Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên – Nghiên cứu trường hợp Đại học Tài chính - Marketing

Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ THAM GIA  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN – NGHIÊN CỨU  
TRƯỜNG HỢP ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH-MARKETING  
DETERMINANTS OF STUDENTS’ SCIENTIFIC  
RESEARCH PARTICIPATION – A CASE STUDY IN  
UNIVERSITY OF FINANCE – MARKETING  
Hà Đức Sơn, Nông Thị Như Mai1  
Ngày nhận: 04/10/2018  
Tóm tắt  
Ngày nhận bản sửa: 05/11/2018  
Ngày đăng: 15/02/2019  
Nghiên cứu khoa học (NCKH) của sinh viên là hoạt động nhận được nhiều sự quan tâm của các  
trường đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, để thu hút sinh viên tham gia nghiên cứu là điều không dễ  
dàng. Vì lý do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham  
gia NCKH của sinh viên, trường hợp nghiên cứu tại Trường Đại học Tài chính – Marketing. Bài  
nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng với mẫu khảo sát gồm 749 sinh viên đã và đang theo  
học tại Trường. Nghiên cứu sử dụng phương pháp kiểm định Cronbach’s Alpha và phân tích nhân  
tố khám phá (EFA) để kiểm định và xây dựng các thang đo. Bên cạnh đó, phương pháp hồi quy  
tuyến tınh bội được sử dụng để tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên.  
́
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 04 yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên là: Môi  
trường nghiên cứu, Động cơ, Năng lực của sinh viên và Sự quan tâm khuyến khích của nhà trường.  
Trong đó, môi trường nghiên cứu tác động nhiều nhất đến sự tham gia NCKH của sinh viên.  
Từ khóa: nghiên cứu khoa học, sinh viên, trường Đại học Tài chính – Marketing  
Abstract  
Scientific research of students is gaining much interest from universities and colleges. However, to  
attract students to do research is not easy. Thus, this research aims to determine factors affecting  
the scientific research participation of University of Finance – Marketing (UFM)’s students in  
particular and students in general based on a survey of 749 students who studied and are studying  
in UFM. The methods of Cronbach’s Alpha test, exploratory factor analysis (EFA) and multiple  
regression were used in the research. The findings show that there are four factors influencing the  
students’ scientific research participation inclulding Research Environment, Motivation, Student  
Competence, and the School’s encouragement and interest. Of which, research environment has the  
greatest influence on the scientific research participation of students.  
Keywords: scientific research, student, University of Finance - Marketing  
__________________________________________  
1 Trường Đại Học Tài chính – Marketing  
13  
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
1. Đặt vấn đề  
cá nhân và điểm trung bình học của sinh viên.  
Còn theo nghiên cứu của Kim Ngọc và Hoàng  
Nguyên về các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt  
động NCKH của sinh viên tại đại học Duy Tân  
năm 2015 (Kim Ngọc & Hoàng Nguyên, 2015),  
có 04 nhân tố tác động đến việc sinh viên tham  
gia vào hoạt động NCKH, bao gồm Khả năng  
và định hướng nghiên cứu của sinh viên, Môi  
trường nghiên cứu, Sự quan tâm của khoa và Sự  
quan tâm và khuyến khích của trường.  
Hoạt động NCKH của sinh viên là một hoạt  
động vô cùng quan trọng và không thể thiếu  
không chỉ đối với sinh viên nhằm nâng cao chất  
lượng học tập mà còn là đối với các trường đại  
học, cao đẳng để nâng cao chất lượng đào tạo.  
Nhận thức được vấn đề này, từ năm 2010 cho  
đến nay, hàng năm trường Đại học Tài chính  
– Marketing đều tổ chức hoạt động NCKH  
cho sinh viên thông qua giải thưởng “Tài năng  
kinh tế trẻ”. Thông qua giải thưởng này, nhà  
trường sẽ đánh giá xếp loại các đề tài đạt chất  
lượng và đề cử tham gia các giải thưởng ở cấp  
cao hơn như giải thưởng Sinh viên NCKH cấp  
Bộ, giải thưởng EUREKA của Thành đoàn Tp.  
Hồ Chí Minh.  
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nghiên  
cứu này tập trung xem xét, đánh giá mức độ ảnh  
hưởng của các yếu tố đến sự tham gia NCKH  
của sinh viên tại trường Đại học Tài chính –  
Marketing. Kết quả của nghiên cứu sẽ đóng góp  
tích cực trong việc thúc đẩy hoạt động NCKH  
của sinh viên các trường nói chung và trường  
Đại học Tài chính – Marketing nói riêng.  
Qua thống kê hàng năm của Trường, số đề  
tài sinh viên NCKH tăng lên hàng năm. Tuy  
nhiên, các đề tài chỉ tập trung vào một số khoa  
nhất định như khoa Marketing, khoa Thương  
mại, khoa Tài chính – Ngân hàng và tỷ lệ sinh  
viên trong toàn trường tham gia NCKH là thấp.  
Năm 2017 có số lượng đề tài và sinh viên tham  
gia nhiều nhất nhưng cũng chỉ đạt đến con số  
7.3% (Phòng Quản lý khoa học, 2015 – 2017).  
Việc số lượng sinh viên chưa tham gia vào hoạt  
động NCKH nhiều cần phải được xem xét, tìm  
hiểu để có những biện pháp nhằm thu hút ngày  
càng nhiều sinh viên trong trường tham gia  
NCKH. Muốn vậy, cần phải nắm được những  
yếu tố nào ảnh hưởng đến việc tham gia NCKH  
của sinh viên.  
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu  
2.1. Cơ sở lý thuyết  
Lý thuyết Hành vi hoạch định (TPB -  
Theory of Planned Behavior)  
Lý thuyết Hành vi hoạch định của Azjen  
(1991) có thể giải thích các nguyên nhân thúc  
đẩy sinh viên tham gia NCKH. Thuyết này được  
phát triển từ lý thuyết hành động hợp lý (TRA,  
Ajzen & Fishbein, 1975), lý thuyết hành vi hoạch  
định giả định rằng một hành vi có thể được dự  
báo hoặc giải thích bởi các ý định (động cơ) để  
thực hiện hành vi đó. Các ý định được giả sử bao  
gồm các nhân tố, động cơ ảnh hưởng đến hành  
vi, và được định nghĩa như là mức độ nỗ lực  
mà mọi người cố gắng để thực hiện hành vi đó  
(Ajzen, 1991). Chẳng hạn, NCKH sẽ mở ra cơ  
hội để sinh viên tìm được việc làm tốt và thăng  
tiến trong công việc là một trong những động cơ  
thúc đẩy sinh viên tham gia nghiên cứu (Cargile  
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, đã có  
các công trình NCKH về các yếu tố ảnh hưởng  
đến sự tham gia NCKH của sinh viên. Theo  
Salgueira cùng cộng sự (2012), sự tham gia  
NCKH của sinh viên bị tác động bởi đặc điểm  
14  
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
& Bublitz, 1986; Hadjinicola & Soteriou, 2006; trong (intrinsic motivation) là động cơ thúc đẩy  
Tien, 2000). Như vậy, thuyết TPB cho thấy rằng sinh viên thực hiện các hoạt động từ sự yêu thích.  
ý định dẫn đến hành vi của con người được dự  
Trước đây vào năm 1983, Harmer cũng đã  
báo bởi các yếu tố: nhận thức đối với hành vi,  
từng cho rằng động cơ cũng được chia thành hai  
chuẩn chủ quan và cảm nhận về kiểm soát hành  
loại như trên. Theo đó, động cơ nội tại liên quan  
vi. Trong đó, chuẩn chủ quan đối với việc thực  
đến các nhân tố bên trong trường lớp học, là  
hiện NCKH bao gồm các yếu tố ngoài tầm kiểm  
những đặc điểm bên trong mà người học mang  
soát của người thực hiện NCKH như chế độ chính  
đến môi trường học, là thái độ, niềm tin, nhu  
sách, kinh phí thực hiện đề tài NCKH (Jacob &  
cầu và các yếu tố cá nhân; động cơ bên ngoài  
Lefgren, 2011). Ngoài ra, Cảm nhận về kiểm soát  
bao gồm các nhân tố môi trường bên ngoài giúp  
hành vi trong NCKH bao gồm các yếu tố cá nhân  
hình thành nên hành vi của người học (Harmer,  
dùng để đánh giá khả năng thành công của mình  
J., 1983).  
như: năng lực cá nhân (Azad & Seyyed, 2007),  
Tóm lại, động cơ nội tại và động cơ bên  
điều kiện và môi trường nghiên cứu (Blackburn  
ngoài không loại trừ lẫn nhau, mà chúng tương  
& Lawrence, 1995; Sax et al., 2002; Chen et  
hỗ lẫn nhau. Động cơ tự quyết có vai trò rất  
al., 2006; Azad & Seyyed, 2007; Lertputtarak,  
quan trọng đối với kết quả hành động. Theo  
2008). Như vậy, khả năng tham gia NCKH của  
Vansteenkiste và cộng sự (2005, xem trong Bùi  
sinh viên chịu ảnh hưởng bởi các nhóm nhân tố:  
Thị Thúy Hằng, 2007), những người có động  
Động cơ về việc thực hiện NCKH; Chuẩn chủ  
cơ tự quyết thường có phương pháp hành động  
quan của việc thực hiện NCKH (chế độ chính  
hiệu quả và kết quả tốt đẹp.  
sách và kinh phí thực hiện NCKH); Cảm nhận về  
Đặc điểm cá nhân và sự tham gia của sinh  
kiểm soát hành vi trong NCKH (Năng lực sinh  
viên trong NCKH  
viên; Môi trường nghiên cứu).  
Theo Salgueira cùng cộng sự (2012), sự  
Thuyết tự quyết của Deci và Ryan (self-  
tham gia NCKH của sinh viên bị tác động bởi  
determination theory)  
đặc điểm cá nhân và điểm trung bình học của  
Theo lý thuyết về tính tự quyết của Deci và  
sinh viên. Đối với đặc điểm cá nhân thì giới  
Ryan năm 1985, động cơ hành động của con  
tính, tính tình chẳng hạn như tính cởi mở, tính  
người được được phân loại thành động cơ bên  
hướng ngoại, sự tận tâm có ảnh hưởng nhiều  
ngoài, động cơ bên trong, và không động cơ,  
đối với quyết định tham gia nghiên cứu của sinh  
trong đó động cơ bên ngoài và động cơ bên  
viên. Bên cạnh đó, theo Salgueira cùng cộng  
trong là những loại động cơ mang tính quyết  
sự thì, những sinh viên có điểm trung bình học  
định (Ryan, R. M & Deci, E. L., 2000).  
càng cao thì khả năng tham gia nghiên cứu càng  
Theo lý thuyết, động cơ bên ngoài (extrinsic  
nhiều. Khám phá này của các tác giả là nền tảng  
motivation) là động cơ thúc đẩy sinh viên tiến  
lý luận cho nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng  
hành các hoạt động mà những hoạt động đó sẽ  
đến sự tham gia NCKH của sinh viên sau này.  
mang lại kết quả cho sinh viên như thành tích,  
Đặc điểm cá nhân còn được đề cập trong nghiên  
được khen thưởng,… Ngược lại, động cơ bên  
cứu của Harsh, Maltese và Tai (2012). Theo các  
15  
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
tác giả, có sự chênh lệch trong giới tính của từng được đề cầp trong những nghiên cứu của  
sinh viên khi tham gia NCKH. Nguyên nhân Huss, Randall, Patry, Davis, & Hansen (2002)  
của sự chênh lệch này là do hiệu quả cá nhân và Kierniesky (2005).  
(self- efficacy), đam mê (interest), thực hành  
nghiên cứu đích thực (the practice of authentic  
research) của nam và nữ là khác nhau.  
Nhận thức được tầm quan trọng của  
NCKH trong hoạt động giảng dạy và học tập,  
Winkelmann cùng cộng sự (2014) đã đề xuất  
thiết kế lại chương trình học nhằm thu hút hơn  
nữa sinh viên NCKH. Theo các tác giả, để thu  
hút sinh viên NCKH thì chương trình học cần  
tập trung vào nâng cao thái độ, hiệu quả cá nhân  
và kỹ năng của sinh viên. Bên cạnh đó, trường  
học cần tạo môi trường thực hành nghiên cứu  
đích thực để đem lại sự tự tin cho sinh viên  
trong thực hiện nghiên cứu.  
Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến hoạt  
động NCKH sinh viên tại Đại học Duy Tân  
Theo nghiên cứu của Kim Ngọc và Hoàng  
Nguyên về các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt  
động NCKH của sinh viên tại Đại học Duy Tân  
năm 2015, có 04 nhân tố tác động đến việc sinh  
viên tham gia vào hoạt động NCKH, bao gồm:  
Khả năng và định hướng nghiên cứu của sinh  
viên, Môi trường nghiên cứu, Sự quan tâm của  
khoa, Sự quan tâm và khuyến khích của trường.  
Kết quả hồi quy của nghiên cứu cho thấy, khả  
năng và định hướng nghiên cứu của sinh viên  
có tác động nhiều nhất lên việc tham gia hoạt  
động nghiên cứu với hệ số beta đạt 0.84, những  
nhân tố còn lại lần lượt là sự quan tâm khuyến  
khích của trường (0.76), sự quan tâm của khoa  
(0.67) và môi trường nghiên cứu (0.51). Kết  
quả của mô hình nghiên cứu này được nhóm tác  
giả sử dụng trong mô hình nghiên cứu đề xuất.  
Từ tổng quan các lý thuyết và nghiên cứu  
trước, nhóm tác giả nhận thấy các nhân tố ảnh  
hưởng đến hoạt động NCKH của sinh viên xoay  
quanh năng lực của sinh viên, động cơ nghiên  
cứu, môi trường nghiên cứu, và sự quan tâm  
khuyến khích của trường.  
2.2. Mô hình nghiên cứu đề xuất  
Sự quan tâm khuyến khích của nhà  
trường: là các chính sách, cơ chế đãi ngộ  
của nhà trường nhằm khuyến khích khả năng  
NCKH trong sinh viên, thu hút sinh viên đến  
với công tác nghiên cứu. Càng có chính sách,  
cơ chế đã ngộ hấp dẫn, thỏa đáng sẽ càng thu  
hút sự quan tâm và tham gia của sinh viên đối  
với hoạt động NCKH. Vì vậy, nhóm tác giả đưa  
ra giả thuyết như sau:  
Các nghiên cứu khác  
Khi thực hiện tổng quan các yếu tố ảnh  
hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên,  
Sadler và McKinney (2010) tổng kết rằng  
nguyện vọng nghề nghiệp (career aspirations),  
sự tự tin (confidence), bản chất của khoa học  
(nature of science), phát triển trí tuệ (intellectual  
development), kiến thức (content knowledge),  
kỹ năng (skills), và kinh nghiệm nghiên cứu  
đích thực (authentic research experiences)  
quyết định sự tham gia nghiên cứu của sinh  
viên. Những nhân tố này trước đây cũng đã  
H1: Có mối quan hệ cùng chiều giữa sự  
quan tâm khuyến khích của nhà trường và sự  
tham gia NCKH của sinh viên.  
Môi trường nghiên cứu: Môi trường  
nghiên cứu theo nghĩa rộng bao gồm nhiều yếu  
tố như chính sách Nhà nước và các quy định  
pháp luật đối với hoạt động NCKH; Sự phát  
triển của xã hội, nguồn vốn xã hội và nguồn  
16  
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
lực tài chính; Hạ tầng kỹ thuật như phòng thí lực nghiên cứu, theo A. Šeberová, đó là một hệ  
nghiệm hay thư viện; Các cơ chế bảo đảm chất thống mở và không ngừng phát triển, bao gồm  
lượng, kiểm định và thực hiện trách nhiệm giải các kiến thức tuyên bố và kiến thức quy trình  
trình; Các thiết chế tài trợ nghiên cứu và hợp trong lĩnh vực nghiên cứu, các thái độ và sự sẵn  
tác... (Altbach và Salmi, 2013 xem trong Phạm sàng của cá nhân cho phép thực hiện một nghiên  
Thị Ly, 2014). Hiểu theo nghĩa hẹp, môi trường cứu trong khuôn khổ hoạt động nghề nghiệp  
nghiên cứu là bầu không khí của những mối của họ (2008, tr.61). Nói một cách tổng quát,  
quan hệ trong các tổ chức nghiên cứu, trong cũng như mọi năng lực khác, năng lực NCKH  
đó các hoạt động NCKH được thực hiện, bao bao gồm 3 thành tố chủ yếu: kiến thức, kỹ năng  
gồm sự hợp tác, các mối quan hệ và liên kết với và thái độ. Khi năng lực càng cao thì khả năng  
đồng nghiệp, cơ chế bình duyệt, sự lãnh đạo về tham gia NCKH càng lớn. Vì vậy, nhóm tác giả  
chuyên môn học thuật của người đứng đầu, sự đưa ra giả thuyết như sau:  
hỗ trợ của người hướng dẫn và mức độ tự chủ  
H3: Có mối quan hệ cùng chiều giữa năng  
của người nghiên cứu (Phạm Thị Ly, 2014).  
lực và sự tham gia NCKH của sinh viên.  
Như vậy có thể thấy, có rất nhiều yếu tố  
Động cơ: động cơ là một khái niệm để mô  
thuộc về môi trường nghiên cứu. Môi trường  
tả các yếu tố được các cá nhân nảy sinh, duy trì  
tác động đến sinh viên càng nhiều thì khả  
và điều chỉnh hành vi của mình theo hướng đạt  
năng tham gia NCKH của sinh viên càng tăng  
được mục tiêu. Khi động cơ nghiên cứu càng  
và ngược lại. Vì vậy, nhóm tác giả đưa ra giả  
tăng lên thì càng thúc đẩy sinh viên tham gia  
thuyết như sau:  
NCKH để nhằm đạt được các mục tiêu đã đề  
H2: Có mối quan hệ cùng chiều giữa môi ra và ngược lại sẽ khi động cơ không còn nhiều  
trường nghiên cứu và sự tham gia NCKH của sẽ làm giảm sự thu hút đối với tham gia NCKH  
sinh viên.  
Năng lực của sinh viên:  
của sinh viên. Vì vậy, nhóm tác giả đưa ra giả  
thuyết như sau:  
H4: Có mối quan hệ cùng chiều giữa động  
cơ và sự tham gia NCKH của sinh viên.  
Trong lý luận dạy học nói chung, khái niệm  
“năng lực” có nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy  
nhiên, các định nghĩa này có điểm chung sau  
Ngoài ra, để kiểm định mối quan hệ giữa  
đây: đó là “sự kết hợp của nhiều kiến thức, kỹ đặc điểm của sinh viên với sự tham gia NCKH,  
năng và thái độ phù hợp với một tình huống nào các yếu tố như: chương trình đào tạo, năm  
đó” (Uỷ ban Cộng đồng châu Âu, 2005, tr.3, học, khoa đào tạo cũng được đưa vào mô hình  
xem trong Nguyễn Thành Ái, 2015). Về năng nghiên cứu.  
17  
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
Đặc điểm  
sinh viên  
YU TBÊN NGOÀI  
H1  
Squan tâm khuyến khích  
ca nhà Trường  
H2  
Môi trường nghiên cu  
Tham  
gia hot  
động  
NCKH  
ca SV  
YU TBÊN TRONG SV  
Năng lực ca sinh viên  
H3  
Động cơ  
H4  
Hình 1. Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia NCKH của sinh viên UFM  
3. Phương pháp nghiên cứu  
online bản câu hỏi được thiết kế từ các kết quả  
nghiên cứu trước. Nghiên cứu đo lường sự ảnh  
hưởng của các nhân tố đến sự tham gia NCKH  
của sinh viên.  
3.1. Đối tượng khảo sát  
Để phục vụ cho đề tài, đối tượng thu thập  
dữ liệu là các sinh viên của trường Đại học Tài  
chính – Marketing, bao gồm cả các sinh viên  
đã và đang theo học tại trường. Tập trung chủ  
yếu vào các khoa: Thương mại, Quản trị kinh  
doanh, Tài chính – Ngân hàng, Marketing và  
Kế toán – Kiểm toán.  
Dữ liệu nghiên cứu sau khi khảo sát được  
làm sạch và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.  
Phương pháp nhân tố khám phá (EFA) được sử  
dụng để rút gọn các biến đo lường, sau đó sử  
dụng phương pháp phân tích hồi quy bội để xác  
định mức độ các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham  
gia NCKH của sinh viên.  
3.2. Phương pháp nghiên cứu  
Nghiên cứu được thực hiện thông qua các  
bước sau: (1) Nghiên cứu khám phá dữ liệu  
thứ cấp từ cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu liên  
quan đến yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia  
NCKH của sinh viên, để hình thành thang đo  
cho nghiên cứu sơ bộ. (2) Nhóm tác giả phỏng  
vấn tay đôi 8 sinh viên đã và đang theo học tại  
trường nhằm đảm bảo độ chuẩn xác các nội  
dung phát biểu của thang đo. Sau đó, thang đo  
hiệu chỉnh từ nghiên cứu sơ bộ được làm thang  
đo chính thức. (3) Nghiên cứu chính thức bằng  
phương pháp nghiên cứu định lượng sử dụng  
dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng cách khảo sát  
3.3. Thang đo nghiên cứu  
Thang đo trong nghiên cứu này được xây  
dựng dựa trên cơ sở lý thuyết và các kết quả  
nghiên cứu định tính, đồng thời có chỉnh sửa  
cho phù hợp với các yếu tố ảnh hưởng đến sự  
tham gia NCKH của sinh viên. Các biến quan  
sát được đo bằng thang đo Likert 5 điểm với 1  
là hoàn toàn không đồng ý và 5 là hoàn toàn  
đồng ý. Cụ thể, 4 yếu tố độc lập: Năng lực của  
sinh viên được đo lường bằng 5 biến quan sát,  
Môi trường nghiên cứu được đo lường bằng 5  
biến quan sát, Sự quan tâm khuyến khích của  
nhà trường được đo lường bằng 5 biến quan sát  
18  
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 49, 02/2019  
4.2. Kết quả kiểm định thang đo  
và Động cơ được đo lường bằng 4 biến quan  
sát. Sự tham gia NCKH của sinh viên, là yếu tố  
phụ thuộc, được đo lường bằng 4 biến quan sát.  
Thang đo được đánh giá thông qua các  
phương pháp đánh giá độ tin cậy và phân tích  
nhân tố khám phá. Việc kiểm định thang đo  
thông qua việc sử dụng hệ số tin cậy Cronbach’s  
Alpha để kiểm định mức tương quan giữa các  
biến quan sát. Nếu biến quan sát nào có mức  
tương quan với biến tổng nhỏ hơn 0.3 sẽ bị loại  
(Hair et al., 2009).  
4. Kết quả nghiên cứu  
4.1. Mẫu nghiên cứu  
Theo Tabachnick và Fidell (1996) [10], kích  
cỡ mẫu theo công thức n = 50 + 8 * m (m: số  
biến độc lập).  
Kết quả phân tích Cronbach’s Alpha của  
thang đo Năng lực của sinh viên, Khuyến khích  
của nhà trường, Động cơ và Sự tham gia NCKH  
của sinh viên cho thấy tất cả các thang đo đều  
đạt yêu cầu về hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha,  
được tiếp tục sử dụng trong phân tích mô hình.  
Như vậy mẫu tối thiểu ≥ 50 + 8*19 = 202.  
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đã thu  
về 823 lượt trả lời, trong đó có 74 lượt trả lời  
không hợp lệ và 749 lượt hợp lệ được sử dụng  
để phân tích các bước tiếp theo.  
Số lượng trả lời khảo sát tập trung vào khoa  
Thương mại (31.7%); khoa Marketing (23.1%);  
Quản trị kinh doanh (14.9%) và khoaTài chính –  
Ngân hàng (13.5%). Sinh viên theo học chương  
trình đại trà tham gia trả lời chiếm tới 72%, còn  
sinh viên theo học các chương trình chất lượng  
cao và đặc biệt chiếm 28%. Sinh viên năm thứ  
3, 4 tham gia trả lời chiếm 65.2%, đã tốt nghiệp  
chiếm 24.6%.  
Thang đo Năng lực của sinh viên, tất cả các  
thang đo đều đạt yêu cầu về hệ số Crobach’s  
Alpha. Tuy nhiên tại biến NL2 “Điểm TB học  
(GPA) càng cao thì khả năng thành công NCKH  
của sinh viên càng lớn” có hệ số tương quan  
biến – tổng < 0.3 nên bị loại. Sau khi loại biến  
NL2, hệ số Cronbach’s Alpha tăng lên 0.789  
nên có thể tiếp tục sử dụng các biến còn lại  
trong trong phân tích mô hình.  
Bảng 1. Kết quả Kiểm định Cronbach’s Alpha các thang đo  
Hệ số Cronbach’s Alpha Số biến quan sát  
Thang đo  
Biến bị loại  
NL2  
Lần 1  
0.645  
Lần 2  
0.789  
Lần 1 Lần 2  
Năng lực của sinh viên (NL)  
Môi trường nghiên cứu (MT)  
Khuyến khích của nhà Trường (KK)  
Động cơ (DC)  
5
5
5
4
4
4
5
5
4
4
0.824  
0.839  
0.680  
0.862  
0.824  
0.839  
0.680  
0.862  
Sự tham gia NCKH của sinh viên (TG)  
(Nguồn: Phân tích và xử lý của nhóm tác giả 09/2018)  
19  
pdf 7 trang yennguyen 16/04/2022 3100
Bạn đang xem tài liệu "Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia nghiên cứu khoa học của sinh viên – Nghiên cứu trường hợp Đại học Tài chính - Marketing", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcac_nhan_to_anh_huong_den_su_tham_gia_nghien_cuu_khoa_hoc_cu.pdf