Tiểu luận Đổi mới hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................................3
1. Khái niệm Doanh nghiệp nhà nước ...........................................................................3
2. Phân loại Doanh nghiệp nhà nước.............................................................................4
2.2. Dựa theo nguồn vốn ............................................................................................5
3. Đặc điểm của Doanh nghiệp nhà nước......................................................................5
4. Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước ..........................................................................7
giới.................................................................................................................................8
5.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc................................................................................8
5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc .............................................................................9
TA HIỆN NAY...............................................................................................................10
.....................................................................................................................................15
3.1. Thành tựu ..........................................................................................................20
3.2. Hạn chế .............................................................................................................20
4. Nguyên nhân hạn chế...............................................................................................22
VIỆT NAM.....................................................................................................................22
KẾT LUẬN .......................................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................................................27
1
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
MỞ ĐẦU
Hiện nay, vấn đề đổi mới hoạt động Doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực
phát triển và nâng cao hiệu quả, tạo sự cạnh tranh bình đẳng, tự chịu trách nhiệm về
kết quả sản xuất kinh doanh… luôn là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước, của các
nhà nghiên cứu, các cơ quan hoạch định chính sách và của các doanh nghiệp. Với sự
lựa chọn định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước nói chung, Doanh nghiệp
nhà nước nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng.
Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết số 12-
NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa XII) về tiếp
tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 phê duyệt Đề án
“Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước giai đoạn 2016 – 2020” để làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương phê duyệt
và triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại từng Doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp có vốn nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý giai đoạn 2016 – 2020.
Tại Nghị quyết số 12-NQ/TW, vai trò của Doanh nghiệp nhà nước đối với nền
kinh tế tiếp tục được khẳng định. Theo đó, Doanh nghiệp nhà nước “là một lực lượng
vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Đồng thời, là công cụ quan trọng để bảo đảm
thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với
những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Song trên thực tế, hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển đất nước ta hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế yếu kém. Sự yếu
kém đó thể hiện cả trong hiệu quả thấp của hệ thống Doanh nghiệp nhà nước sau khi
đã áp dụng các biện pháp đổi mới và cả trong những yếu kém của hệ thống chính
sách, biện pháp đổi mới…
Xuất phát từ thực tế đó, trong phạm vi tiểu luận môn học Những vấn đề kinh
tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, học viên thực
hiện tiểu luận với chủ đề: “Đổi mới hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
2
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
1. Khái niệm Doanh nghiệp nhà nước
Trên thực tế, việc xác định Doanh nghiệp nhà nước chủ yếu dựa trên một số
tiêu chí chung như quyền sở hữu, quyền kiểm soát và khả năng khống chế của Nhà
nước, mục tiêu hoạt động… song ranh giới xác định thì mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ
lại có sự khác nhau.
Ở nước ta, quan niệm về Doanh nghiệp nhà nước qua các thời kỳ đổi mới quản
lý của đã có sự thay đổi. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp,
Doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư 100% vốn, trực
tiếp thành lập và quản lý, hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu đủ, chi đủ, bao cấp
và chiếm vị trí độc tôn trong nền kinh tế.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các Doanh
nghiệp nhà nước không những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý,
hạch toán mà còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu. Tuy nhiên, về cơ bản, quan niệm về
Doanh nghiệp nhà nước vẫn chủ yếu dựa trên tiêu chí sở hữu vốn Nhà nước và quyền
kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo Điều 1, Luật Doanh nghiệp nhà nước 1995 quy định:
“Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập
và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân
sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do
doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên
lãnh thổ Việt Nam”.
Tuy nhiên trên thực tế, những thay đổi của Doanh nghiệp nhà nước đã đưa đến
việc sửa đổi, bổ sung định nghĩa về Doanh nghiệp nhà nước ở một số Bộ luật sau
này.
Theo Điều 1, Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 quy định:
“Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà
nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Theo Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định:
3
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
“Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50%
vốn điều lệ”.
Gần đây nhất, theo Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định:
“Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều
lệ”
Như vậy, có thể hiểu “Doanh nghiêp nhà nước là doanh nghiệp một chủ sở hữu
trong trường hợp nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (tức sở hữu 100%). Doanh
nghiệp nhà nước nhiều chủ sở hữu trong trường hợp có cổ phần, vốn góp chi phối
có tỉ lệ trên 50% và dưới 100%”.
2. Phân loại Doanh nghiệp nhà nước
2.1. Dựa vào hình thức tổ chức doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất, công ty nhà nước: là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ thành lập, tổ chức quản lý và tồn tại dưới hình thức công ty Nhà nước độc lập
và tổng công ty nhà nước.
Thứ hai, công ty cổ phần nhà nước: là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là
các công ty nhà nước hoặc tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn. Tổ chức và
Thứ ba, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên là công ty trách
nhiệm hữu hạn do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ. Tổ chức quản lí và đăng ký
Thứ tư, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước có từ hai thành viên trở lên: là
công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó có tất cả các thành viên đều là công ty nhà
nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước, thành viên được ủy quyền góp vốn.
Được tổ chức và hoạt động theo luật doanh nghiệp.
Thứ năm, doanh nghiệp cổ phần, vốn góp chi phối của nhà nước: là doanh
nghiệp mà cổ phần hoặc vốn góp của nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ. Nhà
nước giữ quyền chi phối doanh nghiệp.
2.2. Dựa theo nguồn vốn
Dựa theo nguồn vốn, Doanh nghiệp nhà nước có hai loại
Thứ nhất, Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước sở hữu 100% vốn, gồm: công
ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một
thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên.
Thứ hai, Doanh nghiệp do nhà nước có cổ, vốn góp chi phối, gồm: công ty cổ
phần nhà nước mà nhà nước chiếm trên 50% cổ phiếu, công ty trách nhiệm hữu hạn
mà nhà nước chiếm trên 50% vốn góp.
4
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
2.3. Dựa theo mô hình tổ chức quản lý
Dựa theo mô hình tổ chức quản lý, Doanh nghiệp nhà nước có hai loại
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị: hội đồng quản trị là cơ
quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước, chịu trách nhiệm trước nhà nước.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị: giám đốc doanh
nghiệp được nhà nước bổ nhiệm hoặc tuê để điều hành hoạt động của doanh nghiệp.
3. Đặc điểm của Doanh nghiệp nhà nước
3.1. Đặc điểm của Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường các Doanh nghiệp nhà nước vừa là chủ thể kinh
doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt để Nhà nước sử dụng tác động vào các hoạt
động kinh tế và như vậy Doanh nghiệp nhà nước vừa phải thực hiện mục tiêu kinh
tế (lợi nhuận) vừa phải thực hiện mục tiêu chính trị xã hội. Đây là nội dung chi phối
cơ bản các đặc điểm của Doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước thường chịu áp lực phải thực hiện các mục tiêu chính
trị xã hội ngoài mục tiêu kinh tế. Đây là một nghịch lý song Doanh nghiệp nhà nước
vẫn phải tồn tại và phát triển trong nghịch lý đó.
Động lực tìm kiếm lợi nhuận của giới quản lý Doanh nghiệp nhà nước thường
bị giảm nhẹ do các mục tiêu khác chi phối như: không có tài sản riêng trong doanh
nghiệp, trách nhiệm và lợi ích không gắn với lợi nhuận của Doanh nghiệp nhà nước…
Cơ chế khuyến khích lợi ích đối với giới quản lý Doanh nghiệp nhà nước không
rõ ràng
So với Doanh nghiệp tư nhân, Doanh nghiệp nhà nước có hai lợi thế, là quy mô
vốn lớn và tính kế hoạch hóa dài hạn, nhưng cũng có hai nhược điểm là tính kém
năng động và bộ máy quản lý cồng kềnh.
Doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động trong nhiều lĩnh vực kém sinh lợi
Do vậy, các đặc điểm trên dẫn đến một đặc điểm khác là Doanh nghiệp nhà
nước thường hoạt động kém hiệu quả hơn Doanh nghiệp tư nhân
3.2. Đặc thù của Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
Việt Nam là một quốc gia chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa, tập trung
bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên Doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta, ngoài những đặc điểm chung của Doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường, còn có những đặc thù riêng như sau:
Thứ nhất, tài sản của Doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước sở hữu là một bộ
phận của tài sản toàn dân. Sở hữu Nhà nước trong Doanh nghiệp nhà nước thực chất
là thể chế hóa sở hữu toàn dân, là nền tảng kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
5
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
đại diện là các cơ quan Nhà nước với tư cách là cơ quan công quyền, đứng ra quản
lý, chi phối doanh nghiệp. Đại diện cho sở hữu toàn dân được phân cấp hoặc ủy
quyền cho chính phủ, các bộ và UBND tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương thực
hiện quyền sở hữu đối với Doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, do Nhà nước sở hữu 100% hoặc phần lớn vốn, nên Nhà nước có quyền
kiểm soát các hoạt động quan trọng của Doanh nghiệp nhà nước, thậm chí trong một
số trường hợp, Nhà nước chỉ có cổ phần đặc biệt nhưng vẫn có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thỏa thuận trong điều lệ. Doanh
nghiệp nhà nước phải thực hiện nhiệm vụ kinh doanh, công ích hoặc nhiệm vụ đặc
biệt do Nhà nước giao, đồng thời làm hậu thuẫn cho Nhà nước trong việc thực hiện
các mục tiêu phi kinh tế khác.
Thứ ba, nước ta là một nước chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh
nghiệp nhà nước có vai trò rất lớn, nó đã và đang chiếm giữ những vị trí then chốt
trong hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Nó nắm giữ nhiều nguồn lực lớn
quan trọng của Nhà nước về đất đai, vốn… và được hưởng một số lợi thế so với các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như: về vay vốn tín dụng, thông tin,
hạn ngạch, chế độ ưu đãi, đầu tư trong và ngoài nước, giấy phép, xúc tiến thương
mại, liên doanh liên kết trong và ngoài nước… Các Doanh nghiệp nhà nước quan
trọng còn được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ.
Thứ tư, Doanh nghiệp nhà nước không chỉ là chủ thể kinh doanh mà còn là công
cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều thành phần, góp phần
giữ vững vai trò chủ đạo quyết định của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần, góp phần định hướng nền kinh tế thị trường theo quỹ đạo xã hội
chủ nghĩa.
4. Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Doanh
nghiệp nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Theo quan niệm của Đảng ta, trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhiều thành phần, kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo mà trong đó Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan
trọng nhất. Do vậy, khi đánh giá vai trò kinh tế, chính trị, xã hội của Doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam luôn phải gắn liền với vai trò của kinh tế nhà nước nói chung
và được xác định như là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời đặt
Doanh nghiệp nhà nước trong mối tương quan qua lại với các loại hình doanh nghiệp
khác. Vai trò đó được thể hiện:
Thứ nhất, các Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt nhất của nền
kinh tế. Vai trò này xuất phát từ mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, chỉ
khi nào chúng ta xây dựng được một hệ thống Doanh nghiệp nhà nước mạnh, tạo nên
6
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
trụ cột cho nền kinh tế thì Nhà nước mới kiểm soát được các quá trình kinh tế, hướng
chúng vào thực hiện các mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Doanh nghiệp nhà nước phải đảm bảo những điều kiện để nền kinh tế
quốc dân phát triển một cách có hiệu quả. Sứ mệnh đó thể hiện ở chỗ trước hết Doanh
nghiệp nhà nước phải tập trung vào những lĩnh vực đầu tư dài hạn như kết cấu hạ
tầng, công nghiệp mũi nhọn… nhằm tăng trưởng bền vững. Doanh nghiệp nhà nước
phải đi đầu, mở rộng, tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho nền kinh tế ngay cả khi
các ngành đó có mức lợi nhuận thấp. Doanh nghiệp nhà nước thậm chí được thiết kế
như bước đệm để giảm sự tàn phá của các quy luật kinh tế thị trường.
Thứ ba, các Doanh nghiệp nhà nước còn là công cụ để Nhà nước thực hiện
những mục tiêu xã hội như: tạo việc làm, cung cấp hàng hóa dịch vụ thiết yếu cho xã
hội, đẩy mạnh sự phát triển của các vùng kinh tế lạc hậu, khó khăn, vùng sâu, vùng
xa. Với mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, vì dân, những nghĩa vụ xã hội
đặt ra không chỉ rất nặng nề mà ngày càng tăng lên. Doanh nghiệp nhà nước phải là
lực lượng hỗ trợ Nhà nước thực hiện mục tiêu xã hội này, nhất là đầu tư vào những
lĩnh vực lãi ít, thu hồi vốn lâu nhưng có ý nghĩa chính trị, xã hội lớn. Đặc biệt trong
những lĩnh vực công ích, những lĩnh vực có vai trò chính trị xã hội như kết cấu hạ
tầng, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng… thì Doanh nghiệp nhà nước
là lực lượng chủ đạo.
Thứ tư, các Doanh nghiệp nhà nước còn có sứ mệnh là tạo điều kiện và thúc đẩy
toàn bộ quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Bởi vì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đòi hỏi nguồn vốn lớn, dài hạn và phải thực hiện mục tiêu chuyển dịch
cơ cấu kinh tế mà tư nhân và tư bản nước ngoài không có điều kiện hoặc không chú
trọng đến. Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước không chỉ ở việc đầu tư vào cơ sở hạ
tầng mà còn ở lĩnh vực tạo dựng cơ cấu kinh tế công – nông – dịch vụ hiện đại, đặc
biệt là trong lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Thứ năm, Doanh nghiệp nhà nước còn là công cụ, hạt nhân, nòng cốt trong việc
liên doanh, liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế, lôi cuốn các thành phần kinh tế đi
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là vai trò có sứ mệnh hết sức quan trọng của Doanh nghiệp
nhà nước. Đó là sức mạnh kinh tế để Nhà nước phát huy vai trò đoàn kết của các chủ
thể trong nền kinh tế, khống chế định hướng hoạt động kinh tế của toàn xã hội.
5. Kinh nghiệm đổi mới, cải cách Doanh nghiệp nhà nước ở một số quốc
gia trên thế giới
5.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Luật Quản lý doanh nghiệp của Chính phủ Hàn Quốc (Đạo luật số 3690 ngày
31/12/1983) được quy định áp dụng cho các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm từ 50%
vốn điều lệ trở lên. So với các luật trước, đạo luật này đã tách được chức năng thực
hiện ra khỏi chức năng quyết định tại doanh nghiệp Chính phủ quản lý. Các thành
7
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
viên của HĐQT gồm cả Chủ tịch HĐQT đều hoạt động theo nhiệm kỳ. Chính phủ
bổ nhiệm Chủ tịch HĐQT và thành viên HĐQT, còn HĐQT bổ nhiệm các giám đốc
điều hành của doanh nghiệp.
Nhà nước kiểm soát, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp thông qua các chỉ
tiêu kinh tế của từng thời kỳ trên cơ sở doanh thu của doanh nghiệp. HĐQT không
can thiệp vào quá trình quản trị doanh nghiệp mà chỉ đưa ra các chính sách lớn thông
qua các cuộc họp (khoảng 5-6 lần/năm). Giám đốc điều hành chịu trách nhiệm về
hoạt động của doanh nghiệp. Dư luận xã hội và ý kiến của các nhà khoa học là một
kênh quan trọng trong việc giúp Nhà nước bổ nhiệm cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước độc lập về nguồn vốn, việc xem xét và quyết định sử
dụng nguồn vốn do HĐQT của từng doanh nghiệp quyết định căn cứ vào hướng dẫn
của Hội đồng đánh giá quản lý của Chính phủ. Hội đồng này bao gồm Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch – Kinh tế, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Quản lý doanh nghiệp.
Hội đồng có quyền hạn:
- Xây dựng các tiêu chí đánh giá doanh nghiệp;
- Điều phối các mục tiêu của các doanh nghiệp;
- Xây dựng hướng dẫn chung cho việc sử dụng vốn;
- Đánh giá hiệu quả quản trị doanh nghiệp;
- Thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác của chủ sở hữu.
Luật quy định chỉ có Cục Thanh tra và kiểm toán là tổ chức duy nhất có quyền
kiểm tra doanh nghiệp, khi Bộ trưởng quản lý ngành muốn tiến hành điều tra, kiểm
tra một doanh nghiệp thì phải có sự đồng thuận của Cục Thanh tra và kiểm toán. Các
doanh nghiệp được toàn quyền đấu thầu mua sắm thiết bị.
5.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Phương châm, quan điểm chỉ đạo tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước ở Trung
Quốc là theo hướng thận trọng, tập trung giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra,
cụ thể trong từng trường hợp, tránh rập khuôn, máy móc, tránh “cắt mọi thứ bằng
một con dao”, hoặc mù quáng bác bỏ chúng, nhưng cũng không để xảy ra sự cẩu thả
trong hành động, nôn nóng tìm cách làm tất cả ngay một lúc.
Việc tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc được đẩy mạnh từ sau
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XV) khi đưa ra “Quyết định về một số vấn đề lớn trong
cải cách và phát triển Doanh nghiệp nhà nước”. Quyết định này đưa ra một định
hướng mới “thực hiện điều chỉnh mang tính chiến lược đối với kinh tế nhà nước và
cải tổ Doanh nghiệp nhà nước”.
Trong quyết định này đã chỉ rõ những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước hoạt động
là những ngành liên quan đến an ninh quốc gia, độc quyền tự nhiên, sản xuất hàng
hóa công cộng, các doanh nghiệp chủ lực trong các ngành kỹ thuật mới và có tính trụ
cột...
8
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
Thực hiện quyết định này, tỷ trọng khu vực nhà nước của Trung Quốc đã giảm
đáng kể. GDP của Doanh nghiệp nhà nước thuần tuý giảm từ 77,6% năm 1978, xuống
còn 26,5% năm 1997; Doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh trong các lĩnh vực thương
nghiệp bán lẻ, ăn uống công cộng, dịch vụ song vẫn giữ vai trò chi phối ở những
ngành then chốt của nền kinh tế như: dầu mỏ, sản xuất điện, luyện kim, hóa chất, tài
chính, bảo hiểm, vận tải đường sắt, hàng không, viễn thông, dịch vụ y tế...
Về mặt tổ chức quản lý, trong quá trình tái cơ cấu, Trung Quốc rất chú trọng
việc hình thành các công ty lớn, tập đoàn kinh tế dựa trên mô hình công ty mẹ - công
ty con. Việc thành lập các công ty mẹ - công ty con là một trong những biện pháp
giải quyết vấn đề quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp thông qua việc tham gia
vào công ty với tư cách là cổ đông.
Đa số các Doanh nghiệp nhà nước lớn sau khi tái cơ cấu đều có các công ty con.
Các công ty con này được phép tiếp tục đầu tư vào các công ty khác. Quan hệ giữa
công ty mẹ và công ty con được thực hiện thông qua việc quản lý và nắm giữ phần
vốn khống chế. Công ty mẹ là công ty nắm cổ phần chi phối ở các công ty con về
mặt tài chính và chiến lược phát triển.
Trung Quốc dự định thành lập khoảng 20 - 30 công ty mẹ để quản lý phần vốn
của Nhà nước tại các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các công ty này
hoạt động giống như một quỹ đầu tư và đại diện cho toàn bộ sở hữu của Nhà nước
tại doanh nghiệp. Việc thành lập các công ty này nhằm khắc phục tình trạng “Chính
phủ vừa đá bóng vừa thổi còi” và can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp.
Trung Quốc còn đặc biệt chú trọng xây dựng các tập đoàn kinh tế quốc gia nhà
nước - những thực thể sản xuất - kinh doanh mạnh, có quy mô rất lớn, có trình độ kỹ
thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến, có đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước
và quốc tế. Về cơ cấu tổ chức, đây là một tổ hợp các doanh nghiệp liên kết với nhau
trong hoạt động sản xuất - kinh doanh trên nguyên tắc liên kết kinh tế theo mô hình
“công ty mẹ - công ty con”, kinh doanh đa ngành hoặc đơn ngành.
Trong cơ cấu tập đoàn có cả các công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân, tùy
hoàn cảnh cụ thể, có thể còn có cả các đơn vị sự nghiệp. Tập đoàn có 2 loại hình chủ
yếu là:
- Tập đoàn mà công ty mẹ chủ yếu thực hiện chức năng kinh doanh vốn và quản
lý về chiến lược mà không trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất - kinh doanh.
- Tập đoàn mà công ty mẹ vừa thực hiện chức năng quản lý vốn, vừa thực hiện
chức năng sản xuất - kinh doanh.
Nhờ những lợi thế về quy mô, tập đoàn đóng vai trò quan trọng trong một số
ngành kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, các tập đoàn được thành lập bằng
biện pháp hành chính đã gặp phải những bất lợi vốn có hay sự can thiệp hành chính,
do vậy mà có kết quả kinh doanh không mấy khả quan.
9
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Chủ trương của Đảng về quá trình đổi mới, phát triển Doanh nghiệp nhà
nước
Từ tháng 8/1979, trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ
6 khóa IV Đảng ta đã phê phán cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và
đề ra phương hướng cải tiến quản lý đối với Doanh nghiệp nhà nước (khi đó gọi là
Xí nghiệp quốc doanh) mở rộng quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho doanh
nghiệp.
Nhưng chỉ đến Đại hội VI của Đảng (12/1986), đường lối đổi mới toàn diện nền
kinh tế mới được đề ra, trong đó có phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đó là, đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh
có quyền tự chủ, thật sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại
trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế; sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cở sở vật
chất – kỹ thuật để nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng và hiệu quả. Về đổi mới
cơ chế quản lý, Nghị quyết đại hội chỉ ra rằng: Các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập
thể là những đơn vị sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa, có quyền tự chủ sản xuất
kinh doanh, tự chủ về tài chính. Các tập thể lao động thật sự có vai trò của người làm
chủ trong việc tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh.
Hội nghị Trung ương 3 (Khóa VI) năm 1987 khẳng định “Phải thực hiện chế độ
tự chủ sản xuất kinh doanh đối với đơn vị kinh tế cơ sở… đi đôi với việc đổi mới
một bước cơ bản về chính sách, phương thức hoạt động và tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước nhằm tạo môi trường kinh doanh cho các đơn vị kinh tế cơ sở…”
Nghị quyết Đại hội VII tiếp tục chỉ rõ: trong cơ chế thị trường “các đơn vị kinh
tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp
tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh
tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu
quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh
tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ
chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động
kinh tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội”.
Đại hội đã chỉ ra những công tác lớn cần tập trung tiến hành: “Khẩn trương sắp
xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, đảm bảo kinh tế quốc doanh phát triển
có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở trọng
điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc
dân. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và
10
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
không có khả năng vươn lên, sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù
hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Tổng kết việc thực hiện các cơ chế, chính sách cần thiết để giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, quan hệ giữa Nhà nước và xí
nghiệp quốc doanh, quan hệ giữa tổ chức đảng, đoàn thể với giám đốc. Tiến hành
việc giao vốn và áp dụng rộng rãi các hình thức khoán trong xí nghiệp quốc doanh.
Sớm ban hành quy chế về doanh nghiệp quốc doanh. Xây dựng một số công ty hoặc
liên hiệp xí nghiệp lớn, có uy tín và khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với
nước ngoài”.
Đại hội VIII của Đảng năm 1996 tiếp tục khẳng định: Tôn trọng và phát huy
đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Các cơ
quan hành chính không can thiệp vào những việc thuộc chức năng quản trị kinh
doanh của doanh nghiệp.
Lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá
hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh; lấy kết quả việc thực hiện các chính sách xã
hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích. Đổi mới
và tăng cường hoạt động của kinh tế nhà nước trong lĩnh vực phân phối lưu thông.
Phát huy vai trò trung tâm kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa – xã hội của Doanh
nghiệp nhà nước trong nông, lâm, ngư nghiệp, nhất là miền núi, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc ít người.
Triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước để
huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả,
làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân hóa. Bên cạnh
những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều Doanh nghiệp nhà nước nắm
đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối. Gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người
lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp tùy từng
trường hợp cụ thể; vốn huy động phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tổ chức hợp lý các tổng công ty, bảo đảm vừa tránh phân tán lực lượng, vừa chống
độc quyền hoặc trở thành cấp hành chính trung gian. Đổi mới cơ chế, chính sách
quản lý Doanh nghiệp nhà nước.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kinh tế nhà nước
phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là
công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà
nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu
gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực
hiện chế độ quản lý công ty đối với doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng công ty trách
nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước và công ty cổ phần có vốn Nhà nước;
giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn với
11
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
quyền tự chủ trong kinh doanh; quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với Doanh nghiệp nhà nước để tạo động
lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xóa bao cấp; doanh nghiệp cạnh
tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh; nộp đủ
thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp
về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp”.
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 3 (Khóa IX) đã ra Nghị
quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà
nước.
Quan điểm chỉ đạo đối với Doanh nghiệp nhà nước (gồm Doanh nghiệp nhà
nước giữ 100% vốn và Doanh nghiệp nhà nước giữ cổ phần chi phối) phải không
ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền
kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô,
làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội
nhập kinh tế quốc tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của Doanh nghiệp nhà nước
phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội; trong đó lấy suất sinh lời
trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh
nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ
yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.
Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để Doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế theo pháp luật. Bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với những ngành,
lĩnh vực sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần
thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xóa
bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những
ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên phát triển. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan
đại diện quyền chủ sở hữu của Nhà nước với chức năng điều hành sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách
nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp…
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của Doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao
động và vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp. Các chủ trương của
Đảng đối với quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tăng cường
dần cho đến mức sát với cơ chế của doanh nghiệp các thành phần kinh tế khác, nhưng
Doanh nghiệp nhà nước vẫn kém hiệu quả, nhiều thất thoát lãng phí, tham nhũng đã
làm sói mòn vai trò của Doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả vốn đầu tư của Nhà
12
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
nước. Thấy rõ dần là do Doanh nghiệp nhà nước đơn sở hữu nên đã mở rộng dần đa
sở hữu từ vay vốn người lao động nhưng không tham gia quản lý; bán cổ phần cho
người lao động để nâng cao sự nhiệt tình của họ trong việc tham gia quản lý doanh
nghiệp, đến bán cổ phần cho nhà đầu tư tiềm năng để họ tham gia quản lý doanh
nghiệp; từ chỗ Nhà nước giữ cổ phần chi phối đến không chi phối và bán 100%...
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (Khóa IX) khẳng định quyết tâm của Đảng
và Chính phủ về tiếp tục đổi mới Doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy nhanh tiến trình
cổ phần hóa Doanh nghiệp nhà nước.
Đại hội lần thứ X của Đảng (4/2006) tiếp tục nêu cao quan điểm tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước: “Hoàn thiện cơ chế,
chính sách để các Doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh
tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xoá bỏ độc quyền và đặc quyền sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có quyền tài
sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật. Gắn trách
nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động
của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi đáp ứng tốt yêu cầu quản lý
công ty theo chế độ hiện đại.
Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là cổ phần hoá. Cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào
một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của
nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty nhà nước. Việc xác định giá trị Doanh
nghiệp nhà nước được cổ phần hoá, kể cả giá trị quyền sử dụng đất, phải theo cơ chế
thị trường. Đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực trong quá trình cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước.
Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự
tham gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo
hiểm, các quỹ đầu tư..., trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối”.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (1/2011) tập trung vào công tác “Đẩy mạnh đổi
mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn
trương cơ cấu lại ngành nghề kinh doanh của các tập đoàn kinh tế và các tổng công
ty nhà nước, tập trung vào một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Từng
bước xây dựng các doanh nghiệp mang tầm khu vực và toàn cầu. Xác định đúng đắn,
cụ thể hơn quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng quản trị và giám đốc doanh nghiệp
đối với vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, vừa bảo đảm quyền chủ động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vừa bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và
tài sản nhà nước”.
Gần đây nhất, Đại hội lần thứ XII của Đảng (1/2016) đặt ra phương hướng
“Thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại Doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu
13
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
quả hoạt động theo cơ chế thị trường, bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực quan trọng; xác định rõ danh
mục và tăng cường tiềm lực, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà Nhà nước
cần nắm giữ 100% vốn và cần nắm giữ cổ phần chi phối. Đẩy mạnh thoái vốn đầu tư
ngoài ngành, cổ phần hoá và bán hết phần vốn nhà nước trong các doanh nghiệp mà
Nhà nước không cần nắm giữ theo cơ chế thị trường; sử dụng một phần số tiền thu
được cho đầu tư phát triển. Tăng cường quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu
đối với Doanh nghiệp nhà nước. Bố trí đúng cán bộ lãnh đạo, nâng cao năng lực quản
trị và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phân định rõ hoạt động sản
xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường với thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao về
đảm bảo hàng hóa, dịch vụ cần thiết, công ích, quốc phòng, an ninh bằng hình thức
Nhà nước đặt hàng. Xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế thị
trường và thông lệ quốc tế. Nghiên cứu mô hình quản lý phù hợp của chủ sở hữu nhà
nước đối với Doanh nghiệp nhà nước và vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp”.
Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết số 12-
NQ/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa XII) về tiếp
tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 phê duyệt Đề án
“Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà
nước giai đoạn 2016 – 2020” để làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương phê duyệt
và triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại từng Doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp có vốn nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý giai đoạn 2016 – 2020.
Tại Nghị quyết số 12-NQ/TW, vai trò của Doanh nghiệp nhà nước đối với nền
kinh tế tiếp tục được khẳng định. Theo đó, Doanh nghiệp nhà nước “là một lực lượng
vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Đồng thời, là công cụ quan trọng để bảo đảm
thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với
những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước; thực hiện
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Do đó, nhiệm vụ cổ phần hóa, thoái vốn đối với Doanh nghiệp nhà nước vẫn
được xem là nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước,
duy trì nâng cao hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước… Trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp 4.0, việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp nhà
nước càng được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi quyết tâm cao và các giải
pháp quyết liệt, đột phá hơn để hoàn thành mục tiêu đề ra.
2. Thực trạng hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta giai đoạn
2015 – 2017
Tại thời điểm ngày 31/12/2017, Khu vực Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta có
2.486 doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh (trong đó khu vực
14
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có 1.204), chiếm 0,4% số doanh nghiệp cả nước,
giảm 6,6% so với cùng thời điểm năm 2016; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước
có 541.753 doanh nghiệp, chiếm 96,7% số doanh nghiệp cả nước, tăng 10,9%; khu
vực FDI có 16.178 doanh nghiệp, chiếm 2,9% số doanh nghiệp cả nước, tăng 15,5%.
Doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản
xuất kinh doanh tại thời điểm 31/12/2017
600000
541753
500000
400000
300000
200000
100000
16178
Doanh nghiệp FDI
2486
0
Doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp ngoài nhà
nước
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bình quân giai đoạn 2016 – 2017 khu vực Doanh nghiệp nhà nước có số doanh
nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh có 2574 doanh nghiệp, chiếm
0,5%, giảm 17,4%.
Tại thời điểm 31/12/2017, số lao động làm việc trong khu vực Doanh nghiệp
nhà nước là 1,2 triệu người (trong đó lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp
100% vốn nhà nước là 704,6 nghìn người) chiếm 8,3% lao động của toàn bộ khu vực
doanh nghiệp, giảm 6,5% so với năm 2016; trong khi đó, khu vực doanh nghiệp
ngoài nhà nước hiện thu hút nhiều lao động nhất với 8,8 triệu lao động, chiếm 60,6%,
tăng 2,7%; khu vực doanh nghiệp FDI thu hút 4,5 triệu lao động, chiếm 31,1%, tăng
8,6%.
Về nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh: năm 2017, khu vực Doanh nghiệp nhà
nước chủ yếu gồm các doanh nghiệp có quy mô lớn nên vốn thu hút vào sản xuất
kinh doanh đạt 9,5 triệu tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn của toàn bộ khu vực doanh
nghiệp, tăng 19,2% so với năm 2016.
15
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
Về doanh thu: Khu vực Doanh nghiệp nhà nước năm 2017 đạt 3,1 triệu tỷ đồng,
chiếm 15,1%, tăng 9,1%. Tính chung trong giai đoạn 2016 – 2017, khu vực Doanh
nghiệp nhà nước tạo ra xấp xỉ 3 triệu tỷ đồng, chiếm 15,7%, tăng 5% (trong đó khu
vực doanh nghiệp 100% vốn nhà nước tạo ra 1,92 triệu tỷ đồng, chiếm 10,1%, tăng
8,2%)
Về lợi nhuận: Năm 2017, khu vực Doanh nghiệp nhà nước tạo ra 200,9 nghìn
tỷ đồng lợi nhuận, chiếm 22,9%, tăng 1,8% (trong đó khu vực doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước tạo ra 124,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 14,2%, tăng 10,1%). Tính bình
quân giai đoạn 2016 – 2017, mỗi năm khu vực Doanh nghiệp nhà nước tạo ra 199
nghìn tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, chiếm 25,1% tổng lợi nhuận trước thuế của
toàn bộ khu vực doanh nghiệp, tăng 15,8% so với bình quân giai đoạn 2011 – 2015
(trong đó khu vực doanh nghiệp 100% vốn nhà nước tạo ra 119,2 nghìn tỷ đồng,
chiếm 15%, tăng 19%).
Bảng 1. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
năm 2017
Hiệu suất Chỉ số nợ
Chỉ số
quay vòng sinh lợi
Hiệu suất
Hiệu
suất sinh
lời trên
doanh
thu thuần
(ROS)
(%)
sử dụng
lao động
(Lần)
(Lần)
vốn
trên tài
sản
(ROA)
(%)
(Lần)
Khu vực DN
Nhà nước
18,0
15,5
12,3
4,1
2,3
1,6
0,3
0,7
1,1
2,2
1,8
7,0
6,4
2,5
6,6
Khu vực DN
ngoài nhà nước
Khu vực DN FDI
Nguồn: Tổng cục thống kê
Khu vực Doanh nghiệp nhà nước có hiệu suất sử dụng lao động cao hơn khu
vực doanh nghiệp FDI, trong đó khu vực Doanh nghiệp nhà nước có hiệu suất sử
dụng lao động đạt 18 lần, tiếp đến là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 15,5 lần
và thấp nhất là khu vực doanh nghiệp FDI với 12,3 lần.
Giai đoạn 2016 – 2017, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện đúng chủ
trương phát triển kinh tế của Nhà nước, khu vực Doanh nghiệp nhà nước giảm dần
cả về quy mô và tỷ lệ đóng góp. Quy mô và tỷ lệ đóng góp của khu vực doanh nghiệp
16
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
ngoài nhà nước và khu vực doanh nghiệp FDI đều tăng và tiếp tục tăng trong thời
gian tới. Thực hiện chủ trương cổ phần hóa và đổi mới, sắp xếp lại của Nhà nước,
nên khu vực Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục xu hướng giảm dần quy mô và tỷ lệ
đóng góp ở tất cả các chỉ tiêu trong giai đoạn 2016 – 2017. Tỷ lệ số doanh nghiệp
khu vực nhà nước đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh trong tổng số doanh
nghiệp từ 0,82% bình quân giai đoạn 2011 – 2015 giảm xuống còn 0,48% bình quân
giai đoạn 2016 – 2017; số lao động giảm từ 12,9% xuống 8,7%; nguồn vốn từ 32,3%
xuống 28,7%; doanh thu từ xấp xỉ 23% xuống 15,7%. Trong đó, khu vực doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước có các chỉ tiêu tương ứng như sau: Tỷ lệ số doanh nghiệp
khu vực nhà nước đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh trong toàn bộ doanh
nghiệp bình quân giai đoạn 2011 – 2015 từ 0,41% giảm xuống còn 0,23% bình quân
giai đoạn 2016 – 2017; số lao động giảm từ 7,9% xuống 5,1%; nguồn vốn từ xuất xỉ
21% xuống 14,7%; doanh thu từ 14,3% xuống 10,1%
Trong 10 năm trở lại đây, mô hình tổ chức của các tập đoàn, các tổng công ty
nhà nước được hình thành, cấu trúc lại, đặc biệt là đợt thay đổi mô hình vào năm
2010.Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, các tập đoàn, các tổng công ty
nhà nước được hình thành bằng hình thức tập hợp các doanh nghiệp nhà nước sản
xuất kinh doanh cùng ngành, cùng lĩnh vực nhằm tạo ra ưu thế về quy mô vốn, nguồn
lực con người, kỹ thuật và các nguồn lực kinh doanh khác. Đây là mô hình tổ chức
chung của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước trong giai đoạn đầu.
Trong 5 năm trở lại đây, các tập đoàn, các tổng công ty tiếp tục đầu tư bằng
nguồn vốn của mình để hình thành các doanh nghiệp mới hoặc mua lại cổ phần với
tỷ lệ vốn nhất định tại các công ty khác. Nếu Điều lệ tổ chức của các doanh nghiệp
không có vốn chi phối của nhà nước thì Điều lệ tổ chức, hoạt động sẽ do Đại hội cổ
đông, Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên soạn thảo ban hành theo quy định của
pháp luật, sau đó đăng ký thực hiện. Riêng doanh nghiệp nhà nước lại do cơ quan
nhà nước ban hành. Tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Công nghiệp
Than - Khoáng sản Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành nêu: Tổ hợp công
ty mẹ - công ty con Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là nhóm
công ty không có tư cách pháp nhân bao gồm: Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng
sản Việt Nam (doanh nghiệp cấp I); các công ty con của Tập đoàn Công nghiệp Than
- Khoáng sản Việt Nam (doanh nghiệp cấp II); các công ty con của doanh nghiệp
cấp II (doanh nghiệp cấp III); các công ty liên kết của Tập đoàn Công nghiệp Than
- Khoáng sản Việt Nam. Mô hình tổ chức này là mô hình tổ chức chung áp dụng tại
toàn bộ các tập đoàn, các tổng công ty nhà nước hiện nay ở Việt Nam. Điều này lại
vừa được thể hiện trong Luật Doanh nghiệp năm 2014. Đó là mô hình tổ chức công
ty mẹ - công ty con, được chia thành nhiều tầng, nhiều nấc quản lý với các khái niệm
công ty mẹ, công ty con, công ty thành viên, công ty liên kết... trong đó công ty mẹ
đương nhiên trở thành đại diện vốn nhà nước ở các công ty con, công ty thành viên
bằng nghiệp vụ hạch toán vốn của các công ty này về công ty mẹ. Được đầu tư vốn
17
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
từ công ty mẹ, được chia sẻ thương hiệu và quyền kinh doanh trong các lĩnh vực của
công ty mẹ; song theo Luật Doanh nghiệp, các công ty này cũng là các doanh nghiệp,
là các tế bào của nền kinh tế. Do đó, ngoài quan hệ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
liên quan đến vốn đầu tư, các quan hệ kinh tế khác phải được thực hiện qua hợp đồng
kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc tập đoàn, tổng công ty, đặc biệt là các doanh nghiệp
thuộc diện cổ phần, hoàn toàn có quyền tự chủ kinh doanh trên nguyên tắc bảo toàn
và phát triển vốn của các nhà đầu tư. Đây cũng là tinh thần mà Luật pháp về doanh
nghiệp hướng tới và khuyến khích.
Tuy nhiên, bên cạnh một số mặt tích cực, nhiều đơn vị Doanh nghiệp nhà nước
lỗ lớn, âm vốn chủ sở hữu, có nguy cơ ngừng hoạt động hoặc giải thể. Theo Kiểm
toán Nhà nước vừa công bố kết quả kiểm toán các Doanh nghiệp nhà nước năm 2016,
nhiều doanh nghiệp lỗ lớn thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam (Vicem). Cụ thể
Vicem Tam Điệp lỗ 1.156 tỷ đồng, Vicem Hải Phòng 359 tỷ đồng. Tập đoàn Bưu
chính viễn thông Việt Nam cũng có một số doanh nghiệp trực thuộc nằm trong tình
cảnh tương tự. Cụ thể, Công ty cổ phần vật liệu Bưu điện Việt Nam lỗ 53,3 tỷ đồng.
Công ty cổ phần phát triển dịch vụ học tập và giải trí trực tuyến VDC-NET2Elỗ 26,9
tỷ đồng. Công ty TNHH sản xuất thiết bị viễn thông (TELEQ) lỗ 22,5 tỷ đồng...Tập
đoàn Cao su Việt Nam (VRG) cũng có Công ty cổ phần Thương mại, dịch vụ và du
lịch cao su lỗ 317,9 tỷ đồng. Công ty cổ phần Đầu tư và phát triển nhà Hà Nội số 68
(trực thuộc Handico) lỗ 52,3 tỷ đồng. Công ty cổ phần Thủy điện Sông Vàng (trực
thuộc Lilama) lỗ 94,3 tỷ đồng. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp trực thuộc doanh nghiệp
nhà nước bị âm vốn chủ sở hữu. Công ty liên doanh Sakura Hà Nội Plaza (trực thuộc
Tổng công ty Vận tải Hà Nội) âm 168,7 tỷ đồng - lỗ trước khi bàn giao về Tổng công
ty. Công ty TNHH một thành viên Petrolimex Singapore (trực thuộc Petrolimex) âm
1.335,2 tỷ đồng. Công ty cổ phần hàng không Jetstar Pacific Airlines (thuộc Vietnam
Airlines) âm 129 tỷ đồng. Công ty TNHH Du lịch và Thương mại Hoàn Kiếm và
Công ty cổ phần du lịch và thương mại Dân chủ (thuộc Tổng công ty du lịch Hà Nội)
âm là 79,2 và 51,83 tỷ đồng. Công ty tài chính TNHH một thành viên Bưu điện
(thuộc VNPT) âm 43,1 tỷ đồng.
Kiểm toán Nhà nước cũng cho biết có không ít các khoản đầu tư tài chính của
một số doanh nghiệp có vốn nhà nước đạt hiệu quả thấp. Thí dụ, Tổng công ty cổ
phần Bảo hiểm Bưu điện (PTI) đầu tư vào 3 công ty liên kết gần 123 tỷ đồng với tỷ
lệ cổ tức bình quân năm 2015 là 1,34%. Ngoài ra, PTI cũng đầu tư dài hạn vào 7
doanh nghiệp khác hơn 57 tỷ đồng, tỷ lệ cổ tức bình quân năm 2015 chỉ là 0,48%.
Các khoản đầu tư của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)vào
các dự án Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên, Công ty Bột giấy Phương Nam,
Công ty cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh, Công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng,
Công ty cổ phần Nhiệt điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh đều không hiệu quả. Đáng chú ý,
ngành Công Thương có 12 dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả, làm
ăn thua lỗ, điển hình là nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, dự án nhà máy gang thép
18
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
Thái Nguyên giai đoạn 2, nhà máy nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất, nhà
máy đạm Ninh Bình... Tổng tài sản của 12 nhà máy là hơn 57.600 tỷ đồng, thì tổng
nợ phải trả là hơn 55.000 tỷ đồng. Những tập đoàn lớn khác như Dầu khí, Than, Điện
lực, Hóa chất liên tục có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng, tình trạng nợ xấu,
tình trạng đình trệ sản xuất...
3. Đánh giá thực trạng hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
hiện nay
3.1. Thành tựu
Thứ nhất, theo báo cáo của Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp,
sau 15 năm sắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 Khóa IX, doanh
nghiệp nhà nước đã giảm mạnh về số lượng.
Thứ hai, về cơ bản, doanh nghiệp nhà nước đã tập trung vào những ngành, lĩnh
vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc
phòng, an ninh.
Thứ ba, mặc dù còn nhiều yếu kém, song hiệu quả hoạt động kinh doanh của
Doanh nghiệp nhà nước về tổng thể đã được nâng lên so với trước xét trên tất cả các
mặt. Các chỉ số về hiệu suất vốn, lãi tuyệt đối, số nộp ngân sách Nhà nước, tỷ lệ nộp
ngân sách Nhà nước trên vốn mặc dù thấp hơn nhiều so với các khu vực khác nhưng
so với thời kỳ trước đã có sự cải thiện đáng kể.
Thứ tư, cơ chế quản lý Nhà nước đối với Doanh nghiệp nhà nước và cơ chế
quản lý Doanh nghiệp nhà nước từng bước được xác lập và hoàn thiện.
Thứ năm, quá trình thực hiện đa dạng hóa sở hữu (cổ phần hóa, bán, khoán, cho
thuê và giao doanh nghiệp) mặc dù tiến hành chậm nhưng đã có sự triển khai mạnh
các giải pháp chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là cổ phần hóa.
3.2. Hạn chế
Một là, quá trình sắp xếp, tái cơ cấu còn chậm, hiệu quả sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước còn thấp so với nguồn lực đang nắm giữ. Trên thực tế,
những hạn chế, yếu kém của khối doanh nghiệp nhà nước đã được chỉ ra từ lâu,
nhưng qua nhiều nhiệm kỳ vẫn chậm có sự chuyển biến, thậm chí có mặt còn trầm
trọng hơn.
Hai là, thực tế cho thấy, tại các Doanh nghiệp nhà nước không phải lúc nào hoạt
động kinh doanh cũng diễn ra phù hợp với quy luật thị trường. Điều đầu tiên nhận
thấy, mô hình tổ chức này tạo ra cơ cấu tổ chức và bộ máy quản lý, điều hành rất
cồng kềnh, nhiều tầng, nấc...Mô hình tổ chức nhiều tầng, nhiều nấc như hiện nay
(chưa tính đến sự quản lý của nhà nước) tạo ra nhiều bất cập trong quản lý, điều hành.
Ba là, về mặt pháp lý, các doanh nghiệp con, doanh nghiệp thành viên có đủ
điều kiện để tự chủ và độc lập phát triển. Chính sự phát triển độc lập, tự chủ của công
19
Tiểu luận Những vấn đề KTCT của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Văn Công Vũ
ty con, công ty thành viên tạo ra những mâu thuẫn trong mối quan hệ quản lý, điều
hành đối với công ty mẹ (tập đoàn, tổng công ty). Để khẳng định vị trí, vai trò lãnh
đạo, kiểm soát của bộ máy tập đoàn, tổng công ty, đồng thời hướng tới xử lý các mẫu
thuẫn, mô hình tổ chức này đã tạo ra mối quan hệ và phương thức quản lý theo hình
thức cấp trên, cấp dưới, tạo ra mối quan hệ xin - cho (phân cấp từng phần). Mặc dù
pháp luật về doanh nghiệp không quy định nội dung này nhưng những mối quan hệ
này đã được quy định hóa bằng hệ thống những quy chế nội bộ, quy chế phân cấp
trong bộ máy tổ chức, trong đầu tư, trong sản xuất kinh doanh, trong hoạt động quản
lý, điều hành và trở thành mối quan hệ mang tính hành chính, trở thành rào cản cho
sự hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thành viên, công ty con.
Trong mô hình tổ chức các tập đoàn, các tổng công ty hiện này, cấp trên - công ty
mẹ (công ty có vốn đầu tư trên 50%), được quyết định về nhân sự, vốn, chiến lược
kinh doanh của công ty con mà không có cơ chế chịu trách nhiệm. Mặc dù có đủ bộ
máy điều hành theo quy định của pháp luật nhưng công ty con - cấp dưới, muốn làm
công tác tổ chức, muốn được mở rộng kinh doanh, huy động vốn, cải tiến công nghệ...
đều phải có tờ trình, kế hoạch xin ý kiến cấp trên - công ty mẹ, được cấp trên đồng ý
mới được thực hiện. Thậm chí, một số doanh nghiệp không được hoạt động độc lập
theo đúng tinh thần doanh nghiệp mà phải hoạt động dưới hình thức ủy quyền, ủy
quyền từng phần (công ty 100% vốn đầu tư của công ty mẹ). Cũng có những trường
hợp, có hợp đồng kinh tế, dự án kinh tế do công ty con khai thác, thực hiện nhưng
theo quy định quản lý, phân cấp nội bộ, công ty con không được trực tiếp ký kết mà
phải để công ty mẹ ký kết rồi giao lại cho công ty con thực hiện. Phần lợi nhuận sẽ
do công ty mẹ thụ hưởng mặc dù công ty mẹ không trực tiếp thực hiện, công ty con
chỉ được hưởng theo định mức do công ty mẹ quy định. Những diễn biến như vậy là
trái với tinh thần của Luật Doanh nghiệp, nó thể hiện ý chí áp đặt, nó tạo ra môi
trường kinh doanh “thân hữu” không bình đẳng, không minh bạch, môi trường kinh
doanh mà các bên có khả năng và nhu cầu không trực tiếp gặp nhau, làm tăng thêm
các chi phí trung gian, tính trách nhiệm không rõ ràng, gây thất thoát và lãng phí.
Bốn là, một số cơ chế, chính sách ban hành chậm so với kế hoạch đề ra; việc
xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sử dụng đất theo quy định
của pháp luật trước khi quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp chưa đúng tiến độ.
Hiệu quả sản xuất – kinh doanh và đóng góp của một số Doanh nghiệp nhà nước còn
thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; một số dự án của Doanh
nghiệp nhà nước còn thua lỗ, thất thoát vốn lớn (12 dự án của ngành Công thương).
Cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, chưa phù hợp với
các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế. Việc thực
hiện cơ chế xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra sai phạm cũng như việc
xử lý các hành vi vi phạm về giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động đối với Doanh
nghiệp nhà nước chưa đầy đủ, nghiêm túc.
20
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Đổi mới hoạt động của Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tieu_luan_doi_moi_hoat_dong_cua_doanh_nghiep_nha_nuoc_trong.docx