Sưu tập di vật đá di chỉ Nậm Luồng (Lai Châu)

SƯU TẬP DI VT ĐÁ DI CHỈ NM LUNG (LAI CHÂU)  
PHẠM THANH SƠN*, BÙI VĂN LIÊM**,  
NGUYỄN THƠ ĐÌNH***, NGUYN XUÂN MNH****  
1. Vài nét vdi chỉ  
Nm Lung là mt trong sít di chkho chc tin sngoài tri có tng văn hóa còn tương đi  
nguyên vn không chỉ ở Lai Châu mà còn khu vc Tây Bc nói chung. Bài viết này tp trung phân tích  
nhng thuc tính công cđlàm rõ đc trưng loi hình, kthut chế tác đá và nghiên cu so sánh vi các  
di chkho chc khu vc lòng hthy đin Lai Châu thuc huyn Mường Tè, tnh Lai Châu.  
Di chNm Lung thuc Bn Nm Lung, xã Kan H, huyện Mường Tè, tnh Lai Châu. Di chỉ  
nm tọa độ 22022’47,818’’ vĩ Bắc và 102044’12,621’’ độ kinh Đông, cao hơn mặt nước bin 292m,  
cách ngã ba sông Đà và suối Nm Lung khong 300m về phía đông bắc (Hình 1).  
Khu vực phát hiện chứa di  
tích thời đại Đá có độ cao hơn so  
với mực nước suối Nậm Luồng  
hiện tại (tháng 5) là 16,52m. Độ cao  
của khu vực mở hố khai quật cao  
hơn mặt bằng cư dân bản Nậm  
Luồng sinh sống 7m.  
Trong đợt khai quật năm  
2014 có 4 hố khai quật được mở  
với tổng diện tích 200m2.  
Cấu tạo địa tầng của di chỉ  
Nậm Luồng cơ bản gồm những lớp  
Hình 1. Không nh vtrí di chNm Lung và Pô Lếch, xã Kan H,  
như sau:  
huyện Mường Tè  
Lớp mặt là lớp đất canh tác  
(Ngun: http://googleearth.com, ngày 06/06/2015)  
có màu xám đen, tơi xốp, lẫn nhiều  
mảnh gạch, đá cuội. Cũng trong lớp mặt, một số công cụ đá có vết ghè đẽo, các hạch cuội nguyên liệu có kích  
thước vừa tay cầm cũng được phát hiện.  
* ThS. Vin Kho chc  
** PGS.TS. Vin Kho chc  
*** CN. Vin Kho chc  
****GVC. ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội  
4
Kh¶o cæ häc, sè 6 - 2017  
Lớp văn hóa là lớp đất feralit thuần nhất, màu nâu, có chứa nhiều công cụ và hạch cuội nguyên liệu,  
sản phẩm của quá trình chế tác như mảnh tước, mảnh tách, cuội có vết ghè. Trong lớp này số lượng di vật thu  
được lớn nhất. Tuy nhiên, trong tất cả các hố khai quật hoàn toàn không phát hiện được di cốt động vật cũng  
như vỏ nhuyễn thể.  
Sinh thổ là sét feralit bị laterite  
nhẹ, màu nâu, không rắn chắc như kiểu  
laterite vùng trung du Bắc Bộ (Hình 2).  
2. Di vật đá  
2.1. Nguyên liệu  
Trong sưu tập hin vt đá thu  
được Nm Lung, cui basalt là loi  
nguyên liệu được ưa chuộng la chn chế  
tác công c, tiếp đến là cui quartzite và  
cát kết. Các nguyên liu còn lại như cuội  
Hình 2. Địa tng di chNm Lung  
phiến sét, quartz, sn kết hay sét bt kết  
(Ngun: Phạm Thanh Sơn năm 2014)  
đều chiếm mt tlnh.  
Quá trình khai quật kết hợp, khảo sát hệ thống nguyên liệu suối Nậm Luồng và ngã ba sông Đà ở  
khu vực này thấy rằng, ở đây có rất nhiều tảng cuội lớn và nhỏ khác nhau. Có những tảng cuội nặng tới vài  
tấn nhưng tỷ lệ cuội nhỏ ở suối Nậm Luồng rất hiếm. Ở khu vực ngã ba suối Nậm Luồng và sông Đà có  
những dải cuội nằm ở tả ngạn với mật độ dày đặc nhưng do thời điểm khai quật là mùa nước lũ do đó những  
người khai quật không thể tiếp cận được. Chúng tôi cho rằng, cuội được người cổ Nậm Luồng dùng chế tác  
công cụ là cuội có nguồn gốc ở sông Đà. Có thể do sự sẵn có và đa dạng của nguyên liệu nên chúng chỉ được  
thu lượm một số ít về di chỉ để chế tác. Do những mảnh tước tìm thấy trong hố khai quật không lớn nên  
không loại trừ trường hợp người xưa vừa chế tác công cụ tại nơi ở đồng thời sơ chế ở nơi khai thác, tìm kiếm  
nguyên liệu.  
2.2. Loại hình  
Số lượng hin vt thu được t3 hkhai qut là 125 chiếc, còn li 10 chiếc sưu tầm trong quá  
trình khai qut.  
Phân loại cho thấy, loại hình di vật ở di chỉ Nậm Luồng chủ yếu gồm các loại hình, công cụ rìa  
ngang (29 chiếc), công cụ mũi nhọn (16 chiếc), rìa dọc (7 chiếc), rìa xiên (9 chiếc), hai rìa (14 chiếc), còn lại  
là công cụ ba rìa (2 chiếc), công cụ gần móng ngựa (4 chiếc) công cụ không định hình (7 chiếc), cuội có vết  
ghè (11 chiếc), công cụ hình đĩa (1 chiếc), công cụ mảnh (4 chiếc). Ngoài ra còn có cuội nguyên liệu, mảnh  
cuội bổ, mảnh tước, mảnh tách.  
- Công cụ mũi nhọn ở Nậm Luồng được ghè từ cuội nguyên liệu có độ dày dao động từ 2,5cm đến  
6,45cm nhưng độ dày của phần lớn công cụ từ 4,0cm đến 6,0cm (Hình 3,4).  
Về chất liệu, các công cụ mũi nhọn được ghè từ cuội basalt với độ phong hóa mạnh, bề mặt còn lưu  
lại vỏ cuội màu đỏ vàng hoặc nâu vàng. Bên cạnh đó cũng có những công cụ mũi nhọn được chế tạo từ  
nguyên liệu khác nhưng số lượng hạn chế (Phạm Thanh Sơn 2015: 6).  
Phạm Thanh Sơn và nnk - Sưu tập di vt đá di chNm Lung…  
5
Về kỹ thuật, các công cụ mũi  
nhọn ở đây thuần nhất được chế tạo  
bằng kỹ thuật ghè trực tiếp và hoàn toàn  
là kỹ thuật ghè trên tay. Kỹ thuật gia  
công tập trung chủ yếu ở hai rìa bên hội  
tụ ở một đầu thành mũi nhọn, thủ pháp  
đều ghè một mặt, có từ một tới hai lớp  
ghè nhưng phổ biến nhất vẫn là 1 lớp  
ghè. Số vết ghè dao động từ 3 đến 7  
nhát, đối với nhóm công cụ có 2 lớp ghè  
số vết ghè lớn hơn, có thể lên đến 15  
Hình 3.  
Hình 4.  
đến 18 nhát. Chức năng của công cụ có  
Công cụ mũi nhọn Nm Lung  
(Ngun: Phạm Thanh Sơn)  
thể được sử dụng để đào hoặc chặt.  
- Công cụ rìa ngang ở Nậm  
Luồng là loại hình có số lượng lớn nhất. Trọng lượng của nhóm công cụ này trung bình là 769,3gram, với độ  
lệch chuẩn là 473,5gram và các chỉ số này đều nhỏ hơn các chỉ số tương tự của nhóm công cụ mũi nhọn .  
Cũng giống nhóm công cụ mũi nhọn, công cụ rìa ngang được chế tác chủ yếu từ cuội basalt, ngoài ra  
còn có cuội quartzite, cát kết, phiến silic và một vài loại chưa xác định. Phần lớn các công cụ rìa ngang được  
ghè từ một tới hai lớp với số lượng vết ghè dao động từ 3 tới 6 vết. Rõ ràng là, với những công cụ mũi nhọn  
được ghè hai lớp thì mật độ vết ghè cao hơn hẳn nhóm công cụ rìa ngang.  
Biểu đồ 1. Tương quan trọng lượng  
và chiu dài công crìa ngang  
Biuđ2. Tươngquantrọnglượng  
và chiu rngcôngcangang  
Biểu đồ 3. Tương quan trọng lượng  
và độ dày công crìa ngang  
(Ngun: Phạm Thanh Sơn)  
Từ các kết quả phân tích thống kê tương quan giữa trọng lượng với các chỉ số chiều dài, rộng và độ  
dày chúng ta có thể rút ra được mức độ phân tán của chúng trong tương quan với trọng lượng. Mức độ phân  
bố về chiều dài công cụ từ 10-14cm tương ứng với nhóm công cụ có trọng lượng từ 500gram tới 1.000gram.  
Trong khi đó, mức độ phân tán về chiều rộng công cụ rìa ngang từ 8 - 12cm tương ứng với mức độ phân tán  
về trọng lượng từ 500gram tới 1.000gram. Mức độ phân tán về trọng lượng của nhóm công cụ này từ  
500gram tới 1.000gram tương ứng với sự phân bố về độ dày công cụ từ 3 - 5,5cm (Biểu đồ 1-3). Xét trong  
mối tương quan giữa kích thước công cụ, trọng lượng và mật độ vết ghè xuất hiện trên nhóm loại hình công  
cụ này chủ yếu có từ 3 tới 5 vết âm bản.  
6
Kh¶o cæ häc, sè 6 - 2017  
- Nhóm công cụ hai rìa lưỡi  
Trong các nghiên cứu trước đây đối với nhóm công cụ này, các nhà nghiên cứu thường hay xếp  
chúng vào nhóm công cụ 1/4 viên cuội. Mặc dù vậy, theo quan điểm của người khai quật, thuật ngữ công cụ  
1/4 viên cuội không khảo tả hết những đặc điểm của chúng.  
Trong sưu tập công cụ đá ở di chỉ Nậm Luồng có  
thể nhận ra ngoài nhóm công cụ mũi nhọn và nhóm công cụ  
rìa ngang thì loại hình công cụ hai rìa lưỡi liền kề hoặc có  
thể vuông góc là đặc trưng cho khu vực lòng hồ thủy điện  
Lai Châu (Hình 5).  
Dựa vào kết quả phân tích các chỉ số và các thuộc  
tính trong mối tương quan giữa trọng lượng, lớp ghè và số  
lượng vết ghè đồng thời mối tương quan giữa trọng lượng  
với các chỉ số về mặt kích thước cho thấy chúng có sự khác  
Hình 5. Công crìa vuông góc lin kề  
biệt đáng kể với nhóm công cụ rìa ngang. Số lượng vết ghè  
đối với công cụ được ghè từ một tới hai lớp không có sự  
khác biệt lớn. Trong khi đó, sự tương quan giữa trọng lượng  
Nm Lung  
(Ngun: Phạm Thanh Sơn)  
và kích thước của nhóm công cụ này có sự khác biệt khá lớn với nhóm công cụ rìa ngang. Nếu chúng ta tiến  
hành so sánh về trọng lượng trung bình của nhóm công cụ ghè đẽo ở đây có thể nhận thấy, nhóm công cụ mũi  
nhọn có chỉ số về trọng lượng luôn lớn nhất và đó cũng là nhóm công cụ luôn được chế tác với mật độ các vết  
âm bản còn lại lớn nhất trên rìa tác dụng.  
- Nhóm công cụ rìa lưỡi xiên  
Đặc điểm ni bt ca nhóm công ccó rìa tác dụng xiên vát chính là rìa lưỡi không có scân  
xng so vi trc dc ca công ctrong mt htọa độ.  
Đây là những hin vật được chế to hoàn toàn tcui  
basalt, bmt có màu nâu hay nâu vàng bphong hóa  
mnh. Rìa tác dụng được ghè bng kthut ghè mt mt  
vi số lượng vết ghè dao động t5 hoc 6 vết ghè chỉ  
bng mt hoc hai lp ghè. Các chsvề kích thước  
không có skhác nhau nhiu.  
- Công cụ mảnh  
Sưu tập công cụ mảnh chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong  
Hình 6. Công cmnh cui bNm Lung  
sưu tập công cụ đá tại di chỉ Nậm Luồng. Nhóm công cụ  
(Ngun: Phạm Thanh Sơn)  
mảnh là những sản phẩm được chế tác từ kỹ thuật bổ cuội,  
trọng lượng trung bình 375gram nhưng cũng có công cụ nặng hơn 800gram, có từ 4 đến 6 vết ghè để tạo rìa  
tác dụng. Nguyên liệu chế tác công cụ mảnh có thể là cuội quartzite hay cuội basalt (Hình 6).  
- Các loại hình công cụ khác  
Ở di chỉ Nậm Luồng còn phát hiện một số loại hình hiện vật khác như công cụ hình đĩa, công  
cụ rìa dọc, ba rìa, cuội có vết ghè hình dáng không xác định… Tuy nhiên, do số lượng mẫu không lớn  
nên sẽ là không khách quan để khái quát và rút ra các chỉ số thống kê cơ bản nhất đối với từng nhóm  
Phạm Thanh Sơn và nnk - Sưu tập di vt đá di chNm Lung…  
7
loại hình. Chúng không cho thấy có sự khác nhau nhiều vì phần lớn đều được chế tạo từ kỹ thuật ghè  
một mặt, tần suất ghè đẽo không lớn (Phạm Thanh Sơn 2015).  
- Mảnh tước  
Những mảnh tước lớn có thể được tu  
chỉnh để làm công cụ nhưng chúng cũng có thể  
được sử dụng trực tiếp mà không qua chế tác.  
Trong bài viết này, do sự hạn chế về kỹ thuật  
nghiên cứu vết sử dụng nên những mảnh tước của  
quá trình chế tác công cụ sẽ được xếp vào nhóm  
phế liệu bị thải loại.  
Mảnh tước xuất hiện ở mọi độ sâu của  
địa tầng hố khai quật. Chúng được phát hiện chủ  
yếu ở H1 và H3. Mảnh tước được phân chia  
thành 2 nhóm lớn: mảnh tước đầu tiên và mảnh  
tước thứ (Biểu đồ 4).  
Biểu đ4.Slượng côngcmnh vàmảnhtướcdichNm Lung  
(Ngun: Phm Thanh Sơn)  
Mảnh tước đầu tiên là loi có mặt lưng  
còn hu hết vcui. Kích thước ca nhóm mnh  
tước đầu tiên c2 hkhai qut không cho thy skhác bit lớn. Trên cơ sở nghiên cu so sánh vi kích  
thước vết âm bn còn li trên công ccó thnhn thy chúng có sự tương đồng và đó là sản phẩm được chế  
tác ti chỗ. Cũng không loại trkhả năng, các công cụ có thể được chế tác trong quá trình chn la nguyên  
liu các bãi cui gn bờ sông Đà.  
Mảnh tước thbao gm các dng mảnh tước din ghè còn vcui, mảnh tước còn rim cui,  
mảnh tước diện ghè và lưng còn vỏ cui hoc mảnh tước diện ghè và lưng không còn vỏ cui. Tuy số  
lượng hn chế nhưng chúng phản ánh quy trình ghè đẽo ca công cvà cho thấy được skhác nhau về  
lp ghè trên các công clà hp lý.  
3. Di chNm Lung trong bi cnh khu vc lân cn  
Trong hệ thống các di tích khảo cổ học huyện Mường Tè (Lai Châu), ngoài Nậm Luồng thì Pô Lếch,  
Nậm Củm đều là những di chỉ có giá trị nghiên cứu so sánh.  
Di chỉ Pô Lếch cách Nậm Luồng 4,5km về phía đông. Di chỉ có tọa độ: 22022'18,58" vĩ Bắc và  
102046'26,98" kinh Đông, độ cao so với mặt nước biển là 282,5m. Di tích nằm bên phía hữu ngạn của sông  
Đà, cách đường ô tô (tỉnh lộ 127) hướng lên thị trấn Mường Tè khoảng 2,5km (Nguyễn Thơ Đình 2015).  
Nhìn chung, cấu tạo địa tầng của địa điểm Pô Lếch có những sự tương đồng nhất định với di chỉ  
Nậm Luồng cũng thuộc xã Kan Hồ.  
Lớp mặt dày trung bình 15 - 20cm, đây là lớp đất canh tác có màu xám đen, tơi xốp, lẫn nhiều cuội,  
mảnh gạch, rác sinh hoạt hiện đại. Ngoài ra, trong lớp mặt chúng tôi cũng phát hiện một số công cụ ghè đẽo,  
các hòn cuội nguyên liệu có kích thước vừa tay cầm.  
8
Kh¶o cæ häc, sè 6 - 2017  
Lớp văn hóa có độ dày trong khoảng 1 -  
1,3m, là lớp đất thuần nhất, sét feralit màu đỏ  
vàng hoặc đỏ sẫm. Trong lớp đất này có chứa  
nhiều công cụ cuội ghè đẽo và hạch cuội nguyên  
liệu. Bên cạnh đó còn thu được sản phẩm của quá  
trình chế tác như mảnh tước, mảnh tách, cuội có  
vết ghè, phác vật rìu tứ giác.  
Loại hình hiện vật đá ở Pô Lếch bao gồm  
các công cụ mũi nhọn, rìa ngang, rìa dọc, công cụ  
mảnh, hai rìa liền kề, ba rìa, công cụ hình bầu dục,  
rìu dài, mảnh cuội bổ (Biểu đồ 5). Ngoài hiện vật  
phát hiện trong tầng văn hóa, những người khai  
quật còn sưu tầm được một số lượng hiện vật trên  
bề mặt. Sưu tập hiện vật đá thu được ở các hố khai  
quật Pô Lếch có nhiều đặc điểm giống với các chỉ  
như Nậm Luồng, Huổi Han và Nậm Củm.  
Biểu đồ 5. Loi hình hin vật đá tại di chPô Lếch,  
xã Kan H, huyện Mường Tè  
(Ngun: Tng hp Phạm Thanh Sơn, số liu Nguyn  
Thờ Đình 2015)  
Có thể liệt kê một số loại hình hiện vật tiêu biểu ở Pô Lếch bao gồm công cụ mũi nhọn, rìa ngang,  
hai rìa liền kề, công cụ cuội bổ. Một số loại hình hiện vật mặc dù có số lượng khiêm tốn nhưng có ý nghĩa  
trong dự đoán về mặt niên đại tương đối, đặc trưng kỹ nghệ như phác vật rìu, công cụ hình bầu dục ghè một  
mặt (Hình 7, 8).  
So sánh tương quan về các  
chỉ số trọng lượng của nhóm hiện vật  
rìa ngang cho thấy sưu tập bề mặt và  
trong địa tầng di có một sự khác  
nhau không đáng kể. Nếu so sánh  
trọng lượng của nhóm rìa ngang tại  
Pô Lếch và Nậm Luồng chúng cho  
thấy có sự tương đồng.  
Hình 7. Rìu dài ti Pô Lếch  
Hình 8. Công cbu dc Pô Lếch  
Thực tế phần lớn công cụ  
rìa ngang được ghè tối đa hai lớp ghè  
thì tại Pô Lếch xuất hiện những công  
(Ngun: Nguyễn Thơ Đình 2015)  
cụ có thể được ghè ba lớp với số nhát ghè từ 10 đến 12 nhát.  
Các kiểm định thng kê giữa các địa điểm có thdn ti mt suy lun là, Pô Lếch và Nm  
Lung có nhng di cui nguyên liu có thể tương đồng nhau vtrọng lượng và kích thước. Khong  
cách gia hai di chlà không quá xa nên không loi trkhả năng người cổ ở hai địa điểm có thể sưu tm  
nguyên liu cùng mt khu vực. Do đó, các chỉ sthng kê công ccó sự tương đồng cao giữa hai địa  
điểm này đã nói lên điều đó.  
Trong tổ hợp công cụ có tỷ lệ đáng kể tại di chỉ Pô Lếch còn có loại hình công cụ hai rìa liền kề và  
mũi nhọn. Thực tế là các nhóm loại hình công cụ đó chủ yếu được sưu tập trên bề mặt di chỉ. Do vậy, các số  
liệu thống kê sẽ không có giá trị lớn khi tiến hành so sánh với các tập hợp loại hình cùng loại vì số lượng hiện  
Phạm Thanh Sơn và nnk - Sưu tập di vt đá di chNm Lung…  
9
vật phát hiện trong địa tầng là khiêm tốn khi chỉ có 7/23 hiện vật. Tuy nhiên, các số liệu được dùng để phân  
tích sẽ ít nhiều có giá trị tham khảo để nghiên cứu so sánh.  
Loại hình công cụ mũi nhọn phát hiện trong địa tầng và bề mặt di chỉ được chế tác bằng cuội, bao  
gồm basalt, quartzite, rhyolite, spilite, cát bột kết và có thể cũng có trầm tích silic. Số lượng mũi nhọn được  
ghè 1 lớp ghè có số vết ghè trung bình là 4 nhát trong khi đó nhóm công cụ có 2 lớp ghè mật độ vết ghè trung  
bình là 7 nhát. Như vậy, tần suất ghè đẽo nhóm công cụ mũi nhọn ở Pô Lếch có sự khác biệt đáng kể với di  
chỉ Nậm Luồng.  
Nhóm công cụ hai rìa liền kề phát hiện tại Pô Lếch cũng trong tình trạng tương tự khi phần lớn được  
sưu tầm trên bề mặt. Chỉ số thống kê cho thấy, nhóm hiện vật hai rìa liền kề/hai rìa ở Nậm Luồng và Pô Lếch  
ít nhiều có sự tương đồng về chỉ số trọng lượng.  
Nậm Củm là một di chỉ nằm ở hữu ngạn của suối Nậm Củm, cao hơn mặt suối khoảng 18m. Di chỉ  
Nậm Củm thuộc địa phận bản Nậm Củm, xã  
Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, toạ  
độ 22028'56,16" vĩ Bắc, 102036'47,10" kinh  
Đông (Nguyễn Xuân Mạnh 2015: 1).  
Tổng số hiện vật đá thu được trong các  
hố khai quật tại di chỉ Nậm Củm là 157, chủ yếu  
phát hiện tại hố H2 và H3. Loại hình hiện vật đá  
bao gồm công cụ mũi nhọn, công cụ rìa ngang,  
công cụ rìa dọc, công cụ rìa xiên, công cụ mảnh,  
phác vật rìu, mảnh tước, mảnh cuội bổ (Biểu đồ 6).  
Có thể nhận thấy, nhóm công cụ hai rìa lưỡi,  
công cụ mũi nhọn, công cụ rìa ngang, công cụ  
rìa dọc, công cụ rìa xiên và công cụ mảnh chiếm  
tỷ lệ đáng kể trong sưu tập hiện vật. Ngoài ra  
còn có một vài công cụ hình đĩa, công cụ ghè  
xung quanh (Sumatralith), rìu ngắn, phác vật rìu.  
Biểu đ6. Loihìnhcông cđá dichNm Cm,  
xãMườngTè(LaiChâu)  
(Ngun: Phạm Thanh Sơn, Nguyễn Xuân Mnh)  
Tương tự như Nậm Lung, nguyên liệu được sdng Nm Củm cũng phần ln là cui basalt  
có ngun gc sông, sui.  
Trong số các công cụ mũi nhọn thu được trong cả hố khai quật và sưu tầm bề mặt, các chỉ số thống  
kê không có sự khác nhau. Các công cụ mũi nhọn phát hiện trong hố khai quật đều phát hiện trong các mức  
địa tầng của 2 hố khai quật chính.  
Từ các phân tích thống kê loại hình công cụ mũi nhọn được chế tác từ hạch cuội, có thể nhận định  
rằng, trọng lượng trung bình của cuội nguyên liệu ở Nậm Củm dùng chế tác công cụ có chỉ số lớn hơn Nậm  
Luồng. Tuy nhiên, không có sự khác nhau đáng kể về số lượng nhát ghè của công cụ được ghè một lớp hay  
hai lớp ở hai địa điểm. Điều này hoàn toàn khác với nhóm công cụ mũi nhọn cùng loại ở Nậm Luồng với các  
chỉ số về kích thước không có sự khác biệt lớn.  
Cũng giống như nhóm mũi nhọn, trọng lượng của nhóm rìa ngang tại Nậm Củm có các chỉ số lớn  
hơn nhiều so với Nậm Luồng, Pô Lếch.  
10  
Kh¶o cæ häc, sè 6 - 2017  
Qua phân tích các số liệu so sánh của cùng một nhóm loại hình ở hai di chỉ có thể rút ra một số nhận  
định đó là sự khác nhau về tần suất ghè đẽo của mỗi nhóm loại hình hiện vật như mũi nhọn hay công cụ rìa  
ngang. Tuy có sự khác nhau về tần suất ghè đẽo nhưng không phản ánh sự khác nhau về kỹ thuật ghè đẽo.  
Trọng lượng nhóm công cụ ở Nậm Củm lớn hơn xuất phát từ sự khác nhau về đặc tính kích thước cuội  
nguyên liệu vốn có tại khu vực mà người cổ thu lượm.  
Song hành cùng nhóm công cụ chế tác từ cuội nguyên, nhóm công cụ mảnh cũng được phát hiện  
trong các hố khai quật ở những lớp sớm nhất của di chỉ (Nguyễn Xuân Mạnh 2015: 13).  
Công cụ mảnh ở Nậm Củm được chế tác từ các mảnh cuội bổ chất liệu basalt, kích thước khá lớn.  
Hiện tượng công cụ được chế tạo từ các mảnh cuội bổ cũng phát hiện ở Nậm Luồng, Huổi Han, Pô Lếch.  
Công cụ mảnh ở Nậm Củm phần lớn được chế tác bằng kỹ thuật ghè một mặt. Cũng có công cụ  
được ghè từ kỹ thuật hai mặt nhưng tỷ lệ rất khiêm tốn. Về trọng lượng, chiếc nặng hơn 2000gram nhưng  
có những mảnh tước kích thước nhỏ chỉ nặng 112gram.  
Rõ ràng là, các sưu tập công cphát hin trong địa tng các di chỉ như Nậm Lung, Nm  
Cm, Pô Lếch đều cho thy nhiu sự tương đồng vloi hình, kthut chế tác. Nhóm công chai rìa  
lưỡi lin kề, rìa ngang, mũi nhọn, công cmnh tcui b, mảnh tước, công chình đĩa, hình bầu dc,  
rìu dài, phác vật rìu là đặc trưng hiện vt khu vực Mường Tè.  
4. Một vài nhận định  
Cư dân cổ đã sinh sống ở khu vực Nậm Luồng và tiến hành các hoạt động chế tác công cụ cuội tại  
chỗ. Di vật đá mà họ để lại với những loại hình đã mô tả và phân loại ở trên cho thấy tổ hợp công cụ ở đây  
cũng không thực sự đa dạng. Các loại hình di vật cũng có những khác biệt nhất định so với nhóm công cụ ghè  
đẽo của hệ thống các di chỉ ngoài trời ven sông Hồng, sông Đà ở vùng gò đồi Yên Bái.  
Tổng hòa các so sánh về loại hình, kỹ thuật có thể nhận định rằng, truyền thống chế tác công cụ đá ở  
Mường Tè thể hiện tính bảo lưu kỹ thuật khá lâu dài. Bên cạnh việc sử dụng bộ công cụ mảnh cuội bổ, công  
đoạn tạo phác vật rìu, sử dụng kỹ thuật cưa đá thì vẫn thịnh hành chế tác và sử dụng công cụ hạch cuội thô sơ.  
Trên thực tế, sự xuất hiện phác vật công cụ dạng rìu dài hai đầu ở Nậm Củm, phác vật rìu tứ giác ở Pô Lếch,  
công cụ hình bầu dục ghè hết một mặt ở Pô Lếch và Nậm Củm, công cụ hình đĩa ở Nậm Củm đều là những  
dấu hiệu đặc trưng cho kỹ thuật Hòa Bình.  
Trong những năm gần đây, hàng trăm di tích dọc hệ thống sông Đà ở Tây Bắc đã được khai quật  
trong các dự án xây dựng thủy điện và phần lớn trong số đó không được phân tích niên đại. Các di tích như  
vậy chủ yếu được định niên đại thuộc văn hóa Sơn Vi, từ 30.000 - 11.000 năm cách nay dựa vào loại hình  
học công cụ. Nhưng các nhận định về thời điểm hình thành và xuất hiện các di chỉ được định niên đại Đá cũ  
như vậy cho đến nay phải được xem xét lại một cách thấu đáo vì đó chỉ là nhận định mang tính cảm tính. Các  
tác giả công trình Văn hóa Sơn Vi cũng thừa nhận rằng, vấn đề niên đại khởi đầu của văn hóa này chưa được  
khẳng định một cách chắc chắn (Hà Văn Tấn và nnk 1999: 148). Có một thực tế, các di tích được coi là Sơn  
Vi ngoài trời ở nước ta chưa có một di tích nào có niên đại tuyệt đối quá 30.000BP. Trong khi đó, một số  
hang động Hòa Bình tiêu biểu đã được định niên đại tuyệt đối như hang Chổ sớm nhất là 29.140±200BP và  
một hệ thống niên đại kéo dài từ 2 vạn năm đến gần 1 vạn năm cách ngày nay (Yi và nnk 2008: 77), mái đá  
Thẩm Khương từ 27.700±200BP đến 32.100±150BP (Hà Văn Tấn và nnk 1998: 105; Hà Văn Tấn và  
nnk1999: 149). Thậm chí, khung niên đại của phức hợp kỹ thuật Hòa Bình ở Đông Nam Á lục địa có thể lên  
đến 43.500 năm cách nay (Ji và nnk 2016: 3).  
Phạm Thanh Sơn và nnk - Sưu tập di vt đá di chNm Lung…  
11  
Vì vậy, có thể nhận định thời điểm xuất hiện văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam ít nhất cũng phải từ  
khoảng 3 vạn năm cách ngày nay. Thay vì cho rằng Sơn Vi là tiền Hòa Bình thì có thể lập luận ngược lại dựa  
trên các niên đại tin cậy rằng, kỹ nghệ Sơn Vi liệu có phải là hậu duệ của truyền thống chế tác đá Hòa Bình ở  
miền Bắc Việt Nam hay không?  
Ở nước ta, nghiên cứu gần đây cho thấy, niên đại di chỉ hang động thuộc văn hóa Hòa Bình muộn tại  
hang Phia Muồn dao động từ 4.150±55BP và 4.280±120BP (Trình Năng Chung 2012: 14) và có thể minh  
chứng cho sự tồn tại lâu dài của truyền thống chế tác đá Hòa Bình. Không những vậy, niên đại kết thúc của  
phức hợp kỹ thuật Hòa Bình ở khu vực Đông Nam Á có thể ở vào một thời điểm còn muộn hơn nữa với  
kết quả từ cuộc khai quật di chỉ Huai Hin (Thái Lan) cho niên đại tuyệt đối là 3.700±30BP (Hubert và  
nnk 2013: 10).  
Một câu hỏi được đặt ra và cần thiết phải giải đáp đó là, có đúng là nhiều di tích được nhận định niên  
đại Đá cũ Sơn Vi ở Tây Bắc là các di tích Đá cũ thực sự hay đó chỉ là các di tích Đá mới sẽ là mối quan tâm  
của ngành khảo cổ trong nhiều năm về sau.  
Từ các kết quả niên đại thu được bằng các phương pháp khoa học tự nhiên đã đem lại cho chúng ta  
những nhận thức mới. Chỉ sử dụng loại hình học công cụ để định niên đại cho các di chỉ/kỹ nghệ/văn hóa rõ  
ràng không phù hợp. Nếu dựa vào phương pháp này thì chí ít cũng cần quan tâm đến vấn đề diễn biến địa  
tầng hay chú ý đến sự xuất hiện của những kỹ thuật khác biệt, tiến bộ hơn như kỹ thuật mài, kỹ thuật cưa hay  
khoan thì sẽ có cơ sở khách quan hơn để nhìn nhận, đoán định di chỉ đó có thể thuộc vào thời đại nào.  
Giống như nhiều di chỉ tiền sử ngoài trời đã được khai quật, chúng tôi không thu được mẫu than để  
xác định niên đại tại các di tích Nậm Luồng, Pô Lếch hay Nậm Củm. Trong khi đó, việc sử áp dụng phương  
pháp kích quang (Optically-Stimulated Luminescence) để định niên đại bằng mẫu đất ở nước ta chưa thể thực  
hiện do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vả lại, chi phí gửi mẫu và phân tích của phương pháp  
này rất lớn. Do vậy, vấn đề niên đại tuyệt đối là thiếu sót chẳng những ở Nậm Luồng mà còn đối với hàng  
trăm di chỉ khảo cổ học tiền sử thềm sông, suối đã khai quật ở Tây Bắc Việt Nam.  
Gần đây những kết quả phân tích niên đại ở di chỉ Huổi Ca bằng mẫu than hạt trám tại đại học  
Tokyo cho tuổi tuyệt đối trong khoảng 5.435BP đến 5.655BP trong điều kiện địa tng ổn định (Yoshida và  
nnk 2013: 100-101). Da trên các thuc tính công cụ và đặc trưng về kthut, các tác giả đã xếp Hui Ca  
mang phong cách Hòa Bình muộn kéo dài đến trung - đầu hu kỳ Đá mới (Lê Hải Đăng 2008: 23). Đó là một  
nhận định đáng lưu ý và niên đại ca di chỉ cũng sẽ khiến cho nhiu nhà nghiên cu phi quan tâm.  
Khi xem xét loại hình, kỹ nghệ ở Nậm Luồng, chúng tôi không tách biệt di chỉ này mà coi đây là  
một thành tố của bức tranh chung về kỹ nghệ/văn hóa khu vực Mường Tè. Có thể tại Nậm Luồng chưa phát  
hiện công cụ hình bầu dục, công cụ hình đĩa, phác vật rìu hay cưa đá, rìu mài lưỡi như Pô Lếch, Nậm Củm và  
Huổi Han nhưng bộ mặt loại hình học công cụ đá và kỹ thuật chế tác thì không có sự khác biệt. Chính vì thế,  
việc xem xét tổng thể các thuộc tính kỹ thuật ở Nậm Luồng sẽ phải gắn với bối cảnh chung ở Mường Tè.  
Tại Nậm Củm và Pô Lếch, các hiện vật như cưa đá, đá có vết cưa, phác vật rìu tứ giác cho thấy thời  
điểm tồn tại đã thuộc thời đại Đá mới và chúng đều được phát hiện cùng với các công cụ ghè đẽo trong tầng  
văn hóa không xáo trộn.  
12  
Kh¶o cæ häc, sè 6 - 2017  
Đặt trong mối liên hệ so sánh về loại hình và kỹ thuật với các di chỉ khảo cổ học lòng hồ thủy điện  
Lai Châu, các so sánh loại hình di vật và tiến bộ kỹ thuật mang tính thời đại, chúng tôi cho rằng, cư dân ở bản  
Nậm Luồng xa xưa thuộc vào giai đoạn cuối trung kỳ Đá mới. Niên đại dự đoán có thể nằm trong khoảng  
5.000 - 6.000BP. Những di tồn văn hóa vật chất ở khu vực Mường Tè đại diện cho phức hợp kỹ thuật Hòa  
Bình và hậu Hòa Bình ngoài trời.  
TÀI LIỆU DẪN  
HÀ VĂN TẤN (chbiên) 1998. Kho chc Vit Nam Tp I: Thời đại Đá Việt Nam. Nxb. Khoa hc xã hi.  
HÀ VĂN TẤN (chbiên). 1999. Văn hóa Sơn Vi. Nxb. Khoa hc xã hi.  
HURBERT FORESTIER, VALERY ZEITOUN, CHINNAWUT WINAYALAI, CHRISTOPHE MÉTAIS 2013.  
The open-air site of Huai Hin (Northwestern Thailand): Chronological perspectives for the  
Hoabinhian”. C. R. Palevol 12: 45-55.  
JI, XUEPING ET AL. 2016. “The Oldest Hoabinhian Technocomplex in Asia (43.5 Ka) at Xiaodong  
Rockshelter, Yunnan Province, Southwest China.” Quaternary International 400: 166 - 74.  
LÊ HẢI ĐĂNG 2008. Di chHui Ca trong bi cnh tin sử thượng du sông Đà. Luận văn Thạc sĩ. Trường  
Đại hc Khoa hc xã hội và Nhân văn.  
NGUYỄN THƠ ĐÌNH 2015. Báo cáo kết qukhai qut di chPô Lếch (xã Kan H, huyện Mường Tè, Lai Châu).  
Tư liệu Vin Kho chc.  
NGUYN XUÂN MNH 2015. Báo cáo kết qukhai qut di chNm Củm (xã Mường Tè, huyn  
Mường Tè, Lai Châu). Tư liệu Vin Kho chc.  
PHẠM THANH SƠN 2015. Báo cáo khai qut di chbn Nm Lung, xã Kan H, huyện Mường Tè (Lai  
Châu) 2014. Tư liệu Vin Kho chc.  
TRÌNH NĂNG CHUNG 2010. Hang Phia Mun (Tuyên Quang). Kho chc, s6: 3-16.  
YI, S., LEE, J., KIM, S., YOO, Y., KIM, D. 2008. New data at Hang Cho cave Nothern Vietnam. IPPA  
perspectives 28: 73-79.  
YOSHIDA KUNIO AND LÊ HẢI ĐĂNG 2013. AMS Radiocacbon Dating at Hui Ca site, Lai Châu,  
northern Vietnam. In Kanazawa Cultural Resource Studies 6: 102-108.  
ASSEMBLAGE OF STONE ARTIFACTS FROM NM LUNG  
SITE (LAI CHÂU PROVINCE)  
PHẠM THANH SƠN, BÙI VĂN LIÊM,  
NGUYỄN THƠ ĐÌNH, NGUYỄN XUÂN MNH  
The Nậm Luồng site, one of the open-air prehistorical sites with fairly intact cultural layers in both  
Lai Châu province and Tây Bắc areas (the northwestern part of Northern Việt Nam), which were excavated in  
2004 on the area of 200m2. This paper concentrates on the analysis of the tool attributes to clarify the  
characteristics of the forms and techiques for making Nậm Luồng stone tools. Based on this analysis, the  
authors conducted the comparitive research with other archaeological sites in Lai Châu hydro-electric lake  
area of Mường Tè district, Lai Châu province such as Nậm Củm and Pô Lếch and the resutls demonstrate  
many similarities in forms and techniques making tools of these sites. Based on the analysis, the form  
comparision, and tool techniques, the authors have anticipated that the Nậm Luồng site was ca.5000 - 6000  
BP, and have simutanously suggested an idea of spacious appearance of the open-air Hòa Bình technological  
complex in Northern Việt Nam.  
pdf 10 trang yennguyen 22/04/2022 540
Bạn đang xem tài liệu "Sưu tập di vật đá di chỉ Nậm Luồng (Lai Châu)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfsuu_tap_di_vat_da_di_chi_nam_luong_lai_chau.pdf