Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trong chẩn đoán bệnh: Sản phẩm hay dịch vụ?

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ĐƯỢC ỨNG DỤNG TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH:  
SẢN PHẨM HAY DỊCH VỤ?  
Bùi Nguyễn Trà My*  
Nguyễn Hoàng Linh Đan**  
*, ** Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.  
Thông tin bài viết:  
Tóm tắt:  
Bài viết phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và lý thuyết về  
trí tuệ nhân tạo (AI); đưa ra khái niệm về “chẩn đoán bệnh”; làm rõ bản  
chất, chức năng của AI được ứng dụng trong chẩn đoán bệnh; đưa ra các  
tiêu chí để xác định một AI chẩn đoán bệnh là “sản phẩm” hay “dịch vụ”  
và nêu một số quy định về “trách nhiệm sản phẩm”, “trách nhiệm dịch  
vụ”; và phân tích việc áp dụng “IBM Watson for Oncology” trong chẩn  
đoán ung thư tại Việt Nam, xác định bản chất loại AI này nhằm tạo điều  
kiện cho việc quy trách nhiệm pháp lý khi có thiệt hại phát sinh trong  
tương lai.  
Từ khóa: Trí tuệ nhân tạo, ứng  
dụng trí tuệ nhân tạo trong chẩn  
đoán bệnh.  
Lịch sử bài viết:  
Nhận bài  
Biên tập  
Duyệt bài  
: 07/11/2020  
: 20/11/2020  
: 25/11/2020  
Article Infomation:  
Abstract:  
This article provides an analysis of the legal regulations on and the  
theories of artificial intelligence (AI), thereby to introduce the concept  
of “diagnosis”; to clarify the nature and function of AI applied in  
diagnosis; to introduce the criteria to determine whether an AI applied  
in diagnosis is a “product” or a “service” and also discuss a number  
of legal provisions on “product liability”, “service liability”; and  
to analyze the application of IBM Watson for Oncology in cancer  
diagnosis in Vietnam, thereby to identify the nature of this AI to  
facilitate the determination of liability for damagearising in the future.  
K e y w o r d s : A r t i f i c i a l  
intelligence, application of AI in  
diagnosis.  
Article History:  
Received  
Edited  
: 07 Nov. 2020  
: 20 Nov. 2020  
: 25 Nov. 2020  
Approved  
Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence -  
“AI”) với các chức năng vượt trội có thể thay  
thế cho con người thực hiện nhiều hoạt động  
mang tính kỹ thuật, chuyên môn cao đã và  
đang tác động lớn đến mọi lĩnh vực trong đời  
sống xã hội. Đáng chú ý là gần một thập kỷ  
trở lại đây, AI đã bắt đầu được sử dụng rộng  
rãi trong lĩnh vực y tế trên thế giới, đặc biệt là  
trong quy trình chẩn đoán bệnh nhằm hỗ trợ  
các bác sĩ gia tăng tính chính xác trong chẩn  
đoán tình trạng bệnh cho bệnh nhân, đồng  
thời đưa ra các phác đồ điều trị phù hợp với  
lịch sử bệnh lý của bệnh nhân đó. Tuy nhiên,  
giả sử AI đưa ra một chẩn đoán sai lầm, gián  
tiếp gây thiệt hại về sức khỏe và tính mạng  
của bệnh nhân thì chủ thể nào sẽ phải chịu  
trách nhiệm: nhà sản xuất AI, lập trình viên,  
người sử dụng (bác sĩ, bệnh viện) hay chính  
bản thân AI? Việc định dạng AI dưới góc độ  
luật học vẫn là vấn đề còn nhiều tranh cãi.  
Muốn xác định được trách nhiệm pháp lý khi  
có sai sót xảy ra đối với việc ứng dụng AI  
14  
Số 02(426) - T1/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
trong chẩn đoán bệnh, trước hết ta cần phải  
hiểu rõ bản chất của chúng, có thể được xem  
là một sản phẩm (“product”) hay là dịch vụ  
(“service”)?  
Các văn bản pháp luật Việt Nam hiện  
nay chỉ đề cập đến khái niệm “khám bệnh”.  
Cụ thể, khoản 1 Điều 2 Luật Khám bệnh,  
chữa bệnh năm 2009 quy định: “Khám bệnh  
là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm  
khám thực thể, khi cần thiết thì chỉ định làm  
xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng  
để chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều  
trị phù hợp đã được công nhận”. Nói cách  
khác, trong pháp luật Việt Nam, khái niệm  
“khám bệnh” được hiểu ngoài việc đưa ra kết  
luận bệnh, còn phải đưa ra phương pháp điều  
trị phù hợp. Cách hiểu này phù hợp với định  
nghĩa “chẩn đoán bệnh” trong tài liệu quốc tế.  
1. Khái quát về chẩn đoán bệnh  
Nhằm xác định giới hạn công việc mà  
một AI chẩn đoán bệnh phải thực hiện, trước  
hết ta cần phải làm rõ khái niệm “chẩn đoán  
bệnh”. Dưới góc độ y học, theo Từ điển của  
Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ, “chẩn đoán  
bệnh là quá trình xác định một căn bệnh, tình  
trạng hoặc chấn thương từ các dấu hiệu và  
triệu chứng. Bệnh sử, kiểm tra sức khỏe và  
các xét nghiệm, chẳng hạn như xét nghiệm  
máu, xét nghiệm bằng hình ảnh và sinh thiết,  
có thể được sử dụng để hỗ trợ chẩn đoán”1.  
Như vậy, “chẩn đoán bệnh” có thể được  
hiểu là việc bác sĩ, thông qua quá trình kiểm  
tra, đánh giá bằng kiến thức chuyên môn và  
thiết bị chuyên dụng, kết hợp với dữ liệu từ  
người bệnh (như triệu chứng hoặc kết quả  
phân tích, đo lường từ máy móc: ảnh chụp  
X-quang, phim siêu âm,…), đưa ra kết luận  
về căn bệnh mà bệnh nhân đó mắc phải.  
Từ những phân tích trên, chúng tôi  
muốn nhấn mạnh rằng, khi nghiên cứu về  
AI chẩn đoán bệnh nghĩa là loại AI này phải  
thực hiện cả hai công việc là kết luận bệnh  
và đưa ra phương pháp điều trị.  
2. Khái quát về trí tuệ nhân tạo  
1.1. Khái niệm trí tuệ nhân tạo  
Cụm từ “trí tuệ nhân tạo” được nhắc  
đến lần đầu tiên vào năm 1955 bởi John  
McCarthy - nhà tiên phong và nhà phát  
minh khoa học máy tính người Mỹ, được  
biết đến như là cha đẻ của AI sau khi đóng  
vai trò quan trọng trong việc xác định lĩnh  
vực dành cho sự phát triển của máy móc  
thông minh3. Sau đó, hàng loạt các định  
nghĩa khác về AI đã ra đời4:  
Dưới góc độ pháp lý, theo Law Insider,  
chẩn đoán bệnh là: (a) việc xác định hoặc  
theo dõi: (i) việc có hay không có bệnh, (ii)  
giai đoạn, sự tiến triển hoặc mức độ nghiêm  
trọng của bệnh hoặc (iii) ảnh hưởng của  
một phương pháp điều trị cụ thể đối với  
bệnh nhân; và/hoặc (b) việc lựa chọn một  
phương pháp điều trị cụ thể cho bệnh nhân2.  
Theo định nghĩa trong Từ điển Oxford,  
trí tuệ nhân tạo có nghĩa là sử dụng công  
1. “Diagnosis: The process of identifying a disease, condition, or injury from its signs and symptoms. A health  
history, physical exam, and tests, such as blood tests, imaging tests, and biopsies, may be used to help make  
def/diagnosis, truy cập ngày 02/11/2020.  
2. “Diagnosis means (a) the determination or monitoring of (i) the presence or absence of a disease, (ii) the  
stage, progression or severity of a disease or (iii) the effect on a disease of a particular treatment; and/or (b)  
the selection of patients for a particular treatment with respect to a disease”, Law Insider, https://www.lawin-  
sider.com/dictionary/diagnosis, truy cập ngày 02/11/2020.  
3. John McCarthy, Marvin Minsky, Nathaniel Rochester, and Claude Shannon, “A Proposal for the Dartmouth  
Summer Research Project on Artificial Intelligence, august 31, 1955”, AI magazine 27, số. 4 (2006), tr.12-12.  
4. Jonas Schuette, Goethe-Universität Frankfurt am Main, A Legal Definition of AI, https://www.researchgate.  
net/publication/335600149, truy cập ngày 02/11/2020.  
Số 02(426) - T1/2021  
15  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
nghệ để tự động hóa các tác vụ “thường  
đòi hỏi trí thông minh của con người”5.  
Năm 2007, Giáo sư John McCarthy - Đại  
học Stanford đưa ra một định nghĩa khá  
nổi tiếng về trí tuệ nhân tạo. Theo đó, AI là  
một lĩnh vực nghiên cứu (khoa học và công  
nghệ) nhằm mang lại sự thông minh cho các  
máy tính (intelligent machines), đặc biệt  
là các chương trình máy tính thông minh  
(intelligent computer programs)6. Bên cạnh  
đó, Erik Lindberg - Giám đốc cấp cao tại  
Công ty Luật Thomson Reuters WestLaw,  
trong bài viết có tên “Định nghĩa về Trí tuệ  
nhân tạo cho các nhà nghiên cứu luật học”  
(The Meaning of Artificial Intelligence for  
Legal Researchers), định nghĩa AI là “sự  
mô phỏng quá trình suy nghĩ của con người  
được máy tính hóa”. Hay nói cách khác, AI  
có nghĩa là dạy máy tính bắt chước hành vi  
và suy nghĩ của con người để tìm ra kết quả  
phù hợp và chính xác nhất7.  
năng lực tính toán yếu (Artificial Narrow  
Intelligence: ANI), Trí tuệ nhân tạo xử lý  
mạnh (Artificial General Intelligence: AGI)  
và Siêu trí tuệ nhân tạo (Artificial Super  
Intelligence: ASI)9.  
Trí tuệ nhân tạo năng lực tính toán  
yếu (ANI) được xem là loại AI đại diện cho  
tất cả các AI hiện có, bao gồm cả AI phức  
tạp và thông minh nhất mà đã được phát  
minh tính đến thời điểm hiện tại như các  
loại AI sử dụng Machine Learning (Học  
máy) và Deep Learning (Học sâu)10. ANI  
dùng để chỉ các hệ thống AI chỉ tập trung  
thực hiện một nhiệm vụ cụ thể một cách tự  
động các chức năng giống như con người.  
Những chiếc máy này có phạm vi năng lực  
rất hạn chế và do đó không thể thực hiện  
các công việc không được lập trình sẵn.  
Hệ thống AI này tương ứng với mức độ  
AI phản ứng và AI có bộ nhớ hạn chế ở  
nhóm thứ hai, chúng chỉ tiếp thu những lý  
luận và nhận thức được con người đưa vào  
trong bộ nhớ và từ đó thực hiện chức năng,  
nhiệm vụ cụ thể.  
Năm 2020, Ủy ban châu Âu (EU  
Commission) ban hành Sách trắng (White  
Paper) về trí tuệ nhân tạo. Trong đó, AI  
được định nghĩa là tập hợp các công nghệ,  
bao gồm dữ liệu, thuật toán và sức mạnh  
tính toán8.  
Về Trí tuệ nhân tạo xử lý mạnh (AGI)  
Siêu trí tuệ nhân tạo (ASI), những AI  
này được mô tả có trí thông minh ngang  
với con người hoặc thậm chí có thể vượt  
xa con người. Do đó, đây hiện chỉ tồn tại  
dưới dạng các lý thuyết trên giấy và chưa  
có loại AI nào, tính đến thời điểm hiện tại,  
2.2. Phân loại trí tuệ nhân tạo  
Nhóm thứ nhất, căn cứ vào mức  
độ nhận thức (mức độ thông minh) của  
AI, bao gồm ba loại AI: Trí tuệ nhân tạo  
5. English Oxford Living Dictionaries, “Artificial Intelligence: The theory and development of computer sys-  
tion/artificial_intelligence [https://perma.cc/WF9V-YM7C], truy cập ngày 02/11/2020.  
6. John McCarthy, Đại học Stanford, What isArtificial Intelligence, http://www-formal.stanford.edu/jmc/wha-  
tisai/node1.html, truy cập ngày 30/10/2020.  
7. Erik Lindberg, Thomson Reuters Westlaw, The Meaning of Artificial Intelligence for Legal Researchers,  
8. European Commission, White Paper on Artificial Intelligence - A European approach to excellence and  
trust, p.2.  
ing.com/the-three-types-of-artificial-intelligence-understanding-ai, truy cập ngày 30/10/2020.  
10. Naveen Joshi,  
7
world/2019/06/19/7-types-of-artificial-intelligence/#7c47fac6233e, truy cập ngày 30/10/2020.  
16  
Số 02(426) - T1/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
đạt được mức độ này. Vì vậy, nhóm tác giả  
xin phép không đề cập sâu hơn vào hai loại  
AI nêu trên.  
dụ Machine Learning (Học máy) và Deep  
Learning (Học sâu). Machine Learning và  
Deep Learning cũng thu thập một lượng lớn  
dữ liệu rồi lưu trữ vào bộ nhớ để hình thành  
một mô hình tham chiếu khi giải quyết vấn  
đề thực tiễn11.  
Nhóm thứ hai, dựa vào các chức năng  
của AI để phân chia, gồm bốn loại: AI phản  
ứng (Reactive Machines), AI có bộ nhớ  
hạn chế (Limited Memory), AI có khả năng  
thấu hiểu (Theory of mind), AI tự nhận thức  
(Self-awareness).  
Hai loại AI kể trên trong nhóm thứ hai  
đã và đang phổ biến rộng rãi trong đời sống  
hàng ngày. Tuy nhiên, đối với hai cấp độ AI  
tiếp theo trong nhóm này, AI có khả năng  
thấu hiểu (Theory of mind) AI tự nhận  
thức (Self-awareness), tương tự với AGI và  
ASI, chúng đều là những AI vượt trội và  
hiện chưa có phát minh nào của con người  
đạt được đến trình độ này.  
AI phản ứng (Reactive Machines) là  
một trong những dạng hệ thống AI lâu đời  
nhất, có khả năng khá hạn chế và không có  
bộ nhớ. Điều này đồng nghĩa với việc loại  
máy này không thể sử dụng kinh nghiệm  
đã thu thập trước đó để giải quyết các vấn  
đề hiện tại; tức là chúng không có chức  
năng “học hỏi”. Những chiếc máy này  
được lập trình dựa trên khả năng phản ứng  
lại các kích thích của con người. Do đó,  
chúng chỉ có thể được sử dụng để phản  
ứng lại một bộ lệnh đầu vào hạn chế và  
không thể hoạt động ngoài các nhiệm vụ  
đơn giản đã được lập trình sẵn. Bất kể về  
mặt thời gian và địa điểm, AI phản ứng  
vẫn sẽ hoạt động theo cách mà người lập  
trình đã viết. Ví dụ tiêu biểu của AI phản  
ứng là Deep Blue, một chương trình cờ  
vua của IBM trong thập niên 90. Deep  
Blue xác định các phần trên bảng cờ vua  
và dự đoán nước đi của họ, từ đó phản ứng  
lại người chơi.  
3. Tiêu chí xác định AI chẩn đoán bệnh  
là sản phẩm, dịch vụ và trách nhiệm sản  
phẩm, trách nhiệm dịch vụ  
3.1. Tiêu chí xác định AI chẩn đoán  
bệnh là sản phẩm và trách nhiệm sản phẩm  
- Tiêu chí xác định  
Trong các văn bản pháp luật và tài liệu  
khoa học, có nhiều quan điểm khác nhau  
về “sản phẩm”. Dưới góc độ thị trường  
(marketing), khái niệm “sản phẩm” được  
hiểu theo nghĩa khá rộng, là thứ “có khả  
năng thỏa mãn nhu cầu mong muốn của  
khách hàng, cống hiến những lợi ích cho họ  
và có thể đưa ra chào bán trên thị trường với  
khả năng thu hút sự chú ý mua sắm và tiêu  
dùng”12. Theo đó, một sản phẩm được cấu  
tạo và hình thành từ cả hai yếu tố: vật chất  
(hàng hóa) và phi vật chất (dịch vụ).  
Loại thứ hai là AI có bộ nhớ hạn chế  
(Limited Memory). Những chiếc máy này  
có chức năng như AI phản ứng thuần túy  
nhưng kết hợp thêm với bộ nhớ, nhờ đó  
chúng có thể học hỏi từ kinh nghiệm thu  
được để đưa ra quyết định. Hầu hết các ứng  
dụng AI ngày nay đều thuộc loại AI này, ví  
Ở Việt Nam, khoản 1 Điều 3 Luật  
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007  
(sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định:  
“Sản phẩm là kết quả của quá trình sản  
xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục  
11. Naveen Joshi,  
7
world/2019/06/19/7-types-of-artificial-intelligence/#7c47fac6233e, truy cập ngày 30/10/2020.  
12. Trương Hồng Quang - Nghiên cứu viên, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư Pháp, Một số vấn đề cơ bản về chế  
dinh-trach-nhiem-san-pham/, truy cập ngày 03/11/2020.  
Số 02(426) - T1/2021  
17  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
đích kinh doanh hoặc tiêu dùng”. Như  
vậy, theo pháp luật Việt Nam, “sản phẩm”  
được hiểu với nghĩa khá rộng, bao quát,  
gồm cả “sản phẩm” hàng hóa và “sản  
phẩm” dịch vụ.  
sẽ cho phép người mua được nhận chuyển  
quyền sử dụng sản phẩm (license) trong  
một khoảng thời gian nhất định. Người mua  
có thể trải nghiệm phần mềm ngay cả khi  
không kết nối vào Internet15. Một ví dụ điển  
hình của loại phần mềm sản phẩm này là  
Microsoft Office của tập đoàn Microsoft:  
người mua sẽ được chuyển quyền sử dụng  
toàn bộ các chức năng của phần mềm trong  
vòng 12 tháng sau khi đã thanh toán cho  
nhà sản xuất16.  
Pháp luật nhiều nước trên thế giới đưa  
ra khái niệm khá hẹp về “sản phẩm”. Ví  
dụ, Luật Trách nhiệm sản phẩm Nhật Bản  
năm 1994 quy định, “sản phẩm là động sản  
được sản xuất hoặc chế biến”13. Quy định  
này cho thấy pháp luật Nhật Bản chỉ thừa  
nhận hàng hóa hữu hình và đã qua chế biến  
là “sản phẩm”. Bên cạnh đó, ở Anh, Mục  
1(2)(c) Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm  
1987 (Consumer Protection Act - CPA) và  
Điều 2 Chỉ thị số 85/374/EEC quy định,  
“sản phẩm” bao gồm những thứ thuộc về  
vật chất, là “bất kỳ hàng hóa hay năng  
lượng điện” hoặc “bất kỳ vật nào có thể  
di chuyển”14. Như vậy, “sản phẩm” thuộc  
đối tượng điều chỉnh của CPA 1987 là bất  
kỳ hàng hóa ở dạng vật chất cụ thể, đã chế  
biến hay chưa chế biến, kể cả điện năng và  
không bao gồm dịch vụ. Quy định này mở  
rộng hơn so với pháp luật Nhật Bản nhưng  
lại hẹp hơn so với quy định của pháp luật  
Việt Nam.  
Như vậy, trong bài viết này, để tránh  
gây nhầm lẫn về mặt ngữ nghĩa, chúng  
tôi muốn nhấn mạnh rằng, khái niệm “sản  
phẩm” sẽ được hiểu theo nghĩa hẹp. Tức là,  
“sản phẩm” chỉ bao gồm (i) những thứ thuộc  
về vật chất như hàng hóa, điện năng,… và  
(ii) đã qua chế biến hoặc chưa qua chế biến,  
nhưng không bao gồm dịch vụ. Vậy, nếu AI  
chẩn đoán bệnh là một “sản phẩm”, điều cần  
thiết là nó phải đáp ứng được các tiêu chí (i)  
và (ii). Ngoài ra, như đã đề cập, nếu AI chẩn  
đoán bệnh đó mang đặc tính của một phần  
mềm sản phẩm thì nó cũng sẽ được xem là  
“sản phẩm” mang tính đặc biệt.  
- Trách nhiệm sản phẩm  
Theo định nghĩa trong Từ điển “The  
Free Dictionary By Farlex”, có thể hiểu,  
“trách nhiệm sản phẩm” là “trách nhiệm của  
người sản xuất hoặc người bán hàng trong  
việc bồi thường cho các thiệt hại gây ra bởi  
khuyết tật của hàng hóa mà họ đã cung cấp  
cho người tiêu dùng trong quá trình kinh  
Ngoài ra, có một loại sản phẩm đặc biệt  
được gọi là phần mềm sản phẩm (software  
as a product). Tính đặc biệt của nó được thể  
hiện ở chỗ nó không tồn tại dưới một dạng  
vật chất cụ thể nhưng vẫn được xem là sản  
phẩm (as a product). Khái niệm phần mềm  
sản phẩm này dùng để chỉ các loại phần mềm  
13. Law on Product Liability of Japan (Law No. 85/1994): “the term “product” means movable property  
manufactured or processed”.  
14. Section 1(2)(c) CPA 1987: ““product” means any goods or electricity and (subject to subsection (3) below)  
includes a product which is comprised in another product, whether by virtue of being a component part or raw  
bynder.com/en/blog/software-as-a-product-vs-software-as-a-service/, truy cập ngày 05/11/2020.  
16. Pragmatic Institute, The Economics of Software as a Service (SaaS) vs. Software as a Product, https://  
ware-as-a-product/, truy cập ngày 05/11/2020.  
18  
Số 02(426) - T1/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
doanh”17. Chế định trách nhiệm sản phẩm  
này được cụ thể hóa trong văn bản pháp luật  
ở nhiều quốc gia. Ví dụ, Điều 1 Luật Trách  
nhiệm sản phẩm năm 1992 của Úc quy định  
bất cứ người nào cung cấp sản phẩm có  
khuyết tật gây thiệt hại cho người tiêu dùng  
hoặc người sử dụng thì phải bồi thường hay  
Điều 14 Luật Quản lý chất lượng sản phẩm  
năm 1993 của Trung Quốc cũng quy định  
nếu hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại  
vật chất cho người tiêu dùng hoặc người sử  
dụng sản phẩm thì nhà sản xuất, nhà phân  
phối đó phải bồi thường thiệt hại18.  
tật do mình sản xuất kể cả khi không biết  
hoặc không có lỗi20. Đây là điểm cần lưu ý  
để phân biệt với trách nhiệm dịch vụ được  
trình bày ở phần sau.  
Như vậy, pháp luật Việt Nam và pháp  
luật quốc tế đều có sự phân định giữa hai  
loại trách nhiệm pháp lý đối với “sản phẩm”  
(theo nghĩa hẹp) và dịch vụ. Do đó, việc  
phân định AI chẩn đoán bệnh là “sản phẩm”  
hay “dịch vụ” là điều rất cần thiết nhằm quy  
đúng trách nhiệm khi có thiệt hại xảy ra đối  
với người bệnh.  
1.2. Tiêu chí xác định AI chẩn đoán  
bệnh là dịch vụ và trách nhiệm dịch vụ  
Tại Việt Nam, chế định “trách nhiệm  
sản phẩm” được quy định tại khoản 3 Điều 3,  
Điều 22, Điều 23, Điều 24 Luật Bảo vệ  
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010. Một  
điều đáng lưu ý là, mặc dù pháp luật Việt  
Nam đưa ra khái niệm “sản phẩm” theo  
nghĩa rộng nhưng quy định về “trách nhiệm  
sản phẩm” chỉ được áp dụng đối với “hàng  
hóa khuyết tật”19 (“sản phẩm” theo nghĩa  
hẹp), mà không áp dụng đối với dịch vụ.  
Hơn nữa, theo khoản 1 Điều 23 Luật Bảo  
vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010,  
trách nhiệm của nhà sản xuất đối với hàng  
hóa khuyết tật là trách nhiệm nghiêm ngặt  
(“strict liability”); tức là họ sẽ phải bồi  
thường thiệt hại đối với hàng hóa khuyết  
- Tiêu chí xác định  
Hiện nay, cũng có rất nhiều định nghĩa  
và cách hiểu khác nhau về “dịch vụ”. Theo  
Từ điển Tiếng Việt, “dịch vụ là công việc  
phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất  
định của số đông, có tổ chức và được trả  
công”21.Dướigócđthtrường(marketing),  
Giáo sư Philip Kotler22 cho rằng, dịch vụ là  
bất kỳ sự kiện hay lợi ích nào được một bên  
cung ứng cho bên kia, chủ yếu là vô hình và  
không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu23.  
Pháp luật Việt Nam hiện hành không  
đưa ra khái niệm chung về “dịch vụ” mà  
thường quy định theo hướng liệt kê các  
17. “Product Liability: The responsibility of a manufacturer or vendor of goods to compensate for injury  
caused by defective merchandise that it has provided for sale”, The Free Dictionary by FarLex, https://le-  
gal-dictionary.thefreedictionary.com/Product+Liability, truy cập ngày 04/11/2020.  
18. Trương Hồng Quang - Nghiên cứu viên, Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư Pháp, Một số vấn đề cơ bản về chế  
dinh-trach-nhiem-san-pham/, truy cập ngày 03/11/2020.  
19. Điều 22, 23, 24 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 chỉ quy định trách nhiệm thu hồi, trách  
nhiệm bồi thường thiệt hại và miễn trừ trách nhiệm do hàng hóa có khuyết tật.  
20. Khoản 1 Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng  
hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại… kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không biết hoặc không có lỗi trong  
việc phát sinh khuyết tật…”.  
21. Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, năm 2004, tr.256.  
22. Philip Kotler là giáo sư marketing nổi tiếng thế giới, “cha đẻ” của marketing hiện đại.  
23.Andrii, Vitrenko. “The essence of intangible service as a special theoretical category in the modern post-in-  
dustrial economics system.” Procedia Economics and Finance số 27, năm 2015, tr. 267-273.  
Số 02(426) - T1/2021  
19  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
hoạt động của một ngành dịch vụ cụ thể24.  
Tuy nhiên, từ các quy định này, chúng ta có  
thể hiểu khái quát, “dịch vụ” là (i) những  
hoạt động lao động cụ thể của tổ chức, cá  
nhân, (ii) tồn tại dưới dạng phi vật chất, (iii)  
không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu,  
nhằm (iv) đáp ứng được các nhu cầu cụ thể  
của xã hội và tạo ra lợi ích kinh tế.  
chất của dịch vụ. Trong các phần mềm này,  
toàn bộ các dữ liệu được tạo ra bởi người  
dùng đều sẽ được lưu trữ trên hệ thống điện  
toán của nhà cung cấp dịch vụ mà không  
được chuyển quyền sử dụng cho họ. Điều  
này cũng đòi hỏi người dùng phải luôn luôn  
kết nối vào Internet để có thể sử dụng được  
các chức năng và đăng nhập vào dữ liệu  
trong hệ thống của phần mềm26.  
Những đặc tính cơ bản để phân biệt  
“dịch vụ” với “sản phẩm” là: (1) tính vô  
hình, phi vật chất (người tiêu dùng không  
thể cảm nhận được dịch vụ bằng các giác  
quan), (2) tính không tách rời (cung ứng  
và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời); (3)  
tính không ổn định (chất lượng dịch vụ rất  
khó đánh giá vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố:  
người cung ứng, khách hàng, thời gian, địa  
điểm cung ứng dịch vụ); (4) tính không lưu  
giữ được (dịch vụ không thể cất giữ trong  
kho, làm phần đệm điều chỉnh sự thay đổi  
nhu cầu thị trường)25.  
Như vậy, từ khái niệm và đặc tính của  
dịch vụ kể trên, một AI chẩn đoán bệnh sẽ  
được xem là “dịch vụ” nếu nó thỏa mãn  
bốn điều kiện nêu trên và mang các đặc tính  
riêng của “dịch vụ”. Bên cạnh đó, nếu một  
AI chẩn đoán bệnh tồn tại dưới dạng phần  
mềm dịch vụ thì nó cũng có thể được xác  
định là “dịch vụ”.  
- Trách nhiệm dịch vụ  
Theo định nghĩa của Từ điển Law  
Insider, “trách nhiệm dịch vụ” có thể được  
hiểu là trách nhiệm pháp lý của công ty đối  
với bất kỳ dịch vụ nào mà công ty cung cấp  
khi phát sinh yêu cầu bảo hành, hoặc có bất  
kỳ lỗi được cáo buộc, không đạt hiệu suất  
hoặc khi có thiệt hại về người và tài sản27.  
Ngoài ra, có loại dịch vụ đặc biệt được  
gọi là phần mềm dịch vụ (software as a  
service). Phần mềm dịch vụ, đương nhiên  
là một loại phần mềm nhưng lại mang bản  
24. Ví dụ như khoản 3 Điều 2 Nghị định số 47/2011/NĐ-CP ngày 17 tháng 6 năm 2011 của Chính Phủ quy  
định chi tiết thi hành một số nội dung của Luật Bưu chính: “Dịch vụ thư là dịch vụ chấp nhận, vận chuyển và  
phát thông tin trao đổi dưới dạng văn bản viết tay hoặc bản in, có địa chỉ nhận hoặc không có địa chỉ nhận  
(không bao gồm ấn phẩm định kỳ, sách, báo, tạp chí) từ địa điểm của người gửi đến địa điểm của người nhận  
qua mạng bưu chính bằng các phương thức, trừ phương thức điện tử”. Ngoài ra, có thể tham khảo thêm Điều 3  
Nghị định số 52/2014/NĐ-CP ngày 23 tháng 04 năm 2014 của Chính Phủ quy định điều kiện, thủ tục cấp giấy  
phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm; Điều 3 Nghị định số 163/2017/  
NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017 của Chính Phủ quy định về kinh doanh dịch vụ Logistics;…  
25. Vietnambiz, Sản phẩm dịch vụ (Services) là gì? Đặc điểm của sản phẩm dịch vụ, https://vietnambiz.vn/san-pham-  
dich-vu-services-la-gi-dac-diem-cua-san-pham-dich-vu-20190831195710206.htm, truy cập ngày 31/10/2020.  
26. Mike Schutz, Senior Copy Writer of Bynder, Software as a Service vs Software as a Product, https://www.  
bynder.com/en/blog/software-as-a-product-vs-software-as-a-service/, truy cập ngày 05/11/2020.  
27. Định nghĩa này được suy ra từ định nghĩa của “Khiếu nại về trách nhiệm dịch vụ” (“Service Liability  
Claims”). Nguyên văn: “Service Liability Claims means all Liabilities of the Company resulting from or  
under (i) any warranty made or allegedly made by the Company prior to the Closing Date with respect to  
any product it distributes or uses or any services it renders (“Business Products”), (ii) any alleged defect in,  
non-performance or deficiency of any nature in any Business Product sold or provided (as applicable) prior  
to the Closing Date, or (iii) any injury to person or property caused or alleged to be caused to any degree by  
any Business Product sold or provided (as applicable) prior to the Closing Date”, Law Insider, https://www.  
lawinsider.com/dictionary/service-liability-claims, truy cập ngày 04/11/2020.  
20  
Số 02(426) - T1/2021  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
Song song với chế định về trách nhiệm sản  
phẩm, trách nhiệm dịch vụ cũng được cụ  
thể hóa trong pháp luật ở các quốc gia. Ví  
dụ, theo Điều 6:75 Bộ luật Dân sự Hà Lan,  
nếu nhà cung cấp dịch vụ được xác định là  
không thực hiện nghĩa vụ thì họ phải chứng  
minh việc không thực hiện đó không phải  
lỗi của họ. Nhà cung cấp sẽ phải chịu trách  
nhiệm khi họ có lỗi và được xác định lỗi  
theo ý kiến chung28. Có thể thấy, trong pháp  
luật Hà Lan, trách nhiệm dịch vụ không  
được xác định dựa trên nguyên tắc “trách  
nhiệm nghiêm ngặt”, mà dựa trên yếu tố  
“lỗi”. Trong pháp luật Việt Nam, trách  
nhiệm dịch vụ được quy định trong các văn  
bản pháp luật khác nhau đối với từng ngành  
dịch vụ cụ thể. Tương tự với pháp luật Hà  
Lan, nhìn chung chế định trách nhiệm  
dịch vụ tại Việt Nam cũng được xây dựng  
theo nguyên tắc xác định “lỗi”. Điển hình  
như quy định về bồi thường thiệt hại đối  
với dịch vụ khám, chữa bệnh tại khoản 1  
Điều 73 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm  
2009, người hành nghề chỉ có trách nhiệm  
bồi thường thiệt hại khi được xác định là  
có sai sót chuyên môn kỹ thuật bởi Hội  
đồng chuyên môn29; Điều 24 Nghị định  
số 47/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 của  
Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một  
số nội dung của Luật Bưu chính (Nghị định  
số 47/2011/NĐ-CP) chỉ ra rằng, bên cung  
cấp dịch vụ bưu chính chỉ phải chịu trách  
nhiệm nếu người sử dụng dịch vụ chứng  
minh được lỗi của bên cung ứng30.  
Như vậy, khác với quy định về trách  
nhiệm sản phẩm, ở Việt Nam, trách nhiệm  
dịch vụ không dựa trên nguyên tắc “trách  
nhiệm nghiêm ngặt” mà dựa trên nguyên tắc  
xác định “lỗi” theo Bộ luật Dân sự31. Điều  
này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng  
của việc xác định bản chất củaAI chẩn đoán  
bệnh là “sản phẩm” hay “dịch vụ”, nhằm  
giúp tránh sự không rõ ràng trong vấn đề  
quy trách nhiệm khi có thiệt hại phát sinh.  
4. Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trong  
chẩn đoán bệnh tại Việt Nam: sản phẩm  
hay dịch vụ?  
Hiện nay, tại Việt Nam, IBM Watson  
for Oncology (IBM WFO) đã được triển  
khai thử nghiệm trong hai năm (từ năm  
2018), tại ba cơ sở là Bệnh viện Đa khoa  
tỉnh Phú Thọ, Bệnh viện K và Bệnh viện  
Ung bướu Tp. Hồ Chí Minh32. Đây là một  
phần mềm được phát triển bởi Tập đoàn  
IBM (Hoa Kỳ); trong đó, ứng dụng AI  
28. Ivo Giesen, Marco B.M. Loos, Centre for Liability Law, Tilburg University, Liability for Defective Prod-  
29. Khoản 1 Điều 73 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009: “1. Người hành nghề có sai sót chuyên môn kỹ  
thuật khi được hội đồng chuyên môn quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này xác định đã có một trong  
các hành vi sau đây: a) Vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh; b) Vi phạm các quy định  
chuyên môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp; c) Xâm phạm quyền của người bệnh”.  
30. Điều 24 Nghị định số 47/2011/NĐ-CP: “2. Bưu gửi bị mất, hư hỏng hoặc tráo đổi toàn bộ thì được bồi  
thường theo quy định đối với từng loại dịch vụ […]; 3. Không bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp sau  
đây: a) Dịch vụ bưu chính không có chứng từ xác nhận việc chấp nhận bưu gửi; b) Người sử dụng dịch vụ  
không có chứng từ chứng minh việc sử dụng dịch vụ”.  
31. Điều 584 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015: “[…] Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính  
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây  
thiệt hại thì phải bồi thường […]”.  
32. Thùy An, Việt Nam tăng cường dùng trí tuệ nhân tạo chữa ung thư, https://vnexpress.net/suc-khoe/viet-  
nam-tang-cuong-dung-tri-tue-nhan-tao-chua-ung-thu-3915336.html, truy cập ngày 30/10/2020.  
Số 02(426) - T1/2021  
21  
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  
nhằm phục vụ cho lĩnh vực chẩn đoán ung  
thư, làm công cụ phân tích hồ sơ bệnh án  
của bệnh nhân kèm với các chứng cứ khác  
để xác định phương án điều trị cá nhân  
hóa cho từng người bệnh33. Bản chất của  
WFO là hệ thống phát triển trên một nền  
tảng công nghệ AI toàn diện - áp dụng  
việc Xử lý ngôn ngữ tự nhiên (Natural  
Language Processing) và Học máy  
(Machine Learning), kết hợp với Dữ liệu  
lớn (Big Data) - lưu trữ và xử lý lượng lớn  
thông tin phục vụ cho việc ra quyết định  
của hệ thống34.  
tham vấn. Người dùng được cho là sẽ truy  
cập vào hệ thống dữ liệu và được IBM  
WFO hỗ trợ đưa ra phương pháp điều trị  
(quá trình sử dụng dịch vụ); tập đoàn IBM  
sẽ cung cấp dịch vụ bằng cách thường  
xuyên cập nhật các phương pháp điều trị  
mới vào hệ thống và đảm bảo hiệu quả  
hoạt động của AI (quá trình cung ứng dịch  
vụ)36. Đây được xem là tính không tách rời  
của dịch vụ. Khác với phần mềm sản phẩm  
như Microsoft Office, việc sử dụng và  
cung ứng sản phẩm xảy ra ở hai thời điểm  
khác nhau (sau khi được nhận sản phẩm thì  
người dùng mới bắt đầu quá trình sử dụng  
của mình).  
Chúng tôi cho rằng, sẽ phù hợp hơn  
nếu xác định IBM WFO là một dịch vụ vì  
những lý do sau đây:  
Thứ ba, IBM WFO tồn tại dưới dạng  
phi vật chất, nó chỉ là những thuật toán và  
dữ liệu được thể hiện lên màn hình máy tính  
và không tồn tại bất kỳ dạng vật chất cụ thể  
nào như rắn, lỏng khí, điện...  
Thứ nhất, IBM WFO là một phần  
mềm dịch vụ. Theo thông tin từ trang  
chủ của IBM, để sử dụng IBM WFO,  
điều cần thiết là máy tính của các bác  
sĩ phải luôn được kết nối Internet nếu  
muốn truy cập vào dữ liệu được lưu trữ  
trong hệ thống điện toán của IBM. Các  
dữ liệu đầu vào sẽ được các chuyên gia  
từ Trung tâm ung thư hàng đầu của Mỹ  
là MSKCC (Memorial Sloan-Kettering  
Cancer Center) “đào tạo” và không được  
chuyển quyền sử dụng cho người dùng  
nếu họ không kết nối với hệ thống35.  
Thứ tư, IBM WFO không nhắm đến sự  
chuyển quyền sở hữu.  
Thứ năm, thông qua hoạt động của  
mình, AI này đã tạo ra lợi ích kinh tế cho  
chủ thể cung cấp dịch vụ và đáp ứng được  
nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho xã hội.  
Do đó, chúng tôi cho rằng, trong tương  
lai, khi có thiệt hại phát sinh từ việc ứng  
dụng IBM WFO, cần áp dụng các nguyên  
tắc về trách nhiệm dịch vụ để xác định trách  
Thứ hai, IBM WFO là hoạt động hỗ  
trợ chẩn đoán bằng cách phân tích và đưa  
ra phác đồ điều trị thích hợp cho người  
bệnh khi người dùng (bác sĩ) có nhu cầu  
nhiệm pháp lý của các chủ thể liên quan  
34. Đại diện IBM, Buổi hội thảo “Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong ngành y tế, http://ai.health.vn/tin-tuc/  
ibm-watson-for-oncology-tu-tin-co-the-dem-lai-hy-vong-cho-nhieu-nguoi-benh-ung-thu-nd343.html,  
truy cập ngày 30/10/2020.  
35. IBM, https://www-01.ibm.com/common/ssi/cgi-bin/ssialias?appname=skmwww&htmlfid=897%2FEN  
US5725-W51&infotype=DD&subtype=SM&mhsrc=ibmsearch_a&mhq=IBM%20WATSON%20ONcology  
ngày 05/11/2020.  
22  
Số 02(426) - T1/2021  
pdf 9 trang yennguyen 20/04/2022 2860
Bạn đang xem tài liệu "Trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trong chẩn đoán bệnh: Sản phẩm hay dịch vụ?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftri_tue_nhan_tao_duoc_ung_dung_trong_chan_doan_benh_san_pham.pdf