đó,  
ông trình bày 5 đặc điểm của giá trị: giá trị duy lý  
và giá trị không duy lý, tính khách quan và chủ quan  
của giá trị, giá trị đồng tình và giá trị phản đối, giá  
trị lạc quan và giá trị bi quan, tốt và xấu trong thế  
giới này [5].  
Bên cạnh những vấn đề lý luận về cấu trúc của  
giá trị, Hartman đặt ra vấn đề đo lường giá trị. Ông  
đã từng mong muốn giá trị được định lượng một  
cách rõ ràng giống như cách làm của khoa học tự  
nhiên để “tìm ra một định nghĩa chính xác về giá trị,  
về sự tốt lành của một trong hai mối quan hệ: hoặc  
toán học hoặc logic có thể áp dụng được và có thể  
phát triển như định nghĩa chuyển động của Galilea”  
[5, tr.3]. Trong cuốn Đo lường giá trị, ông đã xác lập  
các khái niệm và đưa ra công thức đo lường sự cân  
bằng giá trị mà những thế hệ tiếp nối đã mở rộng  
nghiên cứu vấn đề này ở nhiều lĩnh vực khác nhau,  
không chỉ đối với kinh tế, con người mà còn là “một  
bộ phận của văn hóa chính trị trong chính trị học”  
[2, tr.20]. Nếu Hartman tập trung vào đo lường giá  
trị theo hướng khách quan thì Louis L.Thurstone  
(1887–1955), nhà vật lý và nhà tâm lý người Mỹ đã  
nghiên cứu về đo lường giá trị trong lãnh địa của cái  
chủ quan để đo giá trị con người “chừng nào mà các  
nhà khoa học xã hội không thể phân biệt được giữa  
tuyên truyền và khoa học, uy tín của họ sẽ bị hạ thấp  
trong khoa học” [7, tr.58].  
2. Tư duy giá trị - những vấn đề tổng quan  
Trong thế kỷ XX, có một ngành khoa học mà  
từ khi ra đời đến nay, sức ảnh hưởng và những ứng  
dụng của nó đã đi vào nhiều lĩnh vực khác nhau  
trong đời sống xã hội, đó là Giá trị học (Axiolo-  
gy). Giá trị học gắn liền tên tuổi Robert Schirokauer  
Hartman (1910-1973), nhà luân lý học, nhà triết học  
người Đức. Ông có những công trình lý thuyết về  
giá trị như cuốn Cấu trúc của giá trị: cơ sở của giá  
trị và giá trị học (The Structure of Value: Founda-  
tions of Scientific Axiology) được đánh giá là một  
tác phẩm vĩ đại và Đo lường giá trị (The Measure-  
Ở phương diện là đối tượng của tâm lý học, giá  
trị tồn tại khách quan thông qua tình cảm, thái độ và  
Ngày nhận bài: 3/2/2018; Ngày phản biện: 7/2/2018; Ngày duyệt đăng: 27/2/2018  
(1) Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu; e-mail: hocanhhanh@gmail.com  
(2) Trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa - Vũng Tàu; e-mail: nguyenhuule@gmail.com  
73  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
nhận thức của con người với hiện thực, tức là giá những gì tốt nhất và làm việc để biến nó trở thành  
trị quan. Theo GS. Phạm Minh Hạc, giá trị quan “là hiện thực. Tư duy tập trung vào thay đổi bắt đầu  
quan điểm giá trị, nói cụ thể hơn là cách nhìn nhận bằng những gì sẵn có và tận dụng tối đa nó” [4,  
vấn đề dưới góc độ giá trị, giải quyết vấn đề xuất tr.6].  
phát từ giá trị, nhằm mục tiêu giá trị, từ cấp độ con  
người đến cấp độ cộng đồng, quốc gia - dân tộc”  
[2, tr.20]. Với tư duy nông nghiệp, người Việt Nam  
thường bỏ qua cái ‘lýđể chọn cái ‘tình’, coi nhẹ giá  
trị, coi trọng thành tích, ưa phô trương, kể cả những  
cái không thuộc về mình. Vì thế mà trong xã hội  
Việt Nam đang tồn tại ‘bệnh thành tích’, một hình  
thức của tư duy phản giá trị (Anti-value Thinking).  
Xã hội công nghiệp coi sự tồn tại của ‘ranh giới’  
giá trị và phản giá trị là sự cản trở sự vận hành, kìm  
hãm phát triển. Với những ý nghĩa quan trọng đó,  
giá trị học đã và đang trở thành nội dung giáo dục  
và được đưa vào nhà trường ở nhiều quốc gia có nền  
giáo dục phát triển như Mỹ, Anh, Úc, … [2, tr.213].  
Chức năng của hoạt động quản lý là dùng  
phương pháp quản lý để giải quyết tình huống có  
vấn đề hoặc hoàn cảnh thử thách. “Điều những nhà  
quản lý thường làm là quan sát những người khác  
cách mà họ đưa ra quyết định và phân tích hiệu  
quả mang lại từ các quyết định đó, sau đó lựa chọn  
những yếu tố thích hợp với hoàn cảnh và khả năng  
của tổ chức mà mình lãnh đạo để đưa ra quyết định  
phù hợp” [4, tr.24]. Có những sự lựa chọn đơn giản  
như là lựa chọn chiếc áo ngủ màu gì để mặc trong  
đêm khi đi ngủ. Nhưng có những trường hợp lựa  
chọn sinh tử giống như người mắc chứng bệnh nan  
y, nên chọn một trong các liệu pháp: hóa trị liệu,  
điều trị phóng xạ, hoặc phẫu thuật, hoặc có thể kết  
Tư duy giá trị là sự thể hiện hoạt động tư duy hợp [4, tr.26]. Lúc này, sự lựa chọn phải hướng đến  
bậc cao của con người. Tư duy giá trị có khả năng một đích duy nhất, đó là sự sống sót. Lựa chọn liệu  
định lượng được những gì được cho là trừu tượng, pháp đúng đắn để chữa trị đảm bảo sự sống còn phải  
chẳng hạn như đạo đức. Keeny khi xem đạo đức là dựa trên sự hiểu biết và phân tích thông tin. Sự sống  
“nguyên tắc được tôn trọng” trong việc lựa chọn còn hay tồn tại trở thành giá trị trong một hoàn cảnh  
hoặc phán đoán cho việc ra quyết định. Keeny cho nhất định đòi hỏi sự lựa chọn liệu pháp chữa trị để  
rằng, “các mục tiêu này thể hiện giá trị của một bảo toàn, duy trì mạng sống là tư duy tập trung vào  
người” [4, tr. 26], họ cũng có thể đại diện cho một giá trị. Bản thân của tư duy cũng tồn tại như một giá  
tổ chức hay cả xã hội. Với ý nghĩa đó, đạo đức của trị mà “ngay cả trong thế giới kinh tế thẳng thắn, nơi  
nhóm có thể phản ánh đạo đức của cá nhân. Đạo sản xuất và vật chất hữu cơ đã từng là trung tâm, chỉ  
đức của người lãnh đạo trong một tổ chức trở nên số niềm hạnh phúc, sự sáng tạo và các giá trị phi vật  
quan trọng khi những quyết định đưa ra không vi chất khác đã có mặt ở trung tâm” [4, tr.33].  
phạm các mục tiêu giá trị của đạo đức.  
Mô hình cấu trúc tư duy tập trung vào giá trị của  
Giá trị học ngày càng được ứng dụng vào trong Keeny gồm ba nội dung: làm rõ các giá trị, trình  
sản xuất, kinh doanh và quản lý. Với quan niệm bày các giá trị và sử dụng các giá trị. Để làm rõ các  
“giá trị tạo nên động lực cho việc ra quyết định của giá trị thì trước hết phải xác định được chất lượng  
chúng ta” [3, tr.539], tư duy giá trị là phương pháp và cấu trúc các giá trị thích hợp cho tình huống để  
khoa học giúp nhà quản lý có cơ sở vững chắc để đưa ra quyết định. Việc trình bày các giá trị là làm  
đưa ra quyết định, tức là lãnh đạo có hiệu quả. Quản cho giá trị đó trở thành hoạt động thích hợp với tình  
lý là một hoạt động mang tính khoa học nhưng trong huống mang tính quyết định. Đích của tư duy tập  
thực tế, những nhà quản lý thường đưa ra quyết trung vào giá trị chính là việc đưa ra quyết định  
định theo cách “tự nhiên”, bởi vì những nhà quản lý mà những quyết định này “thường được đặc trưng  
“hầu hết không được dạy để đưa ra quyết định” [4, bởi nhiều mục tiêu” vì “các mục tiêu như là bước  
tr.6]. Khi đưa ra một quyết định nào đó, nhà quản quan trọng trong việc phát triển phương pháp tiếp  
lý thường tư duy về hoàn cảnh và tìm cách thay thế cận chiến lược” [4, tr.126]. Trong quan hệ với chức  
quyết định trước đó vì lí do quyết định đó không có năng quản lý, mục tiêu có thể rõ ràng, có chiều sâu  
khả năng thay đổi hoàn cảnh như mong muốn. Tư và xuất phát từ các tình huống mang tính quyết định.  
duy giá trị chính là sự thay thế và tìm cách thay thế, Tuy nhiên, cũng có những mục tiêu “nông” (mục  
điều mà đòi hỏi con người phải có nhiều lựa chọn tiêu hạn chế), những mục tiêu chia nhỏ từ một mục  
và dùng phương pháp tư duy để chọn một trong số tiêu lớn mà không có sự khác biệt với các đối tượng  
đó.  
cùng loại hoặc mục tiêu kế thừa bất chấp hoàn cảnh  
thay đổi. Theo Keeny, “mỗi mục tiêu là một tuyên  
bố của một cái gì đó mà bạn muốn đạt được trong  
bối cảnh quyết định đó” [3, tr.542], vì thế mà nó  
phải rõ ràng, tức là phải đầy đủ cả ba tính năng:  
bối cảnh quyết định, đối tượng tác động và hướng  
ưu tiên. Ví dụ: mục tiêu của các trường sư phạm là  
“đào tạo đội ngũ giáo viên có đủ phẩm chất và năng  
lực thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong bối cảnh đổi  
mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo”. Với mục  
3. Tư duy tập trung vào giá trị  
Tư duy tập trung vào giá trị (Value-Focused  
Thinking) là thuật ngữ dùng trong “khoa học quyết  
định” (Decision Sciences) thuộc lĩnh vực khoa học  
quản lý. Đối sánh với thuật ngữ này còn có thuật  
ngữ “tư duy tập trung vào thay đổi” (Alternative –  
Focused Thinking). Hai thuật ngữ này phản ánh hai  
phương pháp quản lý khác nhau. Theo Keeny, “tư  
duy tập trung vào giá trị bao gồm việc bắt đầu từ  
74  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
tiêu này, bối cảnh quyết định là tuyển sinh đủ chỉ pháp lý được công khai, đòi hỏi nhà quản lý xác lập  
tiêu và đào tạo đúng chất lượng như cam kết. Đối các giá trị đáp ứng với mục tiêu của trường. Vì thế  
tượng tác động đến mục tiêu này là chất lượng đầu mà các trường cao đẳng, đại học ở Mỹ nằm trong  
vào thấp, tuyển sinh không đủ chỉ tiêu. Hướng ưu một hệ thống được bảo hộ bởi sự phân phối thống  
tiên đặt ra cho mục tiêu là lựa chọn giữa số lượng nhất các nhu cầu. Mỗi nhà trường phải xây dựng và  
và chất lượng. Tư duy tập trung vào giá trị sẽ xác quản lý theo cách riêng của mình trong sự đáp ứng  
định việc tối ưu hóa cho mục tiêu bằng việc đưa ra nhu cầu của từng đối tượng cụ thể mới có khả năng  
các mục tiêu khác nhau, kể cả các mục tiêu trước tồn tại. Để xây dựng giá trị cho mô hình trường học  
đó. Tiếp theo nhà quản lý phải lựa chọn các phương tốt nhất, theo Keeny phải dựa vào các nguyên tắc:  
án để cân bằng các mục tiêu trong việc xác định  
mục tiêu cơ bản, mục tiêu chiến lược. Chẳng hạn,  
trong trường hợp này, nhà quản lý vẫn duy trì số  
lượng (dự kiến tình huống số lượng giáo viên thiếu  
sau giai đoạn thừa hoặc không được xem là quan  
trọng), thay đổi chất lượng (đưa ra một mô hình đào  
tạo mới hoàn toàn so với trước đó), tập trung chất  
lượng nguồn lực (thuê chuyên gia, cho dù phải chịu  
trả lương cao cho họ). Như vậy, tư duy tập trung vào  
giá trị chính là việc tạo ra giá trị của sản phẩm sau  
khi quá trình đào tạo kết thúc. Những sinh viên này  
khi ra trường phải có sự khác biệt so với những giáo  
viên đang công tác, tức là một “mẫu” giáo viên khác  
với trước đây về mặt giá trị tại thời điểm cần thiết.  
Sự khác biệt đó là giá trị sản phẩm đào tạo đảm bảo  
các tiêu chí cần thiết cho tình huống quyết định (đổi  
mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo) mà sản  
phẩm trước đó có thể không đáp ứng hoặc đáp ứng  
không hoàn toàn đối với tình huống này.  
Keeny đã đề xuất hai cách để tạo cơ hội quyết  
định: “Một là, chuyển đổi một vấn đề ra quyết định  
hiện tại thành một cơ hội quyết định (…); hai là, để  
tạo cơ hội quyết định từ đầu” [3, tr.545]. Và ông đã  
đưa ra lời khuyên “Hãy sử dụng tài năng sáng tạo  
của bạn, có thể được kích thích tư duy tập trung vào  
giá trị, để kiểm tra xem bạn có thực hiện tốt các mục  
tiêu của mình như thế nào” [3, tr.545], tức là khả  
năng dự đoán hậu quả của quyết định. Điều này có  
ý nghĩa làm tách biệt tính quan điểm và tính tư duy  
trong những quyết định của nhà quản lý.  
- Bỏ qua kinh nghiệm.  
- Tập trung vào cách hành động.  
- Xây dựng cây giá trị.  
- Tính toán trọng lượng giá trị.  
- Đánh giá một sự thay thế.  
Vận dụng mô hình này, các nhà quản lý ở các  
cơ sở giáo dục Việt Nam phải chuyển hướng tư duy  
và đặt mình trong hoàn cảnh, tâm lý của người học  
và phụ huynh; đồng thời sử dụng phương tiện ITC  
để định lượng và phân loại nhu cầu của người học  
trong mối tương quan với nhu cầu phát triển xã hội.  
Việc đưa ra quyết định thể hiện trong kế hoạch và  
biện pháp thực hiện các nội dung của kế hoạch như:  
bổ sung, thay thế trang thiết bị theo thị hiếu và nhu  
cầu của người học, tập trung nguồn lực vào các mục  
tiêu quan trọng, xây dựng chương trình đào tạo theo  
hướng năng động, linh hoạt. Trong việc công khai  
giá trị, các nhà quản lí không cần phải phô trương  
thành tích mà công khai các hoạt động tạo ra giá  
trị, công bố các sản phẩm tư duy của đội ngũ giảng  
viên và các chính sách khuyến khích đội ngũ này  
tạo ra giá trị.  
4.2. Phát triển năng lực ra quyết định cho đội  
ngũ cán bộ quản lý giáo dục  
Qua các công trình nghiên cứu mang tính học  
thuật về đội ngũ CBQLGD Việt Nam trong những  
năm gần đây, có thể nhận thấy: đội ngũ CBQLGD  
ở Việt Nam chưa chuyên nghiệp, và tính không  
chuyên nghiệp thể hiện trên các phương diện: đào  
tạo, tuyển dụng, lãnh đạo và đánh giá. Điều này  
có nhiều nguyên nhân, trong đó về phía khoa học  
quản lý chưa có những nghiên cứu chuyên biệt, các  
công trình học thuật để đánh giá kết quả đào tạo,  
bồi dưỡng cán bộ quản lý chủ yếu hướng vào tư  
duy cơ bản, chưa chú trọng đến tư duy giá trị, nhất  
là đối với các mục tiêu chiến lược. Trong giải pháp  
nâng cao năng lực cán bộ quản lý, giải pháp bồi  
dưỡng được ưu tiên hơn giải pháp đào tạo. Trong  
đánh giá cán bộ quản lý, đánh giá định tính nhiều  
hơn đánh giá định lượng và không có phương pháp  
kiểm chứng sự đánh giá. Trong điều hành tổ chức,  
đội ngũ CBQLGD Việt Nam nặng về quản lý hành  
chính, điều hành mang tính công vụ. Đội ngũ này  
mang tính đa năng, có khả năng chuyển từ vị trí này  
sang vị trí khác. Trong lãnh đạo, khi đưa ra quyết  
định, các nhà quản lý thường thiếu thông tin và coi  
nhẹ phản hồi, xử lý thông tin. Chính sách để thực  
hiện mục tiêu giáo dục mang tính cào bằng, duy trì  
4. Vận dụng tư duy tập trung vào giá trị vào  
quản lý giáo dục ở Việt Nam  
4.1. Phát triển nhà trường theo mô hình “Chọn  
trường tốt nhất”  
Từ những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà quản  
lý giáo dục ở Mỹ đã vận dụng tư duy tập trung vào  
giá trị trong quản lý nhà trường với mô hình “Chọn  
trường học tốt nhất” (Best Choice Schools). Từ việc  
xây dựng một số trang web để cung cấp thông tin  
chọn trường cho người học các nhà quản lý giáo  
dục đã xác lập những mục tiêu hướng đến nhu cầu  
của người học trong sự gắn bó với mục tiêu xây  
bestchoiceschools.com, cung cấp cho người học  
các thông tin mà khi tra cứu trường để học, người  
học chỉ cần đánh dấu và các thông tin phù hợp với  
nhu cầu của mình, danh sách những trường đáp ứng  
nhu cầu của người học hiện ra để người học lựa  
chọn. Khi các thông tin được cam kết có sự bảo hộ  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
75  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là một trong những nguyên nhân quan trọng của thực trạng này.  
Vận dụng tư duy tập trung vào giá trị chính là phát triển năng lực ra quyết định dựa vào tư duy của nhà  
quản lý. Trên phương diện kỹ thuật, tư duy tập trung vào giá trị là một cấu trúc của phương pháp đánh giá  
giá trị. Đánh giá giá trị bao gồm một số nhiệm vụ riêng biệt: liệt kê các mục tiêu, phân biệt các mục tiêu,  
xác định các biện pháp cho các mục tiêu, sự ưu tiên. Áp dụng các kỹ thuật này vào phát triển năng lực đội  
ngũ CBQLGD Việt Nam thực hiện theo các bước sau:  
Bước 1: Khảo sát các giá trị để xác định mục tiêu  
Vấn đề khảo sát các giá trị được Alwin đưa ra trong một bài báo đăng trên tạp chí Công luận hàng quý  
của trường đại học Chicago năm 1985 để “so sánh phương pháp đánh giá và sắp xếp để đo lường các giá  
trị bằng cách sử dụng dữ liệu về định hướng của cha mẹ đối với trẻ em từ một cuộc thử nghiệm chia nhỏ  
ngẫu nhiên được thực hiện trong điều tra xã hội năm 1980” [1, tr. 535]. Vận dụng quan điểm này, chúng  
tôi đưa ra mô hình để làm cơ sở xây dựng hệ thống dữ liệu khảo sát đánh giá các giá trị đội ngũ CBQLGD  
Việt Nam.  
Bảng 1: Mô hình hệ thống dữ liệu đánh giá giá trị đội ngũ CBQLGD Việt Nam  
Bảng 2: Quy ước các mục tiêu ở Bảng 1  
Ứng dụng các tiêu chí nêu trong Bảng 1 giúp nhà quản lý và tổ chức của mình phân định các mục tiêu  
để vừa tự đánh giá năng lực lãnh đạo và công tác quản lý vừa để xác lập các mục tiêu cho việc đưa ra quyết  
định.  
Khi đứng trước một tình huống, một hoàn cảnh nào đó, con người thường có các nhu cầu hay nguyện  
vọng và thể hiện nó bằng một quyết định nào đó. Hiện tượng này chính là biểu hiện của mục tiêu xuất phát  
từ cá nhân. Nhà quản lý biết tổ chức, điều hành để mỗi cá nhân, dựa trên phân loại các mục tiêu trên để  
đưa ra mục tiêu, có cả mục tiêu tích cực và mục tiêu hạn chế, theo nhu cầu hoặc nguyện vọng của mình.  
Để có được danh sách các mục tiêu, nhà quản lý phải có các biện pháp khác nhau, chẳng hạn tổ chức các  
cuộc thảo luận với yêu cầu mỗi thành viên đóng góp các ý tưởng hoặc xác định các khó khăn. Để thăm dò  
các cá nhân trong một tổ chức, nhà quản lý “đưa ra danh sách các mục tiêu tiềm năng” [3,tr.539] không có  
sự sắp xếp ưu tiên làm cơ sở để các cá nhân đưa ra quyết định bằng cách lựa chọn. Khi yêu cầu cá nhân  
thể hiện quan điểm lựa chọn mục tiêu, có thể đưa ra các mục tiêu dự phòng bằng cách đặt vấn đề cho mỗi  
cá nhân: “Nếu bạn không thấy các mục tiêu từ danh sách này thì mục tiêu của bạn là gì?” và “Nếu có sự  
cân bằng giữa các mục tiêu thì đó là sự cân bằng nào? Bằng cách nào?”. Sử dụng yếu tố này để kích thích  
tư duy không chỉ của mỗi cá nhân trong tổ chức mà là cách thức tư duy của người quản lý. Sau công việc  
này, nhà quản lý có được danh sách các mục tiêu để phân loại và lựa chọn.  
76  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
Bước 2: Xem xét tình huống lựa chọn mục tiêu phương pháp định tính để tạo ra khoảng cách quá  
và cân bằng giá trị  
lớn với đo lường khách quan và đo lường giá trị.  
Việc định lượng giá trị cho các chức danh khoa  
Tính huống giúp nhà quản lý xác nhận và trả  
lời các câu hỏi “Tại sao mục tiêu này quan trọng?”, học dựa trên các công trình đã được xuất bản của  
“Tại sao phải chọn mục tiêu này mà không chọn cá nhân nhà khoa học trên thế giới thường dựa vào  
mục tiêu khác?”. Để đưa ra một quyết định mà các công trình đã được xuất bản trên các tạp chí  
kết quả của nó phải mang đến giá trị thì nhà quản và có hai quan điểm đo lường: quan điểm thiên về  
lý phải xác định các mục tiêu khác nhau như: sự số lượng của các công trình được công bố (Siegel  
phát triển, đạo đức, công bằng, tài chính, nhân lực, and Baveye, 2010; Refinetti, 2011) và quan điểm  
truyền thống và hiện đại,... Mỗi mục tiêu có thể có chú trọng vào chất lượng qua sự tác động của tạp  
những điểm giao và điểm đối lập với các mục tiêu chí, của cá nhân nhà khoa học (Garfield, 2006). Một  
khác đòi hỏi nhà quản lý phải cân bằng giá trị. Để hướng tiếp cận khác để đo đầu ra cho các chức danh  
cân bằng giá trị, nhà quản lý phải xác định được đâu khoa học là chú trọng đến “năng suất” lao động  
là mục tiêu cơ bản, đâu là mục tiêu chiến lược, đâu khoa học (Gabriel Kreiman và John H. R. Maun-  
là quy luật, đâu là chủ quan, những rào cản hoặc rủi sell, 2011).  
ro (do khách quan mang lại) có thể xảy ra, đâu là  
sự ưu tiên. Sau đó, nhà quản lý tiến hành phân cấp  
và xây dựng mô hình mục tiêu theo kiểu ma trận và  
dùng thuật toán tư duy để cân bằng giá trị các mục  
tiêu.  
Để xác định giá trị tương ứng với một chức danh  
khoa học nào đó (ví dụ: học vị, học hàm cụ thể),  
nhiều người mong muốn có sự thống nhất giữa năng  
lực và hiệu suất hoạt động khoa học tương xứng với  
mỗi chức danh khoa học nhất định. Trong thực tiễn,  
những chuyện không mong muốn thường xuyên  
xảy ra mặc dù việc định danh cho giá trị khoa học  
ở mỗi con người được thực hiện bởi phương pháp  
khoa học.  
Bước 3: Xác định cơ hội để đưa ra quyết định  
Khi đạt được hệ thống các mục tiêu và được  
phân cấp, nhà quản lý đứng trước các lựa chọn để  
ra quyết định: lựa chọn hoặc thay thế hoặc lựa chọn  
thay thế. Mỗi mục tiêu đưa ra trong hệ thống phân  
Việc xây dựng tiêu chí đánh giá các chức danh  
cấp đều mang tính quan trọng trong một tình huống khoa học cần phá vỡ sự trì trệ của tư duy võ đoán,  
quyết định. Do đó, nhà quản lý phải suy nghĩ làm để làm thay đổi quyết định của nhà quản lý (Rob-  
thế nào để vừa đạt được những mục tiêu này tốt hơn ert S. Hartman và Ralph L. Keeney). Những vấn đề  
và có thể đề xuất các lựa chọn khác? Việc xem xét “vô hình” và “hữu hình” của giá trị khoa học mà  
mục tiêu phải “mỗi lần một mục tiêu và nghĩ đến sự Hartman đưa ra trong Đo lường giá trị giúp chúng  
lựa chọn thay thế có thể cần thiết nếu đó là mục tiêu ta nhận thức được mục tiêu của việc đo lường ở chủ  
duy nhất” [3, tr.544]. Bước tiếp theo là xem xét hai thể sáng tạo là không phải đánh giá bằng sự liệt kê  
mục tiêu cùng thời điểm, hoặc tương đương và cố thành tích mà là xác định giá trị và các khả năng tạo  
gắng tạo ra các lựa chọn thay thế tốt cho cả hai mục ra giá trị. Mục tiêu của việc công nhận chức danh  
tiêu này. Những lựa chọn này có thể sàng lọc hoặc khoa học là xác định khả năng của nhà khoa học để  
tạo ra sự kết hợp để nó đại diện cho nhóm mục tiêu. thực hiện các nhiệm vụ tương ứng với chức danh  
Sau đó lấy ba mục tiêu cùng thời điểm hoặc tương mà mình được công nhận dựa trên cơ sở của các  
đương để đưa ra lựa chọn thay thế. Cứ thế, nhà quản sản phẩm mà nhà khoa học đạt được dựa trên các  
lý sẽ tạo ra được mục tiêu duy nhất, và đó chính là “tham số” cùng với “phép tính” hợp lý. Các “tham  
cơ hội để nhà quản lý ra quyết định. Các tình huống số” được được hiểu là các tiêu chí và “phép tính” là  
quyết định phức tạp hơn thì có nhiều mục tiêu hơn phương pháp đo lường khách quan.  
và cũng có nhiều cách lựa chọn hơn. Mục tiêu bao  
hàm nhiều mục tiêu lựa chọn trong một phạm vi  
rộng được xem là mục tiêu chiến lược. Và ngay cả  
khi đạt được sự lựa chọn thay thế để đưa ra quyết  
định thì người quản lý không được rời khỏi suy nghĩ  
là còn có sự lựa chọn khác và phải tiếp tục, nhất là  
khi có những tình huống mới khó kiểm soát.  
4.3. Đo lường giá trị để định vị các chức danh thể hoán đổi hoặc đánh tráo giá trị, chưa nói đến  
khoa học  
Đo lường giá trị vừa là một lĩnh vực khoa học  
độc lập, vừa có mối quan hệ sâu sắc đối với tư duy  
Hiện nay, các tiêu chí trong các văn bản pháp  
quy về công nhận các chức danh khoa học của nhà  
nước Việt Nam có xu hướng mở ra những phạm vi  
khác nhau và khó thực hiện cho các phép đo khách  
quan như tư tưởng, trình độ ngoại ngữ, hướng dẫn  
nghiên cứu sinh bảo về thành công luận án,… Khi  
phạm vi của các tiêu chí quá rộng, người ta có  
phương pháp đo lường định tính như các hình thức  
tín nhiệm.  
Tiêu chí trong đo lường giá trị khoa học để xác  
tập trung vào giá trị. Mối quan hệ nhân quả này làm định chức danh khoa học phải dựa trên các nguyên  
cho đo lường giá trị mang tính mục đích như là một tắc của tư duy sáng tạo và phát triển năng lực. Ở tư  
sự phản ánh hệ quả của tư duy giá trị. Những tiêu duy bậc cao, các yếu tố của sáng tạo thể hiện trên  
chuẩn sẽ trở nên lỗi thời, thậm chí trở thành rào cản các ý tưởng hay phát minh. Bậc thấp hơn của tư duy  
của sự phát triển nếu các tiêu chuẩn trộn lẫn với là vận dụng và cải tiến những ý tưởng, phát minh  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
77  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
của người đi trước.  
giá trị tạo ra năng lượng cho nhà quản lí trong việc  
hoạch định chính sách và đưa ra quyết định để điều  
hành tổ chức của mình theo kịp sự vận động của xã  
hội và thời đại, chìa khóa thành công của giáo dục  
và đào tạo Việt Nam trong thế kỷ XXI.  
Định lượng giá trị khoa học cho các chức danh  
khoa học rất khó, bởi vì giá trị khoa học chính là  
khoa học về giá trị, nó mang tính lịch sử của sự phát  
triển và mất đi theo thời gian vì sự phát triển hay  
phủ định nó, như Hartman đã nói trong một công  
trình chưa kịp công bố của mình “Nếu bạn nhớ nó  
đã mất từ Galileo đến General Electric, thì bạn sẽ  
hiểu được sự phát triển to lớn của khoa học về giá  
trị”. Mỗi chức danh khoa học nên tồn tại trong một  
khoảng thời gian (được gọi là chu kỳ) nhất định,  
vừa đủ để minh chứng năng lực của một nhà khoa  
học tương ứng với nhiệm vụ của họ và khả năng  
tiếp tục công việc chuyên môn trong thời gian tới.  
Khoa học đích thực phải là sự tiến bộ và phát triển  
chứ không phải là sự cộng dồn các kinh nghiệm. Tư  
duy tập trung vào giá trị có khả năng khắc phục sự  
trì trệ của con người, giúp con người nhận ra những  
khuyết điểm của mình trên con đường phát triển.  
Tài liệu tham khảo  
[1] Duane F. Alwin and Jon A. Krosnick  
(1985), “The Measurement of Values in Surveys:  
A Comparison of Ratings and Rankings”, Public  
Opinion Quarterly, Vol. 49, No. 4 (Winter, 1985),  
535-552;  
[2] Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học – Cơ sở  
lý luận góp phần đúc kết, xây dựng giá trị chung của  
người Việt Nam thời nay, NXB. Dân trí, Hà Nội;  
[3] Keeny R. L. (1996), “Value-focused  
thinking: Identifying decision opportunities  
and creating alternatives”, European Joumal of  
Operational Research, Vol 92, pp. 537-549;  
[4] Keeny R. L. (1996), Value-Focused  
Thinking A Path to Creative Decisionmaking,  
Harvard University Press;  
5. Kết luận  
Những giải pháp công nghệ có khả năng giúp  
con người cảnh giác hơn sự đánh tráo giá trị, khắc  
phục tình trạng dựa vào thể chế quyền lực, núp  
bóng danh nghĩa tập thể, cộng đồng. Sự phát triển  
của ITC đang làm thay đổi về tầm nhìn đối với giá  
trị, thúc đẩy các phát minh, cải tiến công nghệ đáp  
ứng nhu cầu ngày càng cao của con người trong xã  
hội hiện đại. Vì thế, xu hướng nhận thức tập trung  
vào giá trị, tập trung vào tư duy sáng tạo ngày càng  
được coi trọng và có khả năng đưa giá trị tri thức,  
[5] Hartman R. S. (1967), The Structure of  
Value: Foundations of ScientificAxiology, Southern  
Illinois University Press;  
[6] Schwartz D. J. (1959), The Magic of  
Thinking Big, New York: Simon & Schuster, 1987;  
[7] Thurstone L. L. (1954). “The Measurement  
of Value.” Psychological Review 61 (1954): 47-58;  
[8] Tischner J. (2002), Myslenie wedlug wartosci  
hàn lâm vào hàng thứ yếu. Tư duy tập trung vào [Thinking in Values], Krakow: Znak, pp. 477 - 493.  
VALUE-FOCUSED THINKING - ORIENTATION FOR ENHANCING  
THE EDUCATIONAL MANAGEMENT CAPACITY IN VIETNAM  
Ho Canh Hanh  
Nguyen Huu Le  
Abstract: In a developed society, value is the motivation and goal; at the same time, thinking  
is considered as a value and has an impact on the development of the society. Axiology is a science  
that influences many different aspects of the lives and societies of many countries around the world,  
including management science. Valuable thinking and value-focused thinking are the achievements of the  
contemporary management science; It is being applied in the management in many different areas of the  
economy and society because it helps to build the methods and techniques for managers to make decisions.  
Value-focused thinking application can enhance the educational management capacity in Vietnam in the  
age of Industry 4.0.  
Keywords: Value; value thinking; value-focused thinking; management science, education  
management.  
78  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
pdf 6 trang yennguyen 16/04/2022 1280
Bạn đang xem tài liệu "Tư duy tập trung vào giá trị - Định hướng nâng cao năng lực quản lý giáo dục ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftu_duy_tap_trung_vao_gia_tri_dinh_huong_nang_cao_nang_luc_qu.pdf