Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam
Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo
và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam
Lại Thị Thanh Bình(*)
Tóm tắt: Trong hai thập niên gần đây, câu chuyện thành công của ngành công nghiệp văn
hóa (CNVH) trên phạm vi toàn cầu đã làm thay đổi đáng kể nhận thức và cách tiếp cận đối
với ngành kinh tế này ở Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một bộ khung lý
thuyết hoàn chỉnh và phù hợp cho các chiến lược phát triển lâu dài của ngành CNVH trong
thời gian tới. Trong đó, việc phát triển theo hướng là CNVH theo nhận thức truyền thống
hay là ngành công nghiệp sáng tạo (CNST), vốn đã được thừa nhận và phát triển tại nhiều
nước trên thế giới, là một vấn đề cần được xem xét thấu đáo nhằm hướng đến một sự thống
nhất trong cách tiếp cận và tìm kiếm một mô hình phát triển phù hợp cho Việt Nam.
Từ khóa: Công nghiệp văn hóa, Công nghiệp sáng tạo, Chính sách văn hóa, Chiến lược
ngành công nghiệp văn hóa
Abstract: In the last two decades, the success story of cultural industry on a global scale
has significantly changed the perception and approach to this economic sector in Vietnam.
However, there’s a dearth of a complete theoretical framework which is suitable for its
long-term development strategies in the future. In particular, whether cultural industry
is interpreted with a traditional mindset or as a creative one which has been broadly
recognized in various countries, is a matter that needs thorough consideration towards a
unified approach in pursuit of an appropriate model for Vietnam.
Keywords: Cultural Industry, Creative Industry, Cultural Policy, Cultural Industry
Strategy
1
I. Khái niệm
năm 1944. Năm 1998, trong báo cáo Văn
hóa, sáng tạo và thị trường, UNESCO lần
đầu tán thành khái niệm CNVH theo nghĩa
đây là một lĩnh vực có nhiều tiềm năng
kinh tế. Từ đó trở đi, CNVH đã trở thành
một trong những trọng tâm thảo luận của
UNESCO và được đưa vào các chính sách
về phát triển kinh tế - xã hội của các quốc
gia và khu vực. Khái niệm CNVH mới đây
được UNESCO đưa ra vào năm 2007, theo
đó CNVH được hiểu là các ngành sản xuất
Công nghiệp văn hóa
Thuật ngữ CNVH được cho là xuất hiện
lần đầu tiên trong tác phẩm Biện chứng của
sự khai sáng (Dialectic of Enlightenment)
của hai triết gia người Đức là Theodor W.
Adorno và Max Horkheimer, xuất bản vào
(*) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam;
Email: laithanhbinhissi@gmail.com
Công nghiệp văn hóa…
39
ra những sản phẩm vật thể và phi vật thể về
Theo quan điểm của UNCTAD (Hội
nghệ thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và
đẩy việc tạo ra của cải và thu nhập thông Phát triển), CNST là các chu kỳ sáng tạo,
qua việc khai thác những giá trị văn hóa sản xuất và phân phối hàng hoá và dịch vụ
và sản xuất những sản phẩm và dịch vụ mà sự sáng tạo và vốn tri thức đóng vai trò
dựa vào tri thức (kể cả những giá trị văn là đầu vào chính; tạo thành một tập hợp
hóa hiện đại và truyền thống). Điểm chung các hoạt động dựa trên tri thức, tập trung
nhất của các ngành công nghiệp văn hóa nhưng không giới hạn ở các lĩnh vực nghệ
là nó sử dụng tính sáng tạo, tri thức văn thuật, có khả năng mang lại nguồn thu từ
hóa và bản quyền trí tuệ để sản xuất ra các các hoạt động thương mại và sở hữu trí
sản phẩm và dịch vụ, cũng như nó mang tuệ, tạo thành một ngành kinh tế năng động
giá trị văn hóa. Cơ cấu ngành CNVH được mới trong thương mại quốc tế. UNCTAD
UNESCO giới hạn ở 11 lĩnh vực gồm: phân loại các ngành CNST thành 4 nhóm
quảng cáo; kiến trúc; giải trí kỹ thuật số; chính: (1) Nhóm ngành di sản được xác
mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ; thiết định gồm hai phân nhóm là các biểu hiện
kế mỹ thuật; phim ảnh và video; in ấn xuất văn hóa truyền thống (các ngành nghệ thuật
bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn; phát thủ công, các lễ hội và các lễ kỷ niệm) và
thanh truyền hình; và phần mềm (mang nội các địa điểm văn hóa (các địa điểm khảo
dung văn hóa) (UNESCO, 2007: 11).
cổ, các bảo tàng, thư viện, triển lãm…); (2)
Khái niệm này của UNESCO được Nhóm ngành nghệ thuật gồm các ngành
coi là phù hợp với tiêu chí và quan điểm nghệ thuật thị giác (hội họa, điêu khắc,
của nhiều quốc gia, đã trở thành cơ sở lý nhiếp ảnh và đồ cổ) và nghệ thuật biểu diễn
luận quan trọng cho các chính phủ và các (âm nhạc, sân khấu, khiêu vũ, nhạc kịch,
nhà nghiên cứu trong quá trình đánh giá xiếc, múa rối…); (3) Nhóm phương tiện
và hoạch định chính sách phát triển ngành truyền thông gồm xuất bản, truyền thông
CNVH.
Công nghiệp sáng tạo
in ấn (sách, báo chí và các ấn phẩm khác)
và nghe nhìn (phim, truyền hình, đài phát
Năm 1994, ý tưởng về một nền kinh thanh và phát sóng khác); (4) Nhóm sáng
tế sáng tạo hoặc các ngành công nghiệp tạo thực dụng gồm: thiết kế (nội thất, đồ
sáng tạo (creative industries) lần đầu tiên họa, thời trang, đồ trang sức, đồ chơi), các
xuất hiện ở Australia, về cơ bản vẫn dựa phương tiện mới (kiến trúc, quảng cáo, văn
trên khung thống kê dành cho CNVH, hóa và giải trí, nghiên cứu và phát triển,
nhưng nhấn mạnh đến các yếu tố sáng tạo sáng tạo kỹ thuật số và các dịch vụ sáng tạo
trong quá trình sản xuất ra các sản phẩm liên quan) (UNTAD, 2010: 6).
văn hóa. Theo đó, việc thương mại hóa các
Định nghĩa của UNTAD đã làm rõ
sản phẩm mang tính ý tưởng, có liên quan bản chất của ngành CNST là một quá trình
đến văn hóa và nghệ thuật, là tiền đề cho thống nhất của sản xuất, phân phối và tiêu
sự hình thành của ngành CNST. Khái niệm dùng, là tổ hợp lớn của hai quá trình vận
này nhanh chóng được thừa nhận, ủng hộ hành căn bản: quá trình hình thành yếu tố
và được đưa vào chiến lược phát triển kinh sáng tạo (đầu vào) và quá trình sản xuất,
tế của nhiều nước, dần thay thế cho quan phân phối và tiêu dùng sản phẩm sáng tạo
niệm CNVH trước đó.
(đầu ra). Đây được xem như nền tảng để
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2019
40
các quốc gia dựa vào đó đưa ra các tiêu chí tâm của CNVH hiện nay. Đây có thể coi là
xếp và phân loại các ngành thuộc CNST. một dạng “CNST” kiểu Hàn Quốc và Nhật
II. Công nghiệp văn hóa hay công nghiệp Bản chứ không phải rập khuôn theo kiểu
sáng tạo “CNST” theo cách hiểu của Anh (Phạm
Xuất phát ban đầu từ quan điểm về Hồng Thái và cộng sự, 2017: 41).
ngành CNVH, đến nay, nhiều nước trên thế Tại Đài Loan, thuật ngữ “CNVH” lần
giới đã có những thay đổi mang tính chiến đầu tiên được thừa nhận chính thức trong
lược trong phát triển ngành này, tùy thuộc chính sách phát triển quốc gia Đài Loan
vào những đặc trưng, thế mạnh của riêng năm 1995, đến năm 2002, ngành công
mình cũng như xu thế phát triển chung của nghiệp này được định danh lại là Công
thế giới.
nghiệp văn hóa và sáng tạo (Creative and
Tại Anh, năm 1997, khái niệm CNST cultural industries). Khái niệm này được sử
lần đầu được đề cập đến trong chiến lược dụng chính thức và phổ biến ở Đài Loan từ
phát triển đất nước nhằm thay thế cho quan đó đến nay. CNVH và sáng tạo được Đài
niệm truyền thống về CNVH trước đó, Loan định nghĩa là ngành được hình thành
nhằm vực dậy nền kinh tế Anh và phù hợp và hoạt động từ việc tích luỹ sáng tạo hoặc
với những điều kiện quốc tế mới. Chính văn hóa, thông qua sở hữu trí tuệ có tiềm
phủ Anh định nghĩa CNST là những hoạt năng tạo ra của cải và cơ hội việc làm cũng
động bắt nguồn từ sự sáng tạo, kỹ năng và như thúc đẩy tố chất tinh thần của toàn
tài năng cá nhân, có khả năng tạo ra của dân, nâng cao môi trường sống của người
cải và việc làm thông qua việc tạo ra và dân (Theo: Trần Thị Thủy, 2019: 62). Định
khai thác sở hữu trí tuệ. Chính phủ Anh xác nghĩa này về cơ bản khá giống với quan
định cơ cấu ngành CNST gồm 11 lĩnh vực: điểm CNST của Anh, đều nhấn mạnh yếu
quảng cáo; kiến trúc; thị trường nghệ thuật tố sở hữu trí tuệ, tạo ra giá trị vật chất và
và đồ cổ; thủ công; thiết kế; thời trang; giải quyết vấn đề việc làm cho người dân.
phim, video và nhiếp ảnh; âm nhạc, nghệ Chính phủ Đài Loan xác định CNVH và
thuật thị giác và nghệ thuật biểu diễn; xuất sáng tạo gồm 15 ngành nằm trong 4 nhóm:
bản; phần mềm, các trò chơi máy tính và (1) Nhóm các ngành công nghiệp nghệ
xuất bản điện tử; truyền hình và phát thanh thuật : Nghệ thuật thị giác; Âm nhạc và
(Dẫn theo: Phạm Bích Huyền, Đặng Hoài Nghệ thuật biểu diễn; Ứng dụng di sản văn
Thu, 2014: 16).
hóa và các cơ sở triển lãm, biểu diễn; Nghệ
Nhật Bản và Hàn Quốc, hai quốc gia thuật thủ công. (2) Nhóm các ngành công
có ngành CNVH phát triển mạnh mẽ trong nghiệp truyền thông: Điện ảnh; Phát thanh
vài thập niên qua, gần đây trong chiến lược và truyền hình; Xuất bản; Quảng cáo; Công
phát triển ngành CNVH đã tập trung chủ nghiệp nội dung văn hóa và âm nhạc đại
yếu vào lĩnh vực “công nghiệp nội dung chúng. (3) Nhóm các ngành công nghiệp
- content industries” tức là quá trình sản thiết kế: Thiết kế kiến trúc; Thiết kế hình
xuất, lưu thông các sản phẩm văn hóa dựa truyền thông thị giác; Xây dựng thương
vào những thành tựu của công nghệ thông hiệu và thiết kế thời trang; Thiết kế sản
tin và kỹ thuật số. Khái niệm “Công nghiệp phẩm; Cuộc sống sáng tạo. (4) Nhóm công
nội dung” không phải để thay thế khái niệm nghiệp nội dung số: Công nghiệp nội dung
“Công nghiệp văn hóa” mà là thể hiện trọng số (Phạm Hồng Thái và cộng sự, 2017: 36).
Công nghiệp văn hóa…
41
Trung Quốc đã sớm phân tách hoạt giá trị kinh tế do ngành này tạo ra, trong
động văn hóa thành “sự nghiệp văn hóa” và đó nhấn mạnh vào sự sáng tạo cá nhân, sự
“công nghiệp văn hóa” (hay còn gọi là sản đổi mới, những kỹ xảo, kỹ năng trong việc
nghiệp văn hóa). Theo đó, “sự nghiệp văn khám phá tính đa dạng của tri thức. Còn
hóa” là những hoạt động văn hóa mang tính nếu ý tưởng về CNVH được thừa nhận, thì
công ích, đảm bảo quyền hưởng thụ văn đặc tính văn hóa và các yếu tố truyền thống
hóa của người dân, gắn với hệ thống dịch lại được nhấn mạnh hơn đặc tính sáng tạo.
vụ văn hóa công cộng, còn “sản nghiệp văn Đây là một thách thức lớn đặt ra đối với
hóa” là những hoạt động mang tính kinh các nhà quản lý và hoạch định chính sách là
doanh gắn với các ngành nghề chịu sự chi làm thế nào để có một chính sách phát triển
phối của thị trường văn hóa. Cơ cấu của một ngành công nghiệp có thể cân bằng
sản nghiệp văn hóa ở Trung Quốc được thể giữa hiệu quả kinh tế và giá trị văn hóa.
hiện như sau: (1) Nhóm ngành nghề c ốt lõi
Nghiên cứu của Vũ Đức Thanh, Hoàng
bao gồm các ngành như: thông tin, xuất Khắc Lịch (2016) dẫn quan điểm của hai
bản, điện ảnh, truyền hình, biểu diễn nghệ nhà nghiên cứu S. Galloway và S. Dunlop
thuật, văn hóa quần chúng...; (2) Nhóm cho rằng, không thể nhầm lẫn, đánh đồng hai
ngành nghề ngoại vi bao gồm các ngành khái niệm “văn hóa” và “sáng tạo”, các sản
nghề mới nổi như: mạng Internet, giải trí, phẩm văn hóa của ngành CNVH cần phải
du lịch văn hóa, quảng cáo, triển lãm...; (3) đặt mục tiêu truyền tải giá trị văn hóa, biểu
Nhóm ngành nghề liên quan bao gồm các trưng sâu sắc lên hàng đầu, trong khi các sản
ngành nghề sản xuất và cung cấp thiết bị phẩm CNST lại thường hướng đến mục tiêu
văn hóa, các ngành dịch vụ văn hóa (Chử chính là giá trị kinh tế và lợi nhuận. Các tác
Bích Thu, 2015).
giả cũng dẫn quan điểm của D. Thorby cho
Có thể thấy, Trung Quốc vẫn có quan rằng, việc gộp chung, hoặc sử dụng hai khái
điểm dè dặt hơn trong chính sách phát niệm này một cách tương đương có thể dẫn
triển ngành CNVH, thể hiện qua việc phân đến những sai sót trong hoạch định, thực thi
chia nhóm ngành nghề cốt lõi được xác những chính sách phát triển CNVH.
định thuộc sở hữu nhà nước, do Nhà nước
Việc không thống nhất về khái niệm và
quản lý và nhóm ngành nghề ngoại vi và khung phân loại đã gây nhiều bất cập cho
ngành nghề liên quan thuộc các chủ sở hữu việc thống kê các dữ liệu định lượng, khiến
đa dạng hơn. Điều này cũng xuất phát từ cho các con số thu thập được ở mỗi nước
sự phát triển mang nhiều nét đặc thù của mỗi khác, không phản ánh đúng thực trạng
CNVH Trung Quốc trong bối cảnh đời của ngành công nghiệp này. Điều này đã gây
sống tư tưởng - văn hóa là lĩnh vực được nhiều trở ngại cho việc tư vấn chính sách
coi là còn nhiều nhạy cảm.
của các tổ chức quốc tế cũng như việc hoạch
Căn cứ vào cách tiếp cận của các quốc định chính sách của các chính phủ. Năm
gia nêu trêu, có thể thấy CNVH là một khái 2008, UNCTAD đã đi tiên phong trong việc
niệm mở, và được nhìn nhận ở mỗi nước đo lường thương mại văn hóa trên toàn cầu,
mỗi khác tùy vào đặc điểm và bối cảnh từ góc độ ngành kinh tế sáng tạo. Mặc dù đã
phát triển của từng nước. Có vẻ như một thiết lập được một tiêu chuẩn đánh giá nền
chiến lược chính sách tiếp cận theo hướng kinh tế sáng tạo ở các nước, và mặc dù việc
là ngành CNST sẽ tập trung chủ yếu vào thu thập dữ liệu đã được thực hiện trên toàn
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2019
42
thế giới, nhưng sự thiếu thống nhất trong
Trong Chiến lược phát triển các ngành
việc xác định cơ cấu lĩnh vực CNVH hay CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
CNST của các quốc gia cũng khiến cho việc đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt
thống kê có nhiều bất cập.
ngày 08/9/2016, CNVH được định nghĩa
Năm 2009, UNESCO đã đưa ra Khung là: “các ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ
thống kê văn hóa (FCS) - một công cụ để văn hóa bằng phương thức sản xuất công
tổ chức sắp xếp số liệu thống kê ở cả cấp nghiệp; phát triển dựa trên sự sáng tạo,
quốc gia và quốc tế, dựa trên một nền tảng khoa học, công nghệ và bản quyền trí tuệ;
khái niệm và sự hiểu biết văn hóa chung, khai thác tối đa yếu tố kinh tế của các giá
cho phép đo lường một phạm vi rộng lớn trị văn hóa”. Cơ cấu của CNVH Việt Nam
các biểu đạt văn hóa không phân biệt thể chế gồm có: (1) Quảng cáo; (2) Kiến trúc; (3)
kinh tế và xã hội tạo ra chúng. Thông qua Phần mềm và trò chơi giải trí; (4) Thủ công
các định nghĩa chuẩn, nó cho phép tạo ra dữ mỹ nghệ; (5) Thiết kế; (6) Điện ảnh; (7)
liệu so sánh mang tính quốc tế (UNESCO, Xuất bản; (8) Thời trang; (9) Nghệ thuật
2009). UNESCO cũng nhấn mạnh khung biểu diễn; (10) Mỹ thuật; (11) Nhiếp ảnh
hành động mới sẽ giải quyết những tranh và Triển lãm; (12) Truyền hình và phát
luận về vấn đề “văn hóa” và “sáng tạo” bằng thanh; (13) Du lịch văn hóa (Thủ tướng
cách đặt một số ngành sáng tạo đặc thù như Chính phủ, 2016). Cơ cấu ngành CNVH
thiết kế và quảng cáo thành một lĩnh vực văn này đã bổ sung nhiều nhóm ngành thuộc
hóa riêng biệt. Ngoài ra, khung văn hóa mới lĩnh vực “sáng tạo” so với những đề xuất
này cũng hướng tới tính linh hoạt và không trước đây.
bài trừ, nhưng vẫn thúc đẩy tính so sánh
Thuật ngữ CNST chưa được thừa nhận
tương quan. Khung văn hóa cũng giúp các trong các văn bản chính thức ở Việt Nam,
quốc gia có thể tự xây dựng khung thống kê nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã
văn hóa của riêng mình (UNESCO, 2009).
tiếp cận vấn đề này từ góc độ ngành CNST
Mặc dù vậy, khung phân loại này của (với nhiều nghiên cứu cả định tính và định
UNESCO vẫn được cho là cần phải có lượng, khẳng định cái gọi là “ngành CNST”
những thay đổi để phù hợp với xu hướng ở Việt Nam là một ngành kinh tế tiềm năng
phát triển mới, không chỉ đơn thuần mang nhất của đất nước hiện nay).
lại sự thuận tiện cho việc thống kê dữ liệu,
Nhìn chung, việc tiếp cận một mô
mà còn xuất phát từ sự hiểu biết sâu sắc hình theo hướng ngành CNST đã trở thành
hơn về những thông tin cần thiết để xây xu hướng lựa chọn của nhiều quốc gia
dựng nên những tiêu chí đánh giá hiệu quả trên thế giới. Nghiên cứu của Phan Thế
ngành CNVH (CNST) ở các quốc gia.
III. Sự lựa chọn mô hình cho Việt Nam
Công (2015) đã chỉ ra, phát triển kinh tế
sáng tạo sẽ là một giải pháp hợp lý đối
Ở Việt Nam, năm 2014, lần đầu tiên với kinh tế toàn cầu hiện nay. Kinh tế sáng
cụm từ CNVH mới xuất hiện trong văn tạo có thể góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kiện của Đảng Cộng sản, đó là Nghị quyết và thịnh vượng, đặc biệt đối với các nước
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI. Theo đó, đang phát triển đang tìm cách đa dạng nền
phát triển CNVH được Nghị quyết đặt ra kinh tế. Nhìn ra thế giới, mức độ đóng
là một trong năm mục tiêu phát triển trong góp của ngành CNST đã chiếm một tỷ lệ
giai đoạn mới của đất nước.
lớn trong GDP của nhiều nước và có xu
Công nghiệp văn hóa…
43
hướng tăng đều hằng năm. Chẳng hạn như 2008 thông qua sự kiện “Thành phố sáng
ở Mỹ là hơn 11%; Australia là 10%; Hàn tạo”, với mong muốn truyền tải những
Quốc: 8,67%; Trung Quốc; 6,41%; Nga: thông điệp mới và những kinh nghiệm về
6,06%;... Đã đến lúc nền kinh tế Việt Nam sự phát triển ngành công nghiệp này ở Việt
cần tiếp cận mạnh mẽ hơn và toàn diện Nam. Từ đó đến nay, Hội đồng Anh đã tổ
hơn những luồng ý tưởng hàng đầu về xu chức nhiều hội thảo nhằm nâng cao nhận
thế đổi mới, sáng tạo trên thế giới, nhằm thức về ngành CNST, tiến hành nhiều dự
tìm kiếm một vị trí xứng đáng trong nền án hỗ trợ cho các hoạt động của các tổ chức
kinh tế sáng tạo toàn cầu.
và cá nhân thực hành trong lĩnh vực nghệ
Nhà nghiên cứu NguyễnVăn Hy (2013) thuật, văn hóa và sáng tạo. Chẳng hạn như
từng đặt vấn đề: Phải nghiên cứu xác định việc hợp tác với Viện Văn hóa Nghệ thuật
rõ ràng, cụ thể mô hình của cái gọi là CNVH Quốc gia Việt Nam thực hiện Dự án Không
mà nước ta cần phát triển trong thời gian gian văn hóa sáng tạo của Việt Nam. Dự
tới. Sẽ phát triển theo mô hình CNST ởAnh án đã đưa ra được một khuôn khổ lý thuyết
và một số nước trên thế giới đang làm, hay nhằm nâng cao nhận thức ở Việt Nam về
theo một mô hình khác do chính Việt Nam cái gọi là không gian văn hóa sáng tạo -
vạch ra cho phù hợp với tình hình thực tế một trong những yếu tố quan trọng thúc
của đất nước? Thêm nữa, có nên phát triển đẩy sự phát triển của ngành CNST ở Việt
ngành CNVH với tính cách như một ngành Nam. Tháng 11/2018, Hội thảo “Vai trò
văn hóa riêng, độc lập song song cùng với của các không gian văn hóa sáng tạo trong
“các ngành sự nghiệp vốn có lâu nay của nền kinh tế sáng tạo Việt Nam” nằm trong
ngành văn hóa” hay không? (Nguyễn Văn khuôn khổ dự án này đã được tổ chức nhằm
Hy, 2013).
giới thiệu mạng lưới các Không gian sáng
Căn cứ vào tình hình thế giới và bối cảnh tạo Văn hóa tại Việt Nam và tạo ra những
Việt Nam, nghiên cứu của Lê Quốc Vinh đã đối thoại xoay quanh vai trò của mạng lưới
đề xuất một Chiến lược phát triển CNVH ở này trong việc phát triển nền kinh tế sáng
Việt Nam, trên cơ sở bổ sung và mở rộng tạo của Việt Nam.
phạm vi thành Chiến lược phát triển CNST,
Hội đồng Anh cũng là cơ quan hỗ trợ
tập trung hơn nữa vào các giải pháp phát tư vấn chính cho Chiến lược phát triển các
triển giá trị gia tăng và thúc đẩy kinh doanh, ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020,
thương mại đối với các sản phẩm sáng tạo tầm nhìn đến năm 2030. Bản tham vấn về
và văn hóa. Ngoài ra, cần phải xác định rõ chiến lược mà họ đưa ra được thúc đẩy bởi
một cơ quan quản lý nhà nước về CNST. Và một tầm nhìn duy nhất: để Việt Nam trở
cơ quan này, nếu đặt trong Bộ Văn hóa, Thể thành một trung tâm lớn và nước dẫn đầu
thao và Du lịch, thì cũng cần bổ sung thêm thị trường CNVH ở Đông Nam Á vào năm
các cơ quan có khả năng bao quát các ngành 2020, là một nền kinh tế sáng tạo được thừa
hiện không nằm trong phạm vi quản lý của nhận trên toàn cầu vào năm 2030 (British
Bộ, đồng thời cấu trúc lại nhiệm vụ để đặt Council, 2018).
vấn đề quản lý lấy kinh tế làm trung tâm (Lê
Quốc Vinh, 2015).
Mới đây, Hội đồng Anh tại Việt Nam
đã hợp tác cùng Đại học Leicester, Vương
Trên thực tế, khái niệm CNST đã được quốc Anh và Hanoi Grapevine triển khai
Hội đồng Anh đưa vào Việt Nam từ năm công tác nghiên cứu và thu thập dữ liệu
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.2019
44
phục vụ việc thiết lập Danh bạ các ngành 2. Phan Thế Công (2015), “Phát triển
CNST của Việt Nam. Danh bạ sẽ được tạo
ra dưới dạng một cổng thông tin điện tử,
chia sẻ những thông tin cơ bản về các công
ty, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức hoạt
các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”,
Tạp chí Khoa học và Xã hội Việt Nam,
số 1 (86).
động trong mười bốn lĩnh vực thuộc các 3. Phạm Bích Huyền, Đặng Hoài Thu
ngành CNST được lựa chọn dựa theo định
nghĩa của Vương quốc Anh và bối cảnh
Việt Nam. Ngoài ra, cổng thông tin cũng
(2014), Giáo trình Các ngành công
nghiệp văn hóa, Nxb. Lao động,
Hà Nội.
có những đánh giá về mức độ đóng góp vào 4. Nguyễn Văn Hy (2013), “Tìm hiểu
nền kinh tế và tiềm năng tăng trưởng của
ngành này ở Việt Nam.
thêm về công nghiệp sáng tạo và công
nghiệp văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu
Văn hoá, số 3.
Một động thái mới nhất của Việt Nam
nhằm hội nhập vào nền kinh tế sáng tạo 5. Phạm Hồng Thái và cộng sự (2017), Sự
toàn cầu là việc tháng 6/2019 thành phố Hà
Nội đã nộp hồ sơ ứng cử vào Mạng lưới các
thành phố sáng tạo của UNESCO về lĩnh
vực thiết kế. Và ngày 30/10/2019 vừa qua,
phát triển của công nghiệp văn hóa ở
các nước Đông Bắc Á và tác động đến
Việt Nam, Đề tài V1.2-2012.12, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Hà Nội đã chính thức được UNESCO ghi 6. Vũ Đức Thanh, Hoàng Khắc Lịch
danh vào Mạng lưới này.
Kết luận
(2016), “Công nghiệp văn hóa”, Tạp
chí Lý luận chính trị, số 7.
CNVH hay CNST không hẳn chỉ là vấn 7. Chử Bích Thu (2015), “Chính sách phát
đề tên gọi, mà là hàm ý mục tiêu chính sách
phát triển ngành công nghiệp này của mỗi
quốc gia. Trong bối cảnh mà ngành CNVH
triển công nghiệp văn hóa của Trung
Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung
Quốc, số 10 (170).
ở Việt Nam mới được định hình, vẫn đang 8. Trần Thị Thủy (2019), “Ngành công
dò dẫm những bước đi đầu tiên, thì cách
tiếp cận như hiện nay có thể là phù hợp.
Nhưng trong tương lai sẽ cần phải hướng
nghiệp văn hóa và sáng tạo Đài Loan:
khái niệm và vai trò”, Tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc, số 1 (209).
đến một cách tiếp cận nhất quán và rõ ràng 9. UNESCO (2007), Statistics on
hơn nhằm xây dựng được một mô hình
không chỉ phù hợp với bối cảnh Việt Nam,
mà còn phải bắt kịp được với xu thế phát
triển chung của thế giới
cultural industries: Framework for the
Elaboration of National Data Capacity
Building Projects, http://portal.unesco.
org/culture/en/ev
10. UNESCO (2009), Khung thống kê văn
org/new/fileadmin/MULTIMEDIA/
FIELD/Hanoi/images/Final%20
FCS%2Vietnamese.pdf
Tài liệu tham khảo
1. British Council (2018), Tài liệu hội
thảo: Vai trò của các Không gian Văn
hóa Sáng tạo trong nền Kinh tế Sáng tạo
vn/sites/default/files/tai-lieu-hoi-thao-
khong-gian-van-hoa-sang-tao-2018.pdf
report 2010, https://unctad.org/en/
Docs/ditctab20103_en.pdf
Bạn đang xem tài liệu "Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- cong_nghiep_van_hoa_cong_nghiep_sang_tao_va_su_lua_chon_mo_h.pdf