Tiểu luận môn Kinh tế vi mô I - Chủ đề: Phân tích cung, cầu lao động ngành dệt may ở Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI  
KHOA MARKETING  
----------  
TIỂU LUẬN  
HỌC PHẦN KINH TẾ VI MÔ I  
Chủ đề: “Phân tích cung, cầu lao động ngành dệt may ở Việt Nam”  
Nhóm  
: 12  
Lớp hành chính  
Giảng viên hướng dẫn  
: K56LQ  
: Nguyễn Thị Lệ  
Nội, tháng 12 năm 2020  
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ NHÓM 12  
Đánh  
giá  
STT Họ và tên  
Nhiệm vụ  
Ghi chú  
Đặc điểm của tuyển dụng lao  
động  
Hoàn  
thành  
112 Đào Thị Bích Thùy  
Giá tác động  
đến thuê lao động  
Hoàn  
thành  
113 Nguyễn Thị Thùy  
114 Nguyễn Thị Thùy  
115 Mai Quang Tiến  
Công nghệ tác  
động tới cầu lao động  
Hoàn  
thành  
Kinh nghiệm thâm niên lao  
động  
Lọc thông tin làm Powerpoint,  
Thuyết trình  
Hoàn  
thành  
Nhóm  
trưởng  
Diễn biến tiền lương và tác  
116 Nguyễn Thị Mai Trang động của  
thay đổi tiền lương tối thiểu  
Hoàn  
thành  
Tìm thông tin trình độ lao động,  
làm Powerpoint  
Hoàn  
thành  
117 Nguyễn Thị Thu Trang  
Tổng hợp, chỉnh sửa nội dung  
118 Nguyễn Thị Thu Trang bài tiểu luận, làm Word,  
đưa ra giải pháp và khuyến nghị  
Hoàn  
thành  
Nhóm  
trưởng  
Nguyễn Thị Thùy  
Trang  
Biến động cầu lao động, cân  
bằng thị trường lao động  
Hoàn  
thành  
119  
Đào tạo lao động, Làm  
powerpoint  
Hoàn  
thành  
120 Phạm Quỳnh Trang  
0
MỤC LỤC  
1
A.LỜI MỞ ĐẦU  
Ngành công nghiệp Dệt May là một ngành có truyền thống lâu đời ở Việt Nam và  
một ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Thực tế các  
năm qua đã chứng minh điều này. Sản xuất của Ngành tăng trưởng nhanh ; kim ngạch xuất  
khẩu không ngừng gia tăng với nhịp độ cao, thị trường luôn được mở rộng, tạo điều kiện  
cho nền kinh tế phát triển góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu theo hướng có tích lũy.  
Hơn nữa, sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May còn có tác động tích cực  
trong việc giải quyết việc làm và thu nhật cho người lao động, qua đó góp phần giải quyết  
tình trạng thất nghiệp ổn định hội. Ngành dệt may đang đào tạo việc làm cho khoảng  
3 triệu nguồn lao động, chiếm 10% tỉ lệ lao động của cả nước. Điều này có ý nghĩa hết sức  
quan trọng, thể hiện tính ưu việt của ngành này khi kinh tế đang còn kém phát triển, khả  
năng đầu tư giải quyết việc làm còn hạn chế. Sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May  
còn có tác động tích cực đến sự phát triện của một số ngành khác, chẳng hạn như việc chuyển  
đổi cơ cấu cây trồng ở một số vùng, nâng cao mức sống thu nhập cho người dân, góp phần  
tích cực vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc trong quá trình chuyển  
đổi cơ chế kinh tế thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa.  
Với sự phát triển của công nghệ kĩ thuật, đội ngũ lao động có tay nghề ngày càng  
chiếm tỉ lệ lớn sự ưu đãi từ các chính sách nhà nước, ngành dệt may đã thu được nhiều  
kết quả đáng khích lệ, vừa tạo ra giá trị hàng hóa xuất khẩu, vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng  
trong nước xuất khẩu. Dệt may Việt Nam đứng thứ 2 trong nhóm 10 hàng xuất khẩu lớn  
nhất Việt Nam, 90% sản phẩm dệt may Việt Nam dùng để xuất khẩu. Trong 2019 tổng kim  
ngạch xuất khẩu của ngành đạt 39 tỷ USD đóng góp 10-15% GDP.  
sử dụng nguồn lao động đông đảo nhất trong các ngành sản xuất, giá trị xuất khẩu  
lớn thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước nhưng cung và cầu lao động vẫn chưa  
đáp ứng được nhu cầu thị trường ngành hiện nay.  
Bài tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích các yếu tố tác động đến cung và cầu lao  
động ngành dệt may Việt Nam để chỉ ra những điểm mạnh thiếu sót của ngành dệt may  
hướng tới giải pháp trong tương lai.  
2
 
B.NỘI DUNG  
Chương I: CƠ SỞ THUYẾT  
1. Cầu về lao động  
a, Khái niệm: Cầu về lao động số lượng lao động mà doanh nghiệp muốn thuê và có khả  
năng thuê tại các mức tiền công khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định (giả định  
các yếu tố khác không đổi).  
b, Các yếu tố tác động đến cầu  
Giá sản phẩm đầu ra: Khi giá sản phẩm đầu ra tăng lên làm cho doanh thu cận biên của  
doanh nghiệp tăng, kết quả sản phẩm doanh thu cận biên của lao động tăng và thu hút  
được nhiều lao động tham gia ngành dệt may hơn.  
Thay đổi công nghệ: Tiến bộ về công nghệ làm tăng sản phẩm cận biên của lao động  
do đó làm tăng sản phẩm doanh thu cận biên và làm cho đường cầu lao động dịch chuyển  
sang phải.  
Mức tiền lương trả cho người lao động thay đổi: Khi tiền công của lao động tăng lên,  
số người lao động sẵn sàng tham gia lao động tăng lên nhưng daonh nghiệp lại thuê ít lao  
động hơn. Mức tiền lương trả cho người lao động thay đổi sẽ dẫn tới sự trượt dọc trên đường  
cầu về lao động.  
2. Cung về lao động  
a. Khái niệm  
Cung lao động lượng lao động người lao động sẵn sàng và có khả năng cung  
ứng tại các mức tiền công khác nhau trong một giai đoạn nhất định (giả định tất cả các yếu  
tố dầu vào khác không đổi).  
3
       
b. Cung lao động cá nhân  
Mỗi người lao động một chủ thể cung ứng sức lao động trên thị trường. Cung về  
lao động của cá nhân phụ thuộc vào các yếu tố sau:  
- Các áp lực về mặt tâm lý, xã hội  
-
-
-
Áp lực về mặt kinh tế  
Phạm vi thời gian: Chia thời gian trong ngày thành giờ nghỉ ngơi và lao động  
Tiền công: Tiền công tăng lên gây ra 2 hiệu ứng đối với người lao động và làm cho  
đường cung lao động dạng hình cong vòng ra đằng sau.  
c. Cung lao động của ngành  
Cung lao động của ngành là sự cộng theo chiều ngang đường cung lao động cá nhân.  
Đường cung lao động của ngành là một đường độ dốc dương  
3. Tiền lương tối thiểu  
Khái niệm: Tiền lương tối thiểu mức lương thấp nhất mà chính phủ quy định  
người sử dụng lao động phải trả cho người lao động. Thông thường thì mức lương tối thiểu  
sẽ cao hơn mức lương cân bằng trên thị trường lao động  
- Tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên giá trị của sức lao động và quan hệ cung cầu  
lao động trên thị trường lao động.  
4. Cân bằng thị trường lao động  
Khi thị trường lao động ở trạng thái cân bằng, doanh nghiệp sẽ thuê số lao động mà  
họ cho rằng sẽ đem lại lợi nhuận tại mức tiền công cân bằng. Nghĩa là, doanh nghiệp sẽ thuê  
lao động theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận họ sẽ thuê đến khi doanh thu cận biên của  
lao động bằng với tiền lương thị trường”.  
4
   
Cân bằng thị trường lao động dệt may được xác định tại điểm Eo là giao điểm giữa đường  
cung và đường cầu.  
Chương II: Thực trạng thị trường lao động ngành dệt may  
Việt Nam  
1. Cầu lao động  
1.1. Tuyển dụng lao động  
Đánh giá những tác động của CMCN 4.0 đối với ngành Dệt may Việt Nam, nhiều  
chuyên gia cho rằng, có hai vấn đề, một đầu tư công nghệ 4.0 cần phải có tài chính nhưng  
điều quan trọng nữa phải xây dựng lực lượng lao động đội ngũ 4.0, tức cần có con  
người 4.0 để phát huy được công nghệ mới.  
a,Về chất lượng:  
Nhiều người khi tìm đến việc làm công nhân may còn khá băn khoăn, không biết  
việc làm công nhân có yêu cầu bằng cấp gì không? và đó những loại bằng cấp nào? Nhìn  
chung đối với công việc này không yêu cầu bằng cấp cao, có thì tốt, còn không có sẽ được  
đào tạo trong quá trình làm việc.  
Cùng với vị trí công nhân may, hiện nay các doanh nghiệp cũng có nhu cầu tuyển  
dụng nhiều vị trí công nhân khác như công nhân sản xuất, công nhân khí... Mỗi công việc  
lại có yêu cầu đòi hỏi về trình độ kỹ năng khác nhau nhưng nhìn chung không quá khắt  
khe về bằng cấp, những lao động chưa có kinh nghiệm vẫn sẽ được tuyển được đào tạo  
trong quá trình làm việc. Công nhân sản xuất công nhân khí sẽ phù hợp với nam giới  
nhiều hơn, tuy nhiên nữ giới vẫn sẽ cơ hội ứng tuyển các vị trí làm việc này.  
Làm việc trong ngành sản xuất may mặc đòi hỏi phải sức khỏe tốt. Một số công  
nhân may ngồi làm việc trong nhiều giờ đồng hồ còn công nhân khác lại đứng làm việc hầu  
như suốt ngày, khom người trên bàn và vận hành máy. Công nhân vn hành máy cần chú ý  
5
   
khi chạy máy may, máy ép, máy cắt tự động và các loại máy móc tương tự. Một vài công  
nhân phải mặc/đeo các thiết bị bảo hộ chẳng hạn như gang tay. Trong một số trường hợp,  
máy móc và kỹ thuật sản xuất mới làm giảm nhu cầu thể trạng đối với công nhân. Chẳng  
hạn như, máy ép mới được vận hành bằng bàn đạp chân hoặc điều khiển bằng máy tính,  
không cần mất nhiều sức để vận hành.  
Trong sản xuất, công nhân may cần phối hợp khéo léo giữa tay và mắt, đôi tay nhanh  
nhẹn, sức chịu đựng bền bỉ khả năng thực hiện công việc lặp đi lặp lại trong thời gian dài.  
Công nhân vận hành máy thường được đào tạo công việc bởi một nhân viên có kinh nghiệm  
hơn hoặc đại diện của nhà sản xuất máy móc đó. Khi đã có kinh nghiệm, những công nhân  
này sẽ được phân công những hoạt động khó hơn. Nhưng sự thăng tiến rất hạn chế. Một số  
công nhân trở thành giám sát dây chuyền nhưng hầu hết đều chỉ là công nhân có tay nghề  
cao hơn.  
b, Về số lượng  
Tầm quan trọng những đóng góp của dệt may tới sự thúc đẩy phát triển kinh tế đã  
được chứng minh rõ ràng và dệt may đang ngày càng thể hiện vai trò đầu tàu của mình trong  
thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam.Theo TS. Tạ Văn Cánh, Phó Trưởng khoa Kinh tế - Trường  
đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội đến năm 2025, ngành dệt may Việt Nam sẽ cần thêm  
130.000 lao động có trình độ đại học, cao đẳng. Con số này sẽ tăng lên trên 210.000 vào  
năm 2030. Đặc biệt, nếu tính chất lượng nhân lực để thể đáp ứng các vị trí, quy trình sản  
xuất ngành dệt may theo yêu cầu của CMCN 4.0 thì ngành dệt may đang thiếu một nguồn  
nhân lực chất lượng cao rất lớn.  
Theo ước tính, tốc độ tăng trưởng lao động hằng năm của ngành dệt may đạt từ  
60.000 - 90.000 lao động mới/năm, cao hơn mức trung bình của tất cả các ngành khác. Theo  
dự báo nhu cầu lao động ngành dệt may trong các năm tới vẫn gia tăng. Dự kiến giai đoạn  
2020 - 2025 tăng 8%; giai đoạn từ 2026 - 2030 tăng 6% cho đến khi áp dụng hoàn toàn Cách  
mạng công nghiệp 4.0 trong ngành.  
Tuy hiên sự biến động về lực lượng lao động, nhất vơi đội ngũ công nhân lành  
nghề đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh  
nghiệp, thậm trí làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp  
dệt may với nhau. Nếu như trước đây mức độ biến động thiếu hụt chỉ vào 5% thì nay đã lên  
mức 8-10% . Có doanh nghiệp đã dừng hoạt động cả một truyền sản xuất do thiếu tới cả  
trăm công nhân. Một số doanh nghiệp đã dầu tư xây dựng nhà xưởng mới nhưng không tuển  
dụng đủ số lao động cần thiết gây lãng phí về tiền vốn. nơi đã phát sinh mâu thuẫn nội  
bộ do chế độ áp dụng giữa công nhân và công nhân mới không công bằng dẫn tới đình  
công. Thậm trí đã xuất hiện một số doanh nghiệp dệt may 100% có vốn đầu tư nước ngoài  
do có tiềm lực vốn đã đưa ra chế độ ưu đãi hấp dẫn để thu hút lao động, trong đó cả các  
lao động có tay nghề cao. Mặc đây cạnh tranh tất yếu của cơ chế thị trường mang lại  
6
nhiều lợi ích cho người lao động, nhưng trên thực tế đã gây xáo trộn lớn về lao động, làm  
ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nước quy mô vừa nhỏ.  
Nguyên nhân  
Về phía doanh nghiệp  
Thiếu tính quy hoạch: Theo số liệu của Tổng cục thống kê,đến 31/12/2010 ngành  
công nghiệp dệt may có 3710 doanh nghiệp. Tuy nhiên các doanh nghiệp sự phân bố  
đồng đều giữa các vùng miền tại miền Bắc, nơi tâp trung tới 30% doanh nghiệp, thì các  
doanh nghiệp tập trung chủ yếu tại Nội. Khu vực miền nam chiếm tới 62% lượng doanh  
nghiệp toàn ngành, cũng chủ yếu tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh. Còn khu vực miền  
trung chỉ chiếm 8% lượng doanh nghiệp toàn ngành. Sự tập trung quá cao này dẫn đến sự  
cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác hoặc  
giữa các doanh nghiệp dệt may với nhau  
Thiếu tầm nhìn dài hạn: Hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp có tâm lý người lao  
động phải phụ thuộc vào mình.  
Thiếu tôn trọng người lao động: Không chỉ thu nhập thấp, các chủ doanh nghiệp  
nhất là lao động ở doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài còn ứng xử thiếu tôn trọng với  
người lao động như chửi mắng thậm trí đánh đập công nhân may. Đây cũng những doanh  
nghiệp khi có đơn hàng lớn thì tìm mọi cách lôi kéo, giành giật lao động đang làm việc ở  
đơn vị khác nhưng khi xong hợp đồng lại tìm cách sa thải người lao động. Một số doanh  
nghiệp còn liên tục ép ca, trốn tránh trách nhiệm đảm bảo các quyền lợi về BHXH, BHYT,  
khen thưởng, phúc lợi với người lao động.  
Về phía nhà nước  
Thiếu đồng bộ chưa minh bạch của hệ thống luật pháp  
Thiếu tính định hướng: chính sự cấp hoạt động cho hàng loạt doanh nghiệp một cách  
thiếu tính toán đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp gặp phải vấn đkhan hiếm lao động  
trong thời gian qua.  
Thiếu các chế tài bảo vệ quyền lợi người lao động dẫn tới người lao động bị xâm  
phạm quyền lợi tại các doanh nghiệp, các tổ chức đoàn thể.  
Việc quy định mức lương tối thiểu và ác khu vực áp dụng mức lương chưa hợp lý  
làm cho đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn.  
Theo Công ty tuyển dụng nhân sự cấp trung và cấp cao Navigos Search vừa công bố  
ngày 22/10/2020, Ngành dệt may giảm sâu nhu cầu tuyển dụng, nhân sự đối mặt với nguy  
cơ thất nghiệp cao. Do là ngành bị ảnh hưởng nặng bởi Covid-19, đặc biệt là làn sóng thứ  
hai vào tháng 8, đa số các doanh nghiệp dệt may giảm đáng kể về nhu cầu tuyển dụng. Sự  
sụt giảm này là do sức mua của các khách hàng ngành dệt may tại châu Âu, Mỹ và các thị  
trường khác giảm. Bên cạnh đó, kể từ tháng 2/2020 đến đầu tháng 10/2020, nhiều doanh  
nghiệp trong ngành này thay đổi mặt hàng sản xuất, chuyển đổi từ may quần áo sang may  
khẩu trang và trang phục bảo hộ y tế.  
7
Nhân sự ngành này trong quý 3 cũng phải đối mặt với những khó khăn như giảm giờ  
làm, nghỉ luân phiên, giảm lương tại các công ty có quy mô lớn. Các công ty có quy mô nhỏ  
áp dụng việc cắt giảm lương, cắt giảm nhân sự. Một số trường hợp biệt phải đóng cửa  
không hoạt động trong một thời gian.  
1.2. Giá tác động đến việc thuê lao động  
Cầu của lao động sẽ tăng khi: giá sản phẩm đầu ra của sản phẩm tăng lên, hiệu quả của  
lao động tăng, số lượng người mua tăng, giá của lao động thay thế tăng, giá của lao động bổ  
sung giảm hoặc công ty sở hữu một lượng lớn lao động khác. Một người công nhân bổ sung  
sẽ được thuê chỉ khi lợi ích thêm vượt quá chi phí bổ sung. Lợi ích mà công ty nhận được  
từ những công nhân bổ sung thêm là lợi ích bắt nguồn từ việc bán các sản phẩm được sản  
xuất bởi công nhân này. Vì vậy doanh nghiệp cũng sẽ thuê nhiều lao động hơn khi giá sản  
phẩm đầu ra của sản phẩm tăng hoặc năng suất của công nhân tăng ngược lại.  
Đối với ngành dệt may Việt Nam:  
Ở thị trường xuất khẩu: Chi phí cho nguyên phụ liệu, vận chuyển, lương tối thiểu  
tăng cao dẫn đến giá thành của sản phẩm tăng lên là nguyên nhân chủ yếu khiến giá xuất  
khẩu sản phẩm dệt may Việt nam sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản hay  
Hàn Quốc thường cao hơn mức giá trung bình so với các quốc gia khác như Trung Quốc,  
Ấn Độ, Bangladesh,... từ 15-30%. Lúc này doanh nghiệp lại thu được nhiều lợi nhuận hơn  
mở rộng quy mô sản xuất và lao động sẽ được thuê nhiều hơn. Giai đoạn từ năm 2016-  
2020 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 9% đến 10%.  
Ở thị trường nội địa: Từ khi gia nhập vào thị trường Việt Nam vào tháng 9-2016  
đến nay, doanh thu của Zara Việt Nam đã không ngừng tăng cao, từ mức đạt 321 tỷ đồng  
sau bốn tháng hoạt động đã tăng lên hơn 1.100 tỷ đồng năm 2017. Năm 2018, doanh thu của  
hãng này tại Việt Nam cũng đạt 100 triệu USD, tương đương 2300 tỷ đồng. Hay như May  
10, với lợi thế về mạng lưới phân phối, nguồn lực, chi phí doanh nghiệp cũng đã cạnh tranh  
được với các thương hiệu thời trang quốc tế và trong năm 2019 thì hãng này cũng đạt doanh  
thu 194,4 tỷ đồng. Chính vì mức doanh thu lợi nhuận lớn như vậy nên các doanh nghiệp sẽ  
hướng tới cạnh tranh với nhau trong thị trường nội địa, hướng đến khẩu hiệu người Việt  
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nên sẽ mở rộng quy mô sản xuất, vậy việc thuê  
lao động của các doanh nghiệp sẽ ngày càng nhiều hơn.  
1.3. Công nghệ  
Trong vài năm trước đây, công nghệ dệt may Việt Nam khá lạc hậu. Chủ yếu là lao  
động chân tay để phục vụ sản xuất, máy móc thiết bị ngành Dệt phần lớn cũ kỹ, lạc hậu  
và có xuất xứ từ nhiều nước. Ngành Dệt gần 50% thiết bị đã sử dụng trên 25 năm nên hư  
hỏng nhiều, mất tính năng vận hành tự động nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp,  
giá thành cao.Trong nhiều năm qua, hầu hết các doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn tự có,  
8
vốn vay trung hạn, dài hạn để mua sắm thiết bị,góp phần năng cao chất lương công nghệ, đa  
dang hoá sản phảm.Hàng ngàn máy dệt không thoi, có thoi khổ rộng đã được nhập về, nhiều  
bộ đồ mắc mới , hiện đại đã được trang bị thay thế cho những thiết bị quá cũ. Tuy ngành Dệt  
đã nhiều cố gắng trong đầu tư đổi mới công nghệ nhưng cho đến nay trình độ kỹ thuật  
của ngành vẫn còn lạc hậu so với khu vực thế giới.  
Công nghệ sản xuất ngành dệt may có sự phân hóa rõ rệt. Với ngành may, tốc độ đổi  
mới cũng khá nhanh. Hiện khoảng trên 90% máy móc, thiết bị được đổi mới, trong đó  
khoảng 40% máy móc chất lượng cao, tự động hóa sản xuất. Khá nhiều cơ sở sử dụng  
CAD/CAM trong khâu thiết kế kỹ thuật và giác sơ đồ.  
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách của Bộ Công Thương,  
thời gian qua, hiện tỷ lệ sử dụng thiết bị công nghệ có trình độ cao, đặc biệt sử dụng phần  
mềm trong thiết kế sản phẩm, quản sản xuất chỉ chiếm khoảng 20%; 70% thiết bị có công  
nghệ trung bình, 10% là công nghệ thấp. Với ngành Dệt, hiện nay hầu hết các thiết bị dệt  
thoi có trình độ trung bình khá nhưng công nghệ sử dụng trong dệt kim lại đang ở mức thấp.  
Ngày nay công nghệ dệt may Việt nam đã những bước tiến mới chuyển, mình  
trong việc ứng dụng công nghệ 4.0 vào trong sản xuất. Việc ứng dụng công nghiệp 4.0 vào  
ngành dệt may được triển khai khá chậm nhưng cũng đã một số doanh nghiệp dệt may  
lớn hoặc doanh nghiệp FDI đầu tư các công nghệ của cuộc cách mạng này vào sản xuất.  
Các máy may được sử dụng hiện nay phần lớn hiện đại, tốc độ cao(4.000-5.000  
vòng/phút), có bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh công nghiệp. Một số doanh nghiệp đã đầu  
dây chuyền đồng bộ, sử dụng nhiều máy chuyên dùng sản xuất một mặt hàng như dây  
chuyền may mi của, đây chuyền may quần đứng có thao tác bộ phận tự động theo chương  
trình, đây chuyền sản xuất quần Jean có hệ thống máy giặt mài.  
- Trong khâu thiết kế: khác với phương pháp truyền thống, các số đo cơ thể người được thu  
thập bằng cách sử dụng máy quét 3D. Việc kết hợp số đo thu được với các phần mềm thiết  
kế sản phẩm sẽ tạo ra một quy trình thiết kế bằng các số đo ảo, phần mềm ảo, người ảo  
nhưng cuối cùng sẽ tạo ra sản phẩm thực được cá nhân hoá đến từng người dùng.  
- Trong khâu sản xuất sợi: quá trình tự động hóa, sử dụng robot... được áp dụng rộng rãi vào  
tất cả các công đoạn từ chuẩn bị bông đến đóng gói sản phẩm.  
- Trong khâu dệt vải: công nghiệp 4.0 đã giúp sáng tạo ra máy dệt kim 3D để dệt trực tiếp  
ra sản phẩm bằng cách nhập các thông số sản phẩm vào máy tính và sử dụng phần mềm điều  
khiển máy dệt 3D tạo ra sản phẩm mà không cần quá trình may.  
- Trong công nghệ dệt thoi, hệ thống Internet kết nối vạn vật IoT kết hợp với sử dụng công  
nghệ nhận dạng bằng tần số tuyến RFID cho phép chuyển chính xác các ống sợi tự động  
vào các máy dệt để sản xuất vải nhằm tiết kiệm thời gian, tăng năng suất lao động giảm  
chi phí sản xuất.  
9
- Trong khâu nhuộm, hoàn tất: bên cạnh việc ứng dụng các robot và tự động hóa cao trong  
quy trình sản xuất, ngành nhuộm còn có sự thay đổi căn bản về quá trình làm ra công thức  
màu và kiểm soát quá trình nhuộm bằng cách sử dụng dữ liệu lớn.  
- Trong khâu may: đối với các sản phẩm cơ bản như áo T-Shirt, áo mi cơ bản, quần âu,  
quần jean thì quá trình sản xuất đã được thay thế bằng robot giúp nâng cao chất lượng và  
đặc biệt là nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm. Đối với các sản phẩm  
thời trang nhưng được chế tạo bằng vật liệu thể kết dính như plastic hay sợi polyester...thì  
quá trình sản xuất sản phẩm được thực hiện trên máy in 3D, vừa cho năng suất cao, vừa  
giảm được giá thành sản phẩm.  
Theo một báo cáo mới đây của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), máy móc công  
nghệ của công nghiệp 4.0 có thể thay thế 86% lao động dệt may của Việt Nam trong vài thập  
kỷ tới. Như vậy, đến 86% lao động cho các ngành Dệt may và giày dép của Việt Nam có  
nguy cao mất việc làm dưới tác động từ những đột phá về công nghệ của cuộc Cách mạng  
công nghiệp 4.0. Tỷ lệ này sẽ chuyển thành con số rất lớn, dệt may tập trung nhiều lao  
động ít kỹ năng (khoảng 17% chỉ có trình độ tiểu học) một tỷ lệ lao động đáng kể không  
còn trẻ, từ 36 tuổi trở lên (35,84%). Đây là nhóm không dễ dàng tìm được việc làm thay thế  
trong khu vực chính thức.  
Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng mức giảm của lao động dệt may dưới tác động  
của CMCN 4.0 là khoảng 306.393 người, tương đương là 18,2%, trong đó “lực lượng lao  
động giảm 70% tại lĩnh vực sợi, 50% tại dệt, nhuộm nhưng chỉ 10% đến 15% trong lĩnh vực  
may”. Tuy nhiên tỷ lệ lao động ngành dệt may nằm trong nhóm sợi, dệt, nhuộm chlà 16,2%  
nên nếu nhóm này bị ảnh hưởng tới 50% lao động thì tính ra, lao động toàn ngành chỉ bị ảnh  
hưởng 7,5-8%.  
Cùng với đó sự tăng trưởng ổn định của giá trị xuất khẩu, hay nói cách khác là  
khối lượng công việc, đòi hỏi cần phải tăng số lượng lao động tham gia vào sản xuất với  
mức cần thêm 293.000 lao động mới vào năm 2025 và 378.000 lao động mới vào năm 2030.  
Tóm lại, số lượng công việc, nhu cầu về lực lượng lao động của ngành dệt may trong bối  
cảnh cuộc CMCN4.0 sẽ biến động tăng khoảng 130.000 người so với hiện tại.  
Do tác động của giá, công nghệ tăng lên nên đường cầu lao động dịch chuyển sang  
phải:  
w
DL1  
DLo  
0
L
10  
 
2. Cung lao động  
2.1. Trình độ lao động  
Theo nhận định của nhóm khảo sát đề tài "Nghiên cứu, đánh giá tác động của cuộc  
cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với ngành dệt may Việt Nam" do Tập đoàn Dệt may  
Việt Nam thực hiện, 84,4% lao động trong ngành chỉ có trình độ phổ thông, số lượng nhân  
lực có trình độ từ trung cấp trở lên chỉ chiếm 15,6%. Lao động phần lớn xuất thân từ nông  
thôn, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế. Những điều đó khiến người  
lao động khó khăn trong tiếp cận cái mới và công nghệ cao. Do tính chất nghề nghiệp nên  
đại đa số người lao động khi ngoài 45 tuổi là suy giảm khả năng làm việc.  
Bảng 1: Thống kê chi tiết trình độ lao động của từng nhóm ngành  
Nguồn: Tổng hợp từ nhóm khảo sát  
Bảng 1 cho thấy sự phân bổ về trình độ độ lệch trái rất lớn trong cả 4 nhóm  
ngành, trong đó trình độ lao động phổ thông chưa qua đào tạo chiếm ít nhất 81%. Rõ ràng  
nếu so với tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên thì con số này cao gấp 20 lần. Hình 2  
cũng cho thấy nhóm ngành may, mặc dù có giá trị xuất khẩu cao nhất trong toàn bộ các  
nhóm ngành, nhưng tỷ lệ lao động phổ thông chưa qua đào tạo lại chiếm đa số, trong khi các  
chỉ số về tỷ lệ trình độ như trung cấp, cao đẳng đại học lại thấp hơn các nhóm ngành  
khác. Do đó đây sẽ một rào cản rất lớn cho mục đích chuyển đổi hình thức gia công từ cắt  
may theo đơn hàng (Cut-Make- Trim- CMT) sang hình thức lợi nhuận cao hơn như tự  
11  
thiết kế và gia công sản phẩm (Original Designed Manufacturer-ODM) hay cao hơn nữa là  
tự thiết kế, gia công và xây dựng thương hiệu gốc (Original Brand Manufacturer- OBM).  
Bởi để làm được những vấn đề này đòi hỏi lực lượng lao động phải tố chất, khả năng  
sáng tạo dựa trên nền tảng kiến thức đã được đào tạo, sự uyển chuyển trong từng loại mặt  
hàng sản xuất.  
Với những phân tích trên, ngành dệt may Việt Nam đang bị mất cân đối trầm trọng  
trong cơ cấu trình độ lao động, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm quá lớn (chiếm 4/5  
lực lượng lao động) dẫn đến việc chuyển đổi mô hình sản xuất, tăng năng suất gặp rất nhiều  
hạn chế, điều này cũng giải thích tại sao năng suất lao động của người Việt Nam luôn ở  
trong nhóm các nước năng suất thấp theo tổ chức lao động quốc tế (ILO). Mặt khác lao  
động có trình độ thấp thì nhận thức của họ cũng bị hạn chế, do đó dẫn đến việc tuân thủ kỷ  
luật lao động, ý thức lao động không được cao, sự biến động lao động lớn gây nên những  
thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp xét cả về hiệu quả sản xuất chiến lược đầu tư,  
phát triển. Điều quan trọng nữa là trình độ lao động thấp có nguy cơ dẫn đến khả năng tiếp  
nhận công nghệ sẽ bị hạn chế, đây sẽ là thách thức không nhỏ cho các doanh nghiệp trong  
việc ứng dụng thành tựu công nghệ 4.0 vào trong sản xuất của mình. Rõ ràng đây là bài toán  
rất lớn cho các doanh nghiệp về việc làm sao để đào tạo lại những lao động này mà không  
ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp.  
2.2. Đào tạo lao động  
a, Đối với doanh nghiệp  
Đối với công tác đào tạo của DN dệt may, các DN thường xuyên tổ chức đào tạo  
đào tạo lại toàn bộ lao động ở tất cả các vị trí làm việc, đặc biệt là các vị trí cán bộ kỹ  
thuật nghiệp vụ, cán bộ quản cấp trung đáp ứng yêu cầu CMCN 4.0…Chằng hạn như, để  
nâng cao chất lượng lao động dệt may vừa qua Công đoàn Dệt may Việt Nam phối hợp với  
Tổng Công ty Cổ phần May Việt Thắng (Công ty Việt Thắng, địa chỉ tại 127 Lê Văn Chí,  
phường Linh Trung, Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh), khai giảng lớp học “Nâng cao trình độ, kỹ  
năng nghề nghiệp cho đoàn viên và người lao động năm 2020” vào chiều tối ngày 28/9. Các  
học viên tham gia lớp học hầu hết là công nhân đang làm việc tại Công ty Việt Thắng, Công  
ty Phong Phú và một số công ty khác trên địa bàn.  
Một số doanh nghiệp liên kết với các trường đại học cao đẳng đào tạo ngành dệt  
may trong nước. Trường Đại học Công nghiệp Dệt may Hà Nội đã kết thỏa thuận hợp  
tác toàn diện với gần 50 doanh nghiệp dệt may để tạo ra những lao động đáp ứng được nhu  
cầu việc làm.  
b, Đối với nhà nước  
Các quan nhà nước những chính sách khuyến khích, hỗ trợ đào tạo nguồn  
nhân lực ngành Dệt may, liên kết giữa các cơ sở đào tạo để tạo điều kiện cho ngành Dệt  
may nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.  
12  
Hiện nay, các trường nghề được gia tăng về số lượng do nhu cầu lao động nhiều  
hơn. Học sinh có thể học nghề kết hợp học các môn văn hóa tại các trường giáo dục nghề.  
Ở đó các em được học, thực hành tại trường và còn được đi thực tế tại các doanh nghiệp dệt  
may.  
Nắm bắt xu thế về nguồn nhân lực cho ngành dệt may, các trường đại học cao đẳng  
cũng tích cực đổi mới để nâng cao năng suất lao động:  
Miền Bắc tiêu biểu là trường Đại học công nghiệp dệt may Hà Nội đã triển khai mạnh mẽ  
công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Trường đã đưa mô hình sản xuất tinh gọn  
LEAN, mô hình quản trị đúng lúc JIT, hệ thống đánh giá DN theo tiêu chuẩn quốc tế, hệ  
thống quản chất lượng ISO… vào chương trình giảng dạy. Công nghệ 4.0 cũng được  
trường đưa vào quá trình đào tạo thông qua việc đầu tư thiết bị, công nghệ thiết kế chương  
trình đào tạo liên quan đến các giải pháp về thiết bị tự động như hệ thống thiết kế 3D, hệ  
thống thiết kế mẫu mỏng, thiết bị may tự động… Trường cũng hợp tác chặt chẽ với các tập  
đoàn lớn về công nghệ như Brother, Juki, Beckert… để tiếp cận đưa vào quá trình đào  
tạo những công nghệ mới nhất. Mỗi năm, nhà trường có 2.000 sinh viên chính quy tốt nghiệp  
khoảng 2.000 học viên các khóa đào tạo cập nhật kiến thức mới. Ngoài ra, còn một số  
khóa học đào tạo giám đốc nhà máy, cán bộ quản chất lượng, cán bộ quản mặt hàng  
(merchandiser)và đào tạo thiết kế mẫu mỏng trên máy tính… Đồng thời, trường cũng phát  
triển các dịch vụ như: Xây dựng mô hình sản xuất tinh gọn LEAN; tư vấn xây dựng chiến  
lược nguồn nhân lực; đánh giá nhân sự trong doanh nghiệp dệt may… Theo khảo sát của  
năm 2019 là 98,3% các em việc làm sau khi ra trường đáp ứng được tốt công việc theo  
yêu cầu của doanh nghiệp. Trong đó, có 30-35% số sinh viên ra trường công tác tại phòng  
kỹ thuật, quản trị dây truyền sản xuất. Sinh viên ra trường làm việc vận hành trực tiếp tại  
các nhà máy sản xuất chiếm khoảng 40%, còn lại là làm việc tại các vị trí khác. Phía đại diện  
các doanh nghiệp cũng đánh giá rất cao nguồn nhân lực được đào tạo tại nhà trường.  
Ở miền Nam, trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh cũng đi đầu trong công  
tác đào tạo với chất lượng đào tạo khoa công nghệ may không ngừng lớn mạnh. Trung thành  
với truyền thống đào tạo của một trường đại học ứng dụng, sinh viên của Khoa Công nghệ  
may - Thời trang được trang bị những kiến thức cơ sở, chuyên môn luôn gắn liền với thực  
tiễn sản xuất, thích hợp với trình độ công nghệ của nước ta và nhu cầu hội. Với tiềm năng  
về đội ngũ giáo viên trẻ đủ trình độ cùng kinh nghiệm, hệ thống giáo trình không ngừng  
được bổ sung cập nhật. Cơ sở vật chất về phòng học, xưởng thực hành có quy mô lớn hiện  
đại, trang thiết bị luôn được bổ sung, đổi mới đa dạng, phù hợp với sự phát triển của  
ngành. Những thế hệ sinh viên ngành May - Thời trang ra trường đã mặt trong hầu hết  
trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh may mặc trên cả nước đang được các cơ sở  
đánh giá tích cực và tín nhiệm cao.  
2.3. Kinh nghiệm và thâm niên  
13  
Hiện nay, phần lớn người lao động trong ngành dệt may xuất phát từ khu vực nông  
thôn, từng làm những công việc không liên quan đến dệt may hoặc chưa qua đào tạo chính  
quy. Cụ thể, theo UNDP, khoảng 50% công nhân cho biết dệt may là trải nghiệm về công  
việc được trả lương đầu tiên của họ; 16% lao động may mặc từng làm các công việc tại các  
trang trại, trồng trọt hoặc tại các doanh nghiệp hộ gia đình; 10% kinh doanh cá nhân còn lại  
từ các công việc khác.  
Về độ tuổi của người lao động, theo thống của Viên Công nhân và Công đoàn,  
mặc độ tuổi của người lao động trong các doanh nghiệp đang có xu hướng giảm nhưng  
phần lớn công nhân đang ở độ tuổi 35-40. Độ tuổi trung bình của lao động ngành dệt may  
hiện nay đang là 29,5 tuổi, thấp hơn ngành chế biến chế tạo ( 30,9 tuổi) và cao hơn ngành  
điện - điện tử (26,9 tuổi). Từ độ tuổi trung bình của ngành dệt may cho thấy phần lớn công  
nhân có thâm niên từ 7 đến 8 năm trong nghề. Khi mà độ tuổi tuyển dụng mới lao động ở  
những doanh nghiệp ngành này luôn bị giới hạn không vượt quá con số 35, đây một thách  
thức lớn đối với lao đông ngành dệt may vì phần lớn công nhân ngành này là nữ vốn ít lựa  
chọn về cộng việc sau khi các doanh nghiệp thực hiện thay máu lao động, dịch chuyển sản  
xuất.  
2.4. Năng suất lao động  
Ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đlao động phải cạnh tranh  
rất gay gắt với nhiều ngành nghề khác như lắp ráp thiết bị điện tử, chế biến thực phẩm…  
đáng lưu ý là cuộc cách mạng 4.0 đã đặt ra một bài toàn mới cho việc giải quyết vấn đề năng  
suất lao động của ngành.  
Lao động: yếu tố đầu tiên, quan trọng nhất tác động tới năng suất. Năng suất phụ  
thuộc nhiều vào trình độ văn hóa, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng năng lực của lực lượng  
lao động. Nếu không phát triển tốt nguồn nhân lực thì các yếu tố về vốn và công nghệ khó  
thể phát huy được tác dụng.  
Năng suất chất lượng sản phẩm may của một số đơn vị trong ngành có thể tương  
đương với một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới xét trên góc độ cùng công nghệ sử  
dụng. Đón đầu cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0, nhiều doanh nghiệp đã chủ động đi trước  
đón đầu thể kể đến như công ty may Đức Giang, Tổng công ty cổ phần May 10, Tổng  
công ty May Bè – CTCP,…  
Công ty cổ phần May 10 là một dụ cụ thể. Nhờ áp dụng máy móc mà sản phẩm  
sản xuất ra giảm từ 1980 xuống còn 690 giây/ sản phẩm. Mỗi công nhân hiện đã điều khiển  
một lúc 2 máy và năng suất lao động đã tăng lên đến 52% so với trước. Đồng thời tỉ lệ lỗi  
cũng giảm xuống 8%.  
Tuy nhiên xét về tổng thể thì năng suất ngành may của Việt Nam mới chỉ đạt mức  
trung bình khá. Lấy dụ về năng suất của một số sản phẩm phổ biến như Sơ mi mới đạt 17  
- 35 mi/lao động/ca làm việc; Quần âu: 14-25 SP/lao động/ca làm việc.  
14  
3. Tiền lương  
3.1. Diễn biến tiền lương  
Mức lương của công nhân trong năm 2020  
Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 90/2019/NĐ-CP, lương tối thiểu vùng là mức  
thấp nhất làm cơ sở để doanh nghiệp người lao động thỏa thuận trả lương. Do vậy, có  
thể hiểu, lương của công nhân trong năm 2020 ít nhất phải bằng:  
- Mức 4.420.000 đồng/tháng nếu doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I (tăng  
240.000 đồng/tháng so với năm 2019).  
- Mức 3.920.000 đồng/tháng nếu doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II  
(tăng 210.000 đồng/tháng so với năm 2019).  
- Mức 3.430.000 đồng/tháng nếu doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III  
(tăng 180.000 đồng/tháng so với năm 2019).  
- Mức 3.070.000 đồng/tháng nếu doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV  
(tăng 150.000 đồng/tháng so với năm 2019).  
Lưu ý: Với những công nhân làm công việc đòi hỏi đã qua học nghề, đào tạo nghề thì  
mức lương thấp nhất phải cao hơn 7% mức này.  
Mười năm trở lại đây, ngành dệt may Việt Nam liên tục tăng trưởng với tỷ lệ bình  
quân trên 15%/năm, thu hút và tạo việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, năm 2020,  
các doanh nghiệp lĩnh vực này đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức...  
Khảo sát tiền lương năm 2018 trong 7 ngành thì ngành may là ngành có tiền lương  
cơ bản thấp nhất. Tiền lương cơ bản trung bình của người lao động (làm đủ giờ) là 4.670.000  
đồng, tăng 4,2% so với năm 2017. Trong năm 2019, thu nhập người lao động ngành Dệt  
may tăng 7%. Con số này được phía Công đoàn Dệt may công bố tại Hội nghị tổng kết hoạt  
động Công đoàn năm 2019.  
15  
 
Bảng 2: Biểu đồ cột so sánh lương ngành dệt may và ngành sản xuất của các năm gần đây  
10,000,000  
9,000,000  
8,000,000  
7,000,000  
6,000,000  
Dệt may  
5,000,000  
Sản xuất  
4,000,000  
3,000,000  
2,000,000  
1,000,000  
0
2016  
2017  
2018  
2019  
Nguồn: Nhóm tự xây dựng  
Mức lương của nhóm ngành dần tăng lên qua các năm, ta thấy được sự chuyển dịch cơ cấu  
ngành dệt may dần đáp ứng hội nhập phát triển ở Việt Nam. Giá trị gia tăng của ngành  
dệt may không chỉ đứng dừng lại ở đồng tiền lương, chỉ cho công nhân trong ngành dệt  
may. Ngành dệt may đang phát triển còn mang đến được nhiều cơ hội phát triển khác lan  
truyền như những ngành sản xuất các phụ kiện, sản xuất bao bì, vận tải, việc phân phối,  
dịch vụ, vấn đề năng lượng, xây dựng v.v… Đến lượt chúng, những ngành này sẽ lại lôi kéo  
cùng theo sự phát triển của rất nhiều những ngành khác. Cứ như thế, các ngành liên quan  
cũng sẽ thúc đẩy nhau để cùng tăng trưởng, tạo ra các giá trị gia tăng vượt trội hơn nếu  
chỉ như nhìn chằm chằm vào từng ngành riêng lẻ tự thân nó phát triển.  
Bên cạnh đó thì tình trạng đình công trong ngành may cũng lớn nhất, chiếm đến  
39% . Hầu hết liên quan điều kiện làm việc, tiền lương. Viện dẫn nghiên cứu của Oxfam về  
“Tiền lương không đủ sống hệ lụy” trong ngành công nghiệp may, ông Lê Đình Quảng  
cho biết, đến 99% thu nhập của người lao động thấp hơn mức lương đủ sống theo tiêu  
chuẩn của Sàn lương châu Á (AFW).  
Đặc biệt, nếu chỉ tính công việc hoàn thành trong giờ làm việc tiêu chuẩn, không  
tính các khoản phụ cấp, lương thực tế của nhiều công nhân may được khảo sát không đủ  
sống ở mức cơ bản nhất. Tiền lương không đủ sống cũng dẫn đến các hệ lụy như 31% không  
tiết kiệm được từ tiền lương, 37% luôn trong tình trạng vay nợ từ bạn bè, người thân để  
lấp thiếu hụt chi tiêu.  
16  
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cũng muốn tối ưu hóa lợi nhuận nên thường dựa vào  
mức lương cơ bản chung để xây dựng thang bảng lương cho doanh nghiệp (làm theo luật  
định) kèm theo nhiều khoản thưởng, phụ cấp… đúng theo năng lực của người lao động. Cụ  
thể, mức lương bình quân đóng bảo hiểm hội của người lao động tại các doanh nghiệp  
trong nước từ 4,5 - 5 triệu đồng/người/tháng, ở các doanh nghiệp nước ngoài khoảng 6 - 7  
triệu đồng người/tháng, nhưng số lượng người lao động thực lĩnh chênh lệch khá cao.  
giải về lương ngành dệt may còn thấp, công Lê Đình Quảng cho biết, hiện nay  
ngành dệt may của Việt Nam vẫn chỉ tập trung chủ yếu vào khâu gia công sản phẩm. Trong  
quá trình đàm phán, phần đa các nhãn hàng và doanh nghiệp không tăng phần tiền nhân  
công. Chi phí nhân công trong giá thành sản phẩm rất ít. Do đó, các công ty may cũng  
không có nhiều điều kiện để chi phí cho người lao động.  
3.2. Tác động của tiền lương tối thiểu thay đổi:  
Vào tháng 7 và tháng 8/2019, Hội đồng tiền lương quốc gia tổ chức các phiên đàm  
phán điều chỉnh lương tối thiểu năm 2020. Cùng với khảo sát của cơ quan quản lý Nhà nước,  
đại diện cho người lao động đang những khảo sát riêng rẽ để căn cứ dữ liệu cho đợt  
đàm phàn tăng lương tối thiểu sắp tới.  
Thực tiễn khó khăn của doanh nghiệp điện tử, dệt may hiện nay là trả lương công  
nhân theo khung bảng lương, tăng lương theo hệ số tăng mức lương tối thiểu. Theo bà  
Bùi Thị Minh, đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Chi nhánh Thành phố  
Hồ Chí Minh (VCCI-HCM), nguyên nhân do người làm lâu năm, tuổi càng cao thì năng  
suất, sản lượng càng thấp. Mặt khác, nếu lương tối thiểu tăng 10% thì doanh nghiệp buộc  
phải trả thêm cho người lao động 21,3%. Vì thế, nhiều doanh nghiệp chọn giải pháp thỏa  
thuận trực tiếp với người lao động nhằm giúp cho việc chi trả lương đúng với yêu cầu, năng  
lực, chất lượng lao động; đồng thời đáp ứng đúng yêu cầu nguyện vọng của cả hai bên.  
Việc mức lương ngành dệt may ngày một tăng trong thời gian qua cho thấy các  
doanh nghiệp đang bắt đầu quan tâm hơn đến việc sử dụng thu nhập như một yếu tố thu hút  
giữ chân người lao động. Tuy nhiên, điều này cũng tạo ra không ít thách thức cho người  
lao động trong việc khẳng định chứng tỏ bản thân trong thời điểm trình độ cần được cải  
thiện mỗi ngày.  
3.3. Cân bằng thị trường lao động  
Hiện nay, những tiến bộ về công nghệ, đặc biệt sự tác động mạnh mẽ của cuộc  
cách mạng công nghiệp 4.0 làm tăng sản phẩm cận biên làm cho đồ thị đường cung dịch  
chuyển sang bên phải.  
tiền lương lao động dệt may tăng nhưng vẫn ở mức thấp nhưng áp lực về kinh  
tế yếu tố làm cho các lao động phổ thông gia nhập vào ngành dệt may và làm cho lượng  
cung lao động trong ngành này tăng lên.  
17  
Chương III: Giải pháp và khuyến nghị  
1. Những điểm mạnh điểm yếu của ngành lao động dệt may  
Điểm mạnh:  
- Tiền lương lao động của ngành dệt may Việt Nam rất rẻ so với các nước trong khu vực và  
trên toàn thế giới. Giá công nhân rẻ, chi phí cầu lao động thấp nên giá thành sản phẩm cũng  
rẻ tạo lợi thế cạnh tranh.  
- Việc mức lương ngành dệt may ngày một tăng trong thời gian qua cho thấy các doanh  
nghiệp đang bắt đầu quan tâm hơn đến việc sử dụng thu nhập như một yếu tố thu hút và giữ  
chân người lao động.  
- Người lao động cần chăm chỉ chịu khó.  
- Áp dụng được công nghệ vào trong sản xuất để giảm bớt gánh nặng cho người lao động  
dệt may.  
- Đào tạo lao động ngày càng được phát triển, thiết kế bài giảng thực tế giúp cho học viên  
của ngành có trình độ lao động cao hơn.  
Điểm yếu những thách thức trong tương lai:  
- Thách thức lớn nhất đối với ngành dệt may Việt Nam là cơ cấu trình độ lao động bất hợp  
lý. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ lao động có trình độ đại học rất thấp chiếm dưới 5%  
cho cả 4 nhóm ngành, rõ ràng điều này sẽ rất khó đáp ứng những yêu cầu của công nghệ 4.0,  
đòi hỏi các kỹ năng như số hóa, trí tuệ nhân tạo, ngoại ngữ, tin học, lập trình, phân tích dữ  
liệu, an ninh mạng;dẫn đến việc chuyển đổi mô hình sản xuất, tăng năng suất gặp rất nhiều  
hạn chế.  
- Thách thức lớn thứ hai đó sự hạn chế về năng lực công nghệ 4.0. Kết quả cho thấy hầu  
hết các kỹ năng cơ bản để vận hành các thiết bị số của lao động ngành dệt may nói chung  
còn yếu kém, mặc điều này có mối liên hệ với trình độ đào tạo. Tuy vậy điểm mấu chốt  
18  
   
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 24 trang yennguyen 01/04/2022 5760
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận môn Kinh tế vi mô I - Chủ đề: Phân tích cung, cầu lao động ngành dệt may ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxtieu_luan_mon_kinh_te_vi_mo_i_chu_de_phan_tich_cung_cau_lao.docx