Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên – Nghiên cứu trường hợp Đại học Tài chính - Marketing
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAM GIA
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN – NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING
DETERMINANTS OF STUDENTS’ SCIENTIFIC
RESEARCH PARTICIPATION – A CASE STUDY IN
UNIVERSITY OF FINANCE – MARKETING
Hà Đức Sơn, Nông Thị Như Mai1
Ngày nhận: 04/10/2018
Tóm tắt
Ngày nhận bản sửa: 05/11/2018
Ngày đăng: 15/02/2019
Nghiên cứu khoa học (NCKH) của sinh viên là hoạt động nhận được nhiều sự quan tâm của các
trường đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, để thu hút sinh viên tham gia nghiên cứu là điều không dễ
dàng. Vì lý do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham
gia NCKH của sinh viên, trường hợp nghiên cứu tại Trường Đại học Tài chính – Marketing. Bài
nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng với mẫu khảo sát gồm 749 sinh viên đã và đang theo
học tại Trường. Nghiên cứu sử dụng phương pháp kiểm định Cronbach’s Alpha và phân tích nhân
tố khám phá (EFA) để kiểm định và xây dựng các thang đo. Bên cạnh đó, phương pháp hồi quy
tuyến tınh bội được sử dụng để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên.
́
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 04 yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên là: Môi
trường nghiên cứu, Động cơ, Năng lực của sinh viên và Sự quan tâm khuyến khích của nhà trường.
Trong đó, môi trường nghiên cứu tác động nhiều nhất đến sự tham gia NCKH của sinh viên.
Từ khóa: nghiên cứu khoa học, sinh viên, trường Đại học Tài chính – Marketing
Abstract
Scientific research of students is gaining much interest from universities and colleges. However, to
attract students to do research is not easy. Thus, this research aims to determine factors affecting
the scientific research participation of University of Finance – Marketing (UFM)’s students in
particular and students in general based on a survey of 749 students who studied and are studying
in UFM. The methods of Cronbach’s Alpha test, exploratory factor analysis (EFA) and multiple
regression were used in the research. The findings show that there are four factors influencing the
students’ scientific research participation inclulding Research Environment, Motivation, Student
Competence, and the School’s encouragement and interest. Of which, research environment has the
greatest influence on the scientific research participation of students.
Keywords: scientific research, student, University of Finance - Marketing
__________________________________________
1 Trường Đại Học Tài chính – Marketing
13
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019
1. Đặt vấn đề
cá nhân và điểm trung bình học của sinh viên.
Còn theo nghiên cứu của Kim Ngọc và Hoàng
Nguyên về các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt
động NCKH của sinh viên tại đại học Duy Tân
năm 2015 (Kim Ngọc & Hoàng Nguyên, 2015),
có 04 nhân tố tác động đến việc sinh viên tham
gia vào hoạt động NCKH, bao gồm Khả năng
và định hướng nghiên cứu của sinh viên, Môi
trường nghiên cứu, Sự quan tâm của khoa và Sự
quan tâm và khuyến khích của trường.
Hoạt động NCKH của sinh viên là một hoạt
động vô cùng quan trọng và không thể thiếu
không chỉ đối với sinh viên nhằm nâng cao chất
lượng học tập mà còn là đối với các trường đại
học, cao đẳng để nâng cao chất lượng đào tạo.
Nhận thức được vấn đề này, từ năm 2010 cho
đến nay, hàng năm trường Đại học Tài chính
– Marketing đều tổ chức hoạt động NCKH
cho sinh viên thông qua giải thưởng “Tài năng
kinh tế trẻ”. Thông qua giải thưởng này, nhà
trường sẽ đánh giá xếp loại các đề tài đạt chất
lượng và đề cử tham gia các giải thưởng ở cấp
cao hơn như giải thưởng Sinh viên NCKH cấp
Bộ, giải thưởng EUREKA của Thành đoàn Tp.
Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nghiên
cứu này tập trung xem xét, đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố đến sự tham gia NCKH
của sinh viên tại trường Đại học Tài chính –
Marketing. Kết quả của nghiên cứu sẽ đóng góp
tích cực trong việc thúc đẩy hoạt động NCKH
của sinh viên các trường nói chung và trường
Đại học Tài chính – Marketing nói riêng.
Qua thống kê hàng năm của Trường, số đề
tài sinh viên NCKH tăng lên hàng năm. Tuy
nhiên, các đề tài chỉ tập trung vào một số khoa
nhất định như khoa Marketing, khoa Thương
mại, khoa Tài chính – Ngân hàng và tỷ lệ sinh
viên trong toàn trường tham gia NCKH là thấp.
Năm 2017 có số lượng đề tài và sinh viên tham
gia nhiều nhất nhưng cũng chỉ đạt đến con số
7.3% (Phòng Quản lý khoa học, 2015 – 2017).
Việc số lượng sinh viên chưa tham gia vào hoạt
động NCKH nhiều cần phải được xem xét, tìm
hiểu để có những biện pháp nhằm thu hút ngày
càng nhiều sinh viên trong trường tham gia
NCKH. Muốn vậy, cần phải nắm được những
yếu tố nào ảnh hưởng đến việc tham gia NCKH
của sinh viên.
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết Hành vi hoạch định (TPB -
Theory of Planned Behavior)
Lý thuyết Hành vi hoạch định của Azjen
(1991) có thể giải thích các nguyên nhân thúc
đẩy sinh viên tham gia NCKH. Thuyết này được
phát triển từ lý thuyết hành động hợp lý (TRA,
Ajzen & Fishbein, 1975), lý thuyết hành vi hoạch
định giả định rằng một hành vi có thể được dự
báo hoặc giải thích bởi các ý định (động cơ) để
thực hiện hành vi đó. Các ý định được giả sử bao
gồm các nhân tố, động cơ ảnh hưởng đến hành
vi, và được định nghĩa như là mức độ nỗ lực
mà mọi người cố gắng để thực hiện hành vi đó
(Ajzen, 1991). Chẳng hạn, NCKH sẽ mở ra cơ
hội để sinh viên tìm được việc làm tốt và thăng
tiến trong công việc là một trong những động cơ
thúc đẩy sinh viên tham gia nghiên cứu (Cargile
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, đã có
các công trình NCKH về các yếu tố ảnh hưởng
đến sự tham gia NCKH của sinh viên. Theo
Salgueira cùng cộng sự (2012), sự tham gia
NCKH của sinh viên bị tác động bởi đặc điểm
14
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019
& Bublitz, 1986; Hadjinicola & Soteriou, 2006; trong (intrinsic motivation) là động cơ thúc đẩy
Tien, 2000). Như vậy, thuyết TPB cho thấy rằng sinh viên thực hiện các hoạt động từ sự yêu thích.
ý định dẫn đến hành vi của con người được dự
Trước đây vào năm 1983, Harmer cũng đã
báo bởi các yếu tố: nhận thức đối với hành vi,
từng cho rằng động cơ cũng được chia thành hai
chuẩn chủ quan và cảm nhận về kiểm soát hành
loại như trên. Theo đó, động cơ nội tại liên quan
vi. Trong đó, chuẩn chủ quan đối với việc thực
đến các nhân tố bên trong trường lớp học, là
hiện NCKH bao gồm các yếu tố ngoài tầm kiểm
những đặc điểm bên trong mà người học mang
soát của người thực hiện NCKH như chế độ chính
đến môi trường học, là thái độ, niềm tin, nhu
sách, kinh phí thực hiện đề tài NCKH (Jacob &
cầu và các yếu tố cá nhân; động cơ bên ngoài
Lefgren, 2011). Ngoài ra, Cảm nhận về kiểm soát
bao gồm các nhân tố môi trường bên ngoài giúp
hành vi trong NCKH bao gồm các yếu tố cá nhân
hình thành nên hành vi của người học (Harmer,
dùng để đánh giá khả năng thành công của mình
J., 1983).
như: năng lực cá nhân (Azad & Seyyed, 2007),
Tóm lại, động cơ nội tại và động cơ bên
điều kiện và môi trường nghiên cứu (Blackburn
ngoài không loại trừ lẫn nhau, mà chúng tương
& Lawrence, 1995; Sax et al., 2002; Chen et
hỗ lẫn nhau. Động cơ tự quyết có vai trò rất
al., 2006; Azad & Seyyed, 2007; Lertputtarak,
quan trọng đối với kết quả hành động. Theo
2008). Như vậy, khả năng tham gia NCKH của
Vansteenkiste và cộng sự (2005, xem trong Bùi
sinh viên chịu ảnh hưởng bởi các nhóm nhân tố:
Thị Thúy Hằng, 2007), những người có động
Động cơ về việc thực hiện NCKH; Chuẩn chủ
cơ tự quyết thường có phương pháp hành động
quan của việc thực hiện NCKH (chế độ chính
hiệu quả và kết quả tốt đẹp.
sách và kinh phí thực hiện NCKH); Cảm nhận về
Đặc điểm cá nhân và sự tham gia của sinh
kiểm soát hành vi trong NCKH (Năng lực sinh
viên trong NCKH
viên; Môi trường nghiên cứu).
Theo Salgueira cùng cộng sự (2012), sự
Thuyết tự quyết của Deci và Ryan (self-
tham gia NCKH của sinh viên bị tác động bởi
determination theory)
đặc điểm cá nhân và điểm trung bình học của
Theo lý thuyết về tính tự quyết của Deci và
sinh viên. Đối với đặc điểm cá nhân thì giới
Ryan năm 1985, động cơ hành động của con
tính, tính tình chẳng hạn như tính cởi mở, tính
người được được phân loại thành động cơ bên
hướng ngoại, sự tận tâm có ảnh hưởng nhiều
ngoài, động cơ bên trong, và không động cơ,
đối với quyết định tham gia nghiên cứu của sinh
trong đó động cơ bên ngoài và động cơ bên
viên. Bên cạnh đó, theo Salgueira cùng cộng
trong là những loại động cơ mang tính quyết
sự thì, những sinh viên có điểm trung bình học
định (Ryan, R. M & Deci, E. L., 2000).
càng cao thì khả năng tham gia nghiên cứu càng
Theo lý thuyết, động cơ bên ngoài (extrinsic
nhiều. Khám phá này của các tác giả là nền tảng
motivation) là động cơ thúc đẩy sinh viên tiến
lý luận cho nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
hành các hoạt động mà những hoạt động đó sẽ
đến sự tham gia NCKH của sinh viên sau này.
mang lại kết quả cho sinh viên như thành tích,
Đặc điểm cá nhân còn được đề cập trong nghiên
được khen thưởng,… Ngược lại, động cơ bên
cứu của Harsh, Maltese và Tai (2012). Theo các
15
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019
tác giả, có sự chênh lệch trong giới tính của từng được đề cầp trong những nghiên cứu của
sinh viên khi tham gia NCKH. Nguyên nhân Huss, Randall, Patry, Davis, & Hansen (2002)
của sự chênh lệch này là do hiệu quả cá nhân và Kierniesky (2005).
(self- efficacy), đam mê (interest), thực hành
nghiên cứu đích thực (the practice of authentic
research) của nam và nữ là khác nhau.
Nhận thức được tầm quan trọng của
NCKH trong hoạt động giảng dạy và học tập,
Winkelmann cùng cộng sự (2014) đã đề xuất
thiết kế lại chương trình học nhằm thu hút hơn
nữa sinh viên NCKH. Theo các tác giả, để thu
hút sinh viên NCKH thì chương trình học cần
tập trung vào nâng cao thái độ, hiệu quả cá nhân
và kỹ năng của sinh viên. Bên cạnh đó, trường
học cần tạo môi trường thực hành nghiên cứu
đích thực để đem lại sự tự tin cho sinh viên
trong thực hiện nghiên cứu.
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến hoạt
động NCKH sinh viên tại Đại học Duy Tân
Theo nghiên cứu của Kim Ngọc và Hoàng
Nguyên về các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt
động NCKH của sinh viên tại Đại học Duy Tân
năm 2015, có 04 nhân tố tác động đến việc sinh
viên tham gia vào hoạt động NCKH, bao gồm:
Khả năng và định hướng nghiên cứu của sinh
viên, Môi trường nghiên cứu, Sự quan tâm của
khoa, Sự quan tâm và khuyến khích của trường.
Kết quả hồi quy của nghiên cứu cho thấy, khả
năng và định hướng nghiên cứu của sinh viên
có tác động nhiều nhất lên việc tham gia hoạt
động nghiên cứu với hệ số beta đạt 0.84, những
nhân tố còn lại lần lượt là sự quan tâm khuyến
khích của trường (0.76), sự quan tâm của khoa
(0.67) và môi trường nghiên cứu (0.51). Kết
quả của mô hình nghiên cứu này được nhóm tác
giả sử dụng trong mô hình nghiên cứu đề xuất.
Từ tổng quan các lý thuyết và nghiên cứu
trước, nhóm tác giả nhận thấy các nhân tố ảnh
hưởng đến hoạt động NCKH của sinh viên xoay
quanh năng lực của sinh viên, động cơ nghiên
cứu, môi trường nghiên cứu, và sự quan tâm
khuyến khích của trường.
2.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Sự quan tâm khuyến khích của nhà
trường: là các chính sách, cơ chế đãi ngộ
của nhà trường nhằm khuyến khích khả năng
NCKH trong sinh viên, thu hút sinh viên đến
với công tác nghiên cứu. Càng có chính sách,
cơ chế đã ngộ hấp dẫn, thỏa đáng sẽ càng thu
hút sự quan tâm và tham gia của sinh viên đối
với hoạt động NCKH. Vì vậy, nhóm tác giả đưa
ra giả thuyết như sau:
Các nghiên cứu khác
Khi thực hiện tổng quan các yếu tố ảnh
hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên,
Sadler và McKinney (2010) tổng kết rằng
nguyện vọng nghề nghiệp (career aspirations),
sự tự tin (confidence), bản chất của khoa học
(nature of science), phát triển trí tuệ (intellectual
development), kiến thức (content knowledge),
kỹ năng (skills), và kinh nghiệm nghiên cứu
đích thực (authentic research experiences)
quyết định sự tham gia nghiên cứu của sinh
viên. Những nhân tố này trước đây cũng đã
H1: Có mối quan hệ cùng chiều giữa sự
quan tâm khuyến khích của nhà trường và sự
tham gia NCKH của sinh viên.
Môi trường nghiên cứu: Môi trường
nghiên cứu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều yếu
tố như chính sách Nhà nước và các quy định
pháp luật đối với hoạt động NCKH; Sự phát
triển của xã hội, nguồn vốn xã hội và nguồn
16
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019
lực tài chính; Hạ tầng kỹ thuật như phòng thí lực nghiên cứu, theo A. Šeberová, đó là một hệ
nghiệm hay thư viện; Các cơ chế bảo đảm chất thống mở và không ngừng phát triển, bao gồm
lượng, kiểm định và thực hiện trách nhiệm giải các kiến thức tuyên bố và kiến thức quy trình
trình; Các thiết chế tài trợ nghiên cứu và hợp trong lĩnh vực nghiên cứu, các thái độ và sự sẵn
tác... (Altbach và Salmi, 2013 xem trong Phạm sàng của cá nhân cho phép thực hiện một nghiên
Thị Ly, 2014). Hiểu theo nghĩa hẹp, môi trường cứu trong khuôn khổ hoạt động nghề nghiệp
nghiên cứu là bầu không khí của những mối của họ (2008, tr.61). Nói một cách tổng quát,
quan hệ trong các tổ chức nghiên cứu, trong cũng như mọi năng lực khác, năng lực NCKH
đó các hoạt động NCKH được thực hiện, bao bao gồm 3 thành tố chủ yếu: kiến thức, kỹ năng
gồm sự hợp tác, các mối quan hệ và liên kết với và thái độ. Khi năng lực càng cao thì khả năng
đồng nghiệp, cơ chế bình duyệt, sự lãnh đạo về tham gia NCKH càng lớn. Vì vậy, nhóm tác giả
chuyên môn học thuật của người đứng đầu, sự đưa ra giả thuyết như sau:
hỗ trợ của người hướng dẫn và mức độ tự chủ
H3: Có mối quan hệ cùng chiều giữa năng
của người nghiên cứu (Phạm Thị Ly, 2014).
lực và sự tham gia NCKH của sinh viên.
Như vậy có thể thấy, có rất nhiều yếu tố
Động cơ: động cơ là một khái niệm để mô
thuộc về môi trường nghiên cứu. Môi trường
tả các yếu tố được các cá nhân nảy sinh, duy trì
tác động đến sinh viên càng nhiều thì khả
và điều chỉnh hành vi của mình theo hướng đạt
năng tham gia NCKH của sinh viên càng tăng
được mục tiêu. Khi động cơ nghiên cứu càng
và ngược lại. Vì vậy, nhóm tác giả đưa ra giả
tăng lên thì càng thúc đẩy sinh viên tham gia
thuyết như sau:
NCKH để nhằm đạt được các mục tiêu đã đề
H2: Có mối quan hệ cùng chiều giữa môi ra và ngược lại sẽ khi động cơ không còn nhiều
trường nghiên cứu và sự tham gia NCKH của sẽ làm giảm sự thu hút đối với tham gia NCKH
sinh viên.
Năng lực của sinh viên:
của sinh viên. Vì vậy, nhóm tác giả đưa ra giả
thuyết như sau:
H4: Có mối quan hệ cùng chiều giữa động
cơ và sự tham gia NCKH của sinh viên.
Trong lý luận dạy học nói chung, khái niệm
“năng lực” có nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy
nhiên, các định nghĩa này có điểm chung sau
Ngoài ra, để kiểm định mối quan hệ giữa
đây: đó là “sự kết hợp của nhiều kiến thức, kỹ đặc điểm của sinh viên với sự tham gia NCKH,
năng và thái độ phù hợp với một tình huống nào các yếu tố như: chương trình đào tạo, năm
đó” (Uỷ ban Cộng đồng châu Âu, 2005, tr.3, học, khoa đào tạo cũng được đưa vào mô hình
xem trong Nguyễn Thành Ái, 2015). Về năng nghiên cứu.
17
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019
Đặc điểm
sinh viên
YẾU TỐ BÊN NGOÀI
H1
Sự quan tâm khuyến khích
của nhà Trường
H2
Môi trường nghiên cứu
Tham
gia hoạt
động
NCKH
của SV
YẾU TỐ BÊN TRONG SV
Năng lực của sinh viên
H3
Động cơ
H4
Hình 1. Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên UFM
3. Phương pháp nghiên cứu
online bản câu hỏi được thiết kế từ các kết quả
nghiên cứu trước. Nghiên cứu đo lường sự ảnh
hưởng của các nhân tố đến sự tham gia NCKH
của sinh viên.
3.1. Đối tượng khảo sát
Để phục vụ cho đề tài, đối tượng thu thập
dữ liệu là các sinh viên của trường Đại học Tài
chính – Marketing, bao gồm cả các sinh viên
đã và đang theo học tại trường. Tập trung chủ
yếu vào các khoa: Thương mại, Quản trị kinh
doanh, Tài chính – Ngân hàng, Marketing và
Kế toán – Kiểm toán.
Dữ liệu nghiên cứu sau khi khảo sát được
làm sạch và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.
Phương pháp nhân tố khám phá (EFA) được sử
dụng để rút gọn các biến đo lường, sau đó sử
dụng phương pháp phân tích hồi quy bội để xác
định mức độ các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham
gia NCKH của sinh viên.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện thông qua các
bước sau: (1) Nghiên cứu khám phá dữ liệu
thứ cấp từ cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu liên
quan đến yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia
NCKH của sinh viên, để hình thành thang đo
cho nghiên cứu sơ bộ. (2) Nhóm tác giả phỏng
vấn tay đôi 8 sinh viên đã và đang theo học tại
trường nhằm đảm bảo độ chuẩn xác các nội
dung phát biểu của thang đo. Sau đó, thang đo
hiệu chỉnh từ nghiên cứu sơ bộ được làm thang
đo chính thức. (3) Nghiên cứu chính thức bằng
phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng
dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng cách khảo sát
3.3. Thang đo nghiên cứu
Thang đo trong nghiên cứu này được xây
dựng dựa trên cơ sở lý thuyết và các kết quả
nghiên cứu định tính, đồng thời có chỉnh sửa
cho phù hợp với các yếu tố ảnh hưởng đến sự
tham gia NCKH của sinh viên. Các biến quan
sát được đo bằng thang đo Likert 5 điểm với 1
là hoàn toàn không đồng ý và 5 là hoàn toàn
đồng ý. Cụ thể, 4 yếu tố độc lập: Năng lực của
sinh viên được đo lường bằng 5 biến quan sát,
Môi trường nghiên cứu được đo lường bằng 5
biến quan sát, Sự quan tâm khuyến khích của
nhà trường được đo lường bằng 5 biến quan sát
18
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019
4.2. Kết quả kiểm định thang đo
và Động cơ được đo lường bằng 4 biến quan
sát. Sự tham gia NCKH của sinh viên, là yếu tố
phụ thuộc, được đo lường bằng 4 biến quan sát.
Thang đo được đánh giá thông qua các
phương pháp đánh giá độ tin cậy và phân tích
nhân tố khám phá. Việc kiểm định thang đo
thông qua việc sử dụng hệ số tin cậy Cronbach’s
Alpha để kiểm định mức tương quan giữa các
biến quan sát. Nếu biến quan sát nào có mức
tương quan với biến tổng nhỏ hơn 0.3 sẽ bị loại
(Hair et al., 2009).
4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Mẫu nghiên cứu
Theo Tabachnick và Fidell (1996) [10], kích
cỡ mẫu theo công thức n = 50 + 8 * m (m: số
biến độc lập).
Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha của
thang đo Năng lực của sinh viên, Khuyến khích
của nhà trường, Động cơ và Sự tham gia NCKH
của sinh viên cho thấy tất cả các thang đo đều
đạt yêu cầu về hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha,
được tiếp tục sử dụng trong phân tích mô hình.
Như vậy mẫu tối thiểu ≥ 50 + 8*19 = 202.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã thu
về 823 lượt trả lời, trong đó có 74 lượt trả lời
không hợp lệ và 749 lượt hợp lệ được sử dụng
để phân tích các bước tiếp theo.
Số lượng trả lời khảo sát tập trung vào khoa
Thương mại (31.7%); khoa Marketing (23.1%);
Quản trị kinh doanh (14.9%) và khoaTài chính –
Ngân hàng (13.5%). Sinh viên theo học chương
trình đại trà tham gia trả lời chiếm tới 72%, còn
sinh viên theo học các chương trình chất lượng
cao và đặc biệt chiếm 28%. Sinh viên năm thứ
3, 4 tham gia trả lời chiếm 65.2%, đã tốt nghiệp
chiếm 24.6%.
Thang đo Năng lực của sinh viên, tất cả các
thang đo đều đạt yêu cầu về hệ số Crobach’s
Alpha. Tuy nhiên tại biến NL2 “Điểm TB học
(GPA) càng cao thì khả năng thành công NCKH
của sinh viên càng lớn” có hệ số tương quan
biến – tổng < 0.3 nên bị loại. Sau khi loại biến
NL2, hệ số Cronbach’s Alpha tăng lên 0.789
nên có thể tiếp tục sử dụng các biến còn lại
trong trong phân tích mô hình.
Bảng 1. Kết quả Kiểm định Cronbach’s Alpha các thang đo
Hệ số Cronbach’s Alpha Số biến quan sát
Thang đo
Biến bị loại
NL2
Lần 1
0.645
Lần 2
0.789
Lần 1 Lần 2
Năng lực của sinh viên (NL)
Môi trường nghiên cứu (MT)
Khuyến khích của nhà Trường (KK)
Động cơ (DC)
5
5
5
4
4
4
5
5
4
4
0.824
0.839
0.680
0.862
0.824
0.839
0.680
0.862
Sự tham gia NCKH của sinh viên (TG)
(Nguồn: Phân tích và xử lý của nhóm tác giả 09/2018)
19
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên – Nghiên cứu trường hợp Đại học Tài chính - Marketing", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- cac_nhan_to_anh_huong_den_su_tham_gia_nghien_cuu_khoa_hoc_cu.pdf