Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1954

Tp chí Khoa hc TDMU  
S3(28) 2016, Tháng 6 2016  
ISSN: 1859 - 4433  
           N          M           N          N M  
      O N   45-1954  
Nguyễn  hị Kim Ngoan  
Trường Đại học Thủ Dầu Một  
  M    
Mỹ thuật Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945 – 1954 là một pho sử thi đồ sộ bằng tranh  
tràn đầy giá trị hiện thực. Thông qua quá trình sưu tầm các tác phẩm tiêu biểu ra đời trong  
cuộc kháng chiến chống Pháp, bài báo góp phần làm rõ nét mối quan hệ biện chứng giữa  
hiện thực và nghệ thuật, phân tích giá trị độc đáo của dòng nghệ thuật thấm đẫm tính hiện  
thực, tính chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam, khẳng định gtrị hiện  
thực luôn tồn tại trong mọi khuynh hướng nghệ thuật.  
Từ khóa: hiện thực, hiện đại, mỹ thuật, Việt Nam  
 . Mở đầu  
trong nghệ thuật lại bị xem là lạc hậu đối  
với những họa sĩ cấp tiến bị mất phƣơng  
hƣớng trƣớc nhiều trào lƣu nghệ thuật đang  
thâm nhập vào nƣớc ta. Thậm chí một số  
họa sĩ còn phủ nhận giá trị của dòng nghệ  
thuật hiện thực một thời đã ghi đậm những  
trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.  
Với niềm tự hào về dòng nghệ thuật đã có  
nhiều cống hiến to lớn trong quá trình tạo  
nên chiến thắng thần kỳ của dân tộc, bài  
báo góp phần làm rõ nét mối quan hệ biện  
chứng giữa hiện thực và nghệ thuật, phân  
tích giá trị độc đáo của dòng nghệ thuật  
thấm đẫm tính hiện thực, tính chủ nghĩa  
anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam,  
khẳng định gtrị hiện thực luôn tồn tại  
trong mọi khuynh hƣớng nghệ thuật.  
Trong sự phát triển của nhân loại, hiện  
thực luôn là ngƣời bạn đồng hành với sự  
xuất hiện và tiến hóa của con ngƣời. Hiện  
thực luôn tồn tại một cách khách quan và  
chủ quan trong cuộc sống. Đó là mối quan  
hệ mang tính tƣơng tác biện chứng mà  
thông qua hoạt động nhận thức, cải tạo hiện  
thực, con ngƣời không chỉ tự khẳng định  
mình nhƣ những lực lƣợng bản chất ngƣời  
mà còn với tính cách là một thực thể tự  
nhiên xã hội.  
Những năm gần đây, với chính sách  
mở cửa, hội nhập thế giới của Đảng và Nhà  
nƣớc, song song với sự giao lƣu kinh tế là  
sự xuất hiện nhiều xu hƣớng nghệ thuật đa  
dạng của các nƣớc phƣơng tây. Điều này đã  
tạo cho Mỹ thuật Việt Nam một diện mạo  
mới vừa phong phú đa dạng nhƣng cũng  
không kém phần phức tạp. Một bộ phận  
không nhỏ các họa sĩ bị choáng ngợp trƣớc  
những cái “cũ ngƣời mới ta”. Họ cho rằng  
“nghệ thuật” chỉ nên vì “nghệ thuật” và  
không cần thiết phải có bóng dáng của hiện  
thực trong nghệ thuật. Giá trị hiện thực  
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nghệ  
thuật và hiện thực  
Trong sự tồn tại và phát triển, con  
ngƣời luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết  
với hiện thực. Hiện thực chính là mảnh đất  
màu mỡ tạo nên sự thăng hoa cho sáng tạo  
nghệ thuật. Thông qua quá trình lao động  
con ngƣời đã tạo ra một sản phẩm chƣa  
82  
TDMU, s3(28) 2016  
Giá trhin thc ca mthut hiện đại Vit Nam...  
từng có trong thiên nhiên, sản phẩm đặc  
biệt của sự sáng tạo là đỉnh cao của giá trị  
thẩm mỹ. Hiện thực cuộc sống chính là cội  
nguồn của nội dung nghệ thuật. Cái đẹp  
trong nghệ thuật chính là tấm gƣơng phản  
chiếu cái đẹp trong cuộc sống. Tác phẩm  
nghệ thuật là nơi mối quan hệ thẩm mỹ  
giữa con ngƣời và hiện thực đƣợc thể hiện  
ở mức độ cao nhất. Nếu phủ nhận hiện  
thực, nghệ thuật sẽ mất đi các đối tƣợng  
thẩm mỹ một trong những yếu tố quan  
trọng góp phần tạo nên trƣờng thẩm mỹ  
cho ngƣời nghệ sỹ trong quá trình sáng tạo.  
Trong công trình nghiên cứu về sáng tạo  
nghệ thuật, hiện thực, con ngƣời đạt giải  
thƣởng quốc gia Liên Xô năm 1980 của  
M.B. Khraptrenko đã phản đối mạnh mẽ  
quan niệm nhân đôi thế giới bằng hình  
tƣợng nghệ thuật của M. Kagan. Quan niệm  
này cho rằng: “nghệ thuật bao giờ cũng là  
sự nhân đôi hƣ ảo và là sự tiếp tục của hành  
động sống thực tế” [20, tr.164]. M.B.  
Khraptrenko đã không thừa nhận sự thoát  
ly những mâu thuẩn của cuộc sống, phủ  
nhận cuộc sống với tƣ cách là đối tƣợng  
sáng tác là mô hình nghệ thuật của hiện  
thực. Theo ông “sự lãng quên ngọn nguồn  
cuộc sống của sáng tác nghệ thuật không  
chỉ dẫn đến, cả trong bản thân nghệ thuật  
cũng nhƣ trong lý thuyết nghệ thuật, sự  
đánh mất những cơ sở nội dung phong phú  
của nghệ thuật, mà còn dẫn đến sự thủ tiêu  
đặc trƣng của nó” [20, tr.157]. Hiện thực  
luôn có sự chi phối đặc biệt đối với nghệ  
thuật tạo hình từ giai đoạn cổ đại đến giai  
đoạn hiện đại. Tùy theo từng giai đoạn lịch  
sử, có lúc tính hiện thực trong các tác phẩm  
nghệ thuật đƣợc đề cao tạo thành một trào  
lƣu sáng tác chính thống, có lúc lắng đọng  
đằng sau những phƣơng pháp khác. Nhƣng  
nhìn chung, cho dù nghệ thuật có phát triển  
theo bất cứ khuynh hƣớng, trào lƣu sáng  
tác nào cũng đều chịu sự chi phối của hiện  
thực ở một mức độ nhất định. Nghệ thuật  
không thể thoát ly hiện thực.  
3.  ình hình xã hội và sự chuyển  
hướng trong quan điểm nghệ thuật giai  
đoạn   45-1954  
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành  
công, nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa  
vừa ra đời thì thực dân Pháp trở lại xâm  
lƣợc nƣớc ta lần thứ hai. Hƣởng ứng lời  
kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chúng  
ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất  
nƣớc, chứ nhất định không làm nô lệ”, các  
nghệ sĩ yêu nƣớc đã tham gia vào cuộc  
chiến, quyết đem một phần sức lực của  
mình bảo vệ quê hƣơng. Trong quá trình  
tham gia các chiến dịch trên mọi nẻo đƣờng  
đất nƣớc, hiện thực của cuộc kháng chiến  
đã tạo nên sự chuyển biến rất lớn trong  
quan điểm sáng tác của các nghệ sĩ giai  
đoạn này. Nếu nhƣ mỹ thuật giai đoạn đầu  
thế kỷ XIX đã phản ánh hiện thực cuộc  
sống nhƣng chƣa diễn tả đƣợc những vấn  
đề lớn mang tính thời đại, chƣa đến đƣợc  
với đông đảo quần chúng lao động thì trong  
giai đoạn này mỹ thuật hình thành và phát  
triển dƣới chính quyền cách mạng, theo  
đƣờng lối văn nghệ của Đảng, vì sự nghiệp  
cao cả của Tổ quốc. Sau một số hội nghị  
văn hóa, văn nghệ và các cuộc tranh luận  
tại chiến khu Việt Bắc, phƣơng pháp hiện  
thực xã hội chủ nghĩa xuất phát từ Liên Xô  
đã đƣợc phổ biến và vận dụng một cách  
phù hợp vào đƣờng lối văn nghệ Việt Nam.  
Đặc biệt, tháng 7-1948 tại Đại hội Văn hóa  
toàn quốc, Tổng thƣ Trƣờng Chinh đã  
thông qua báo cáo quan trọng “Chủ nghĩa  
Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam”[4]. Khái  
niệm hiện thực xã hội chủ nghĩa đƣợc giải  
thích một cách cụ thể. Tại Đại hội văn nghệ  
lần hai, Trƣờng Chinh tiếp tục nhấn mạnh  
“tăng cƣờng tính Đảng, đi sâu vào cuộc  
83  
TDMU, s3(28) 2016  
Nguyn ThKim Ngoan  
sống mới để phục vụ nhân dân, phục vụ  
cách mạng tốt hơn nữa” [4, tr.218] nhằm  
mục đích nâng cao và phát triển quan điểm  
sáng tác trong văn nghệ sĩ, yêu cầu đƣa  
nghệ thuật đi sâu vào cách mạng, phục vụ  
nhân dân. Những đổi mới về quan điểm của  
Đảng trong đƣờng lối lãnh đạo văn hóa,  
văn nghệ đã tác động rất lớn đối với nhận  
thức của các nghệ sĩ. Triển lãm hội họa  
năm 1951 với gần 200 tác phẩm hội họa có  
giá trị đã chứng tỏ sự chuyển hƣớng trong  
quan niệm sáng tác của họ. Chủ tịch Hồ Chí  
Minh đã gửi một bức thƣ với lời khẳng định  
“Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận. Anh  
chị em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”  
[19, tr. 349]. Giờ đây giới văn nghệ sĩ đã ý  
thức đƣợc trách nhiệm đối với đất nƣớc, họ  
đã nhận ra rằng hiện thực cuộc chiến rất đỗi  
hào hùng của dân tộc mới chính là sự thăng  
hoa tuyệt vời cho các tác phẩm nghệ thuật.  
Và công chúng thƣởng thức hôm nay  
không phải là tầng lớp thƣợng lƣu mà chính  
là những ngƣời lao động chân lấm tay bùn,  
những bác công nhân, những anh chiến sĩ.  
Vì vậy đã tạo nên những chuyển biến lớn  
về mặt hình thức và nội dung sáng tác, hình  
thành nên một dòng nghệ thuật cách mạng  
chính thống theo bút pháp hiện thực xã hội  
chủ nghĩa phản ánh một cách sinh động  
cuộc chiến hào hùng của dân tộc.  
sĩ là con đẻ toàn diện của hoàn cảnh nó đã  
sống nhƣ đứa con mang máu thịt và cái mùi  
riêng của cha mẹ” [14, tr.303]. Có thể nhận  
thấy hiện thực của cuộc kháng chiến chống  
Pháp chính là khách thể thẩm mỹ tác động  
một cách trực tiếp vào nhận thức của ngƣời  
nghệ sĩ tạo nên cảm xúc thẩm mỹ, tiền đề  
cho quá trình sáng tạo nghệ thuật. Các tác  
phẩm mỹ thuật giai đoạn 1945-1954 chính  
là sự phản ánh chân thực cuộc đấu tranh  
trƣờng kỳ chống Pháp của dân tộc Việt Nam  
thể hiện qua những tác phẩm tiêu biểu.  
Thật vậy cái khí thế hào hùng pha chất  
sử thi của dân tộc Việt Nam khi đi vào cuộc  
chiến đã đƣợc thể hiện rõ nét qua áp phích  
“Hà Nội vùng đứng lên” [H4.1] của họa sĩ  
Tô Ngọc Vân. Hình ảnh cô thiếu nữ với  
mái tóc dài và tà áo tung bay phấp phới tràn  
ngập cả mặt tranh. Những nốt nhạc và dòng  
chữ Hà Nội vùng đứng lên nhƣ một lời  
tuyên thệ nƣớc Việt Nam dù rất ôn hòa, dịu  
dàng nhƣng vẫn sẵn sàng đi vào cuộc chiến  
để bảo vệ độc lập, tự do, nhất định không  
chịu làm dân tộc nô lệ. Đến với tác phẩm  
“Bộ đội Nam tiến”[H4.2] của họa sĩ  
Nguyễn Đỗ Cung, chúng ta nhƣ sống lại  
những ngày đầu của cuộc kháng chiến  
chống Pháp. Những ngƣời thanh niên Hà  
Nội tham gia vào cuộc kháng chiến vĩ đại  
của dân tộc đã ra đi trên mọi nẻo đƣờng đất  
nƣớc. Họ hiện lên vững chãi giữa tranh  
trong màu áo xanh quân phục, súng nặng  
trĩu trên vai, gƣơng mặt rắn rỏi đanh lại,  
ánh mắt tràn đầy sự quyết tâm vào một  
ngày mai tất thắng dù trong lòng vẫn còn  
vấn vƣơng những kỷ niệm về mảnh đất nơi  
mình đã ra đi. Trong số những ngƣời thanh  
niên đã ra đi từ mảnh đất nổi tiếng ngàn  
năm văn vật ấy còn có những nhà thơ, nhạc  
sĩ, họa sĩ với tâm hồn nhạy cảm của ngƣời  
nghệ sĩ, họ nhanh chóng hòa nhập vào cuộc  
đấu tranh trƣờng kỳ của dân tộc và hàng  
4.  uộc đấu tranh trường kỳ chống  
Pháp của dân tộc  iệt Nam qua các tác  
phẩm mỹ thuật tiêu biểu (1945-1954)  
Khi nhận xét về chủ thể thẩm mỹ, đối  
tƣợng sáng tạo nghệ thuật Tố Hữu cho  
rằng: “Tôi không tin có thiên tài nào ở  
ngoài “cái ổ” của cuộc sống vĩ đại, cuộc  
sống lao động, đấu tranh đau khổ và cũng  
dũng cảm của muôn triệu ngƣời làm nên  
lịch sử. Thiên tài là gì nếu không phải là  
hƣơng của hoa, núi của đất, là sự kết tụ ở  
mức độ nào đó trí tuệ của loài ngƣời? Nghệ  
84  
TDMU, s3(28) 2016  
Giá trhin thc ca mthut hiện đại Vit Nam...  
loạt tác phẩm đã ra đời từ những cảm xúc  
chân thật trong chiến tranh. Đó là hình ảnh  
của những ngƣời hùng dân tộc đƣợc thể  
hiện qua các tác phẩm “Tiểu đội pháo” của  
họa sĩ Nguyễn Tƣ Nghiêm, “Quân binh  
xƣởng khu 5” của họa sĩ Văn Giáo, “Trận  
Tầm Vu” của họa sĩ Nguyễn Hiêm, “Du  
kích hậu địch” của họa sĩ Trịnh Bá Phòng.  
Họ hiện lên thật oai dũng với khí thế tấn  
công của những con ngƣời đi vào cuộc  
chiến bằng lòng căm thù vô hạn đối với  
những kẻ đã dày xéo quê hƣơng mình.  
khơi dậy sự căm phẩn từ hàng triệu trái tim  
của những ngƣời dân Việt Nam yêu nƣớc.  
Tác phẩm “Chạy giặc trong rừng” [H4,5]  
của họa sĩ Tô Ngọc Vân với sự phối hợp  
các sắc thái của màu xanh trên nền sơn mài  
vàng son đã tái hiện lại những gian khổ mà  
ngƣời dân Việt Nam phải gánh chịu khi đất  
nƣớc bị xâm lƣợc. Tác phẩm “Ở hang”  
[H4,6] của họa sĩ Trần Văn Cẩn đƣợc thể  
hiện trên nền lụa mềm mại, óng ả đã phản  
ánh phút giây bình yên giữa cuộc chiến  
tranh nóng bỏng. Góc hang ấy nhƣ tách ly  
khỏi thế giới bên ngoài với hình ảnh của  
những ngƣời phụ nữ đang ngồi bên nhau  
thật đầm ấm. Họ cùng chia sẻ với nhau  
những gian nan nguy hiểm và có cùng một  
mơ ƣớc cháy bỏng đƣợc thoát khỏi góc  
hang tuy bình yên nhƣng tăm tối đó để có  
thể đón ánh dƣơng chiếu rạng giữa bầu trời  
cao rộng. Đó chính là ánh sáng của độc lập,  
tự do, thế nhƣng đối với những ngƣời dân  
bị mất nƣớc thì vùng trời cao rộng ngoài  
chốn hang sâu tăm tối đã trở thành mối đe  
dọa của những trận bom, những trận càn  
quét có thể cƣớp đi sự sống của bản thân và  
những ngƣời thân yêu bên cạnh.  
Bên cạnh việc phản ánh lại cuộc chiến  
đấu ngoan cƣờng của đất nƣớc, các tác  
phẩm giai đoạn này còn phơi bày tội ác của  
giặc Pháp và khát vọng chiếm lĩnh tri thức  
của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến.  
Đến với tác phẩm “Giặc đốt làng  
tôi’’[H4.3], một bức tranh có bố cục và  
màu sắc đẹp. Bằng chất liệu sơn dầu với  
những nhát cọ mạnh bạo, chắc khỏe, họa sĩ  
Nguyễn Sáng đã tái hiện lại khung cảnh  
gặp nhau giữa đoàn bộ đội và những ngƣời  
dân chạy loạn. Đó là cái không khí hối hả  
của đoàn ngƣời bồng bế, dắt díu nhau rời  
bỏ ngôi làng thân thƣơng sắp trở thành tro  
bụi dƣới ngọn lửa tàn ác của kẻ thù. Những  
em bé đã sớm mất đi nét thơ ngây, hồn  
nhiên của lứa tuổi. Bà lão dân tộc bƣớc đi  
với nét mặt đăm chiêu, trầm tƣ. Một ngƣời  
phụ nữ Thái trắng địu con thơ trên lƣng, tay  
chỉ về hƣớng ngôi làng còn đang bốc cháy  
của mình trút cạn những nổi đau thƣơng  
với anh bộ đội trong sự ngậm ngùi. Anh bộ  
đội lặng ngƣời trƣớc nổi đau của đồng bào  
mình. Đoàn quân phía sau anh vẫn đều  
bƣớc nhƣng gƣơng mặt hiện lên nét đau  
khổ, căm thù. Tình yêu thƣơng và những  
nổi mất mát đã chuyển thành lòng căm thù  
đối với quân xâm lƣợc. Áp phích “Giặc giết  
hiếp” [H4.4] của họa sĩ Tô Ngọc Vân là lời  
tố cáo đanh thép đối với quân xâm lƣợc. Nó  
Chiến tranh đã cƣớp đi của ngƣời Việt  
Nam những phút giây bình yên, thế nhƣng  
niềm khát khao đƣợc tồn tại, đƣợc phát  
triển vẫn bừng lên một cách mãnh liệt.  
Phong trào “xóa nạn mù ch" đƣợc toàn thể  
nhân dân hƣởng ứng mạnh mẽ. Tác phẩm  
“Cùng nhau học tập”[H4.7] của họa sĩ Trần  
Văn Cẩn với sự cách tân tranh khắc gỗ trên  
nền truyền thống dân tộc đã phản ánh đƣợc  
tinh thần say mê học tập của thanh thiếu  
niên trong chiến tranh. Chiến tranh đã cƣớp  
đi của họ những giờ học bình yên nơi mái  
trƣờng yêu dấu nhƣng không ngăn đƣợc  
khát vọng khám phá kiến thức của họ giữa  
mƣa bom bão đạn. Hình ảnh hai cô thiếu nữ  
ngồi học bên nhau say sƣa nhƣ một niềm  
85  
TDMU, s3(28) 2016  
Nguyn ThKim Ngoan  
hy vọng mãnh liệt của đất nƣớc vào tƣơng  
lai của thế hệ trẻ mai sau. Họ nhƣ những  
bông hoa, những mầm xanh của dân tộc  
Viêt Nam luôn rực rỡ dù hoàn cảnh khắc  
nghiệt. Khát vọng học tập không chỉ dừng  
lại ở lớp trẻ mà nó là tinh thần chung của  
nhân dân. Tác phẩm “Đốt đuốc đi học”  
[H4.8] đƣợc vẽ bằng thuốc nƣớc của họa sĩ  
Tô Ngọc Vân thể hiện hình ảnh ông lão  
một tay ôm sách vở, một tay cầm bó đuốc  
sáng rực trong tay trên đƣờng đến lớp học.  
Sự tấn công và đàn áp của kẻ thù vẫn  
không thể dập tắt đƣợc nhu cầu học tập,  
chiếm lĩnh nguồn tri thức của những ngƣời  
dân bị xâm lƣợc.  
những rung cảm riêng tƣ hay sự gặp gỡ  
giữa những ngƣời đồng chí mới quen cũng  
thắm thiết tình quân dân nhƣ cá nƣớc sum  
vầy. Phút giây gặp gỡ giữa cha và con, vợ  
và chồng, đôi lứa yêu nhau, những ngƣời  
đồng hƣơng, những cô dân công gặp những  
anh bộ đội, những cô thanh niên xung  
phong gặp những anh lính xe tăng vui tính  
hay sự gặp gỡ tình cờ giữa các binh chủng  
khác nhau cũng đều hòa quyện một thứ tình  
cảm đặc biệt pha trộn giữa gia đình và đất  
nƣớc. Cái riêng và cái chung đã trở thành  
một thể thống nhất, gắn bó mật thiết không  
phủ định lẫn nhau, đó là một trong những  
nét đẹp của tình quân dân đƣợc thể hiện rõ  
nét trong các tác phẩm mỹ thuật giai đoạn  
này. Họa sĩ Mai Văn Hiến với chất liệu bột  
màu trong trẻo, hòa sắc tƣơi tắn, đậm đà đã  
thể hiện một cuộc “Gặp gỡ[H4.9] cảm  
động diễn ra giữa vùng đồi núi bao la  
hoang vắng. Không gian u tịch bỗng nhộn  
nhịp hẳn lên trƣớc sự xuất hiện của những  
cô dân công duyên dáng và những anh bộ  
đội vui tính. Họ cùng đi về một hƣớng lẫn  
cả vào nhau hồ hởi và vội vã. Một anh bộ  
đội vai nặng trĩu ba lô, súng khoác trên vai  
đột nhiên tách ra khỏi hàng quay lại hƣớng  
về phía cô dân công có khuôn mặt tròn  
trĩnh chít khăn mỏ quạ, áo bà ba giản dị,  
đôi bồ nông vẫn chƣa kịp đặt xuống chân.  
Họ lặng lẽ trao cho nhau ánh mắt dịu dàng,  
đằm thắm, một cách biểu đạt tình cảm hết  
sức Á Đông không dồn dập, vội vã mà lắng  
đọng, thâm trầm. Niềm vui gặp gỡ không  
chỉ tràn ngập trong ánh mắt của cô dân  
công và anh bộ đội mà còn lan tỏa khắp nơi  
trong lòng tất cả mọi ngƣời. Niềm vui riêng  
của họ đã hòa với niềm vui chung của tập  
thể. Sự biệt ly sau đó không hề mang nỗi  
buồn cô đơn mà nó đã trở nên ấm áp hơn  
bởi sự chia sẻ của tập thể. Bên cạnh những  
cuộc gặp gỡ in đậm niềm vui và nỗi mất  
Cuộc kháng chiến của dân tộc Việt  
Nam đã liên kết đƣợc các giai cấp trong  
toàn xã hội từ công nhân, nông dân đến  
tầng lớp trí thức. Tất cả đều sát cánh bên  
nhau hy sinh lợi ích riêng tƣ để đạt đến lợi  
ích chung to lớn của toàn dân tộc. Trong  
chiến tranh ác liệt, tình quân dân càng thắm  
thiết hơn, nồng nàn hơn, bộ đội gặp dân  
nhƣ cá gặp nƣớc, bộ đội luôn bám rể và  
phát triển trong lòng dân. Hiện thực đó cũng  
chính là cảm xúc thẩm mỹ cho những sáng  
tạo nghệ thuật của các họa sĩ. Có thể nói các  
tác phẩm mỹ thuật giai đoạn này đã phản  
ánh hiện thực xã hội một cách chân thực,  
sống động đây “là quá trình tìm tòi khám  
phá để hiểu biết đối tƣợng nghệ thuật, tức là  
quá trình tƣ duy hình tƣợng về tự nhiên, xã  
hội, con ngƣời của nghệ sĩ. Hiểu biết đối  
tƣợng và tái hiện, tái tạo hay tƣởng tƣợng  
ngôn ngữ nghệ thuật[4, tr.205]. Trong cuộc  
kháng chiến chống Pháp, những ngƣời  
chiến sĩ cách mạng đã ra đi bỏ lại sau lƣng  
hậu phƣơng thân thƣơng, nơi có mái nhà  
ấm cúng in đậm hình bóng vợ con yêu dấu,  
có láng giềng thân thuộc với mái đình, cây  
đa, bến nƣớc, con đò. Sự gặp gỡ giữa cuộc  
chiến ác liệt cho dù là tình cảm gia đình với  
86  
TDMU, s3(28) 2016  
Giá trhin thc ca mthut hiện đại Vit Nam...  
mát, các tác phẩm mỹ thuật giai đoạn này  
còn phản ánh một cách sinh động những  
cuộc gặp gỡ chứa đựng tình cảm cao cả  
giữa quân và dân trong cuộc kháng chiến  
chống Pháp qua các tác phẩm “Bát nƣớc”  
hay “Tình quân dân” của họa sĩ Sĩ Ngọc.  
Bắc” hay “Bác Hồ và thiếu nhi” [H4.11]  
đƣợc vẽ bằng máu trên nền lụa trong trẻo  
của họa sĩ Diệp Minh Châu đã gợi cho  
ngƣời xem một nổi xúc động bồi hồi. Với  
lối bố cục chặt chẽ, cô đọng nét bút thoáng  
tràn đầy tình cảm, hình ảnh Bác Hồ với  
gƣơng mặt hiền hòa, phúc hậu và ba em  
thiếu nhi đại diện cho ba miền Nam, Trung,  
Bắc ngộ nghĩnh, đáng yêu hiện lên giữa  
tranh nhƣ một niềm khát khao đất nƣớc  
thống nhất của toàn dân Việt Nam trong  
cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền đất  
nƣớc. Dòng màu đỏ thấm sâu, hòa quyện  
vào từng sớ lụa trắng tinh khôi đã tạo nên  
chất liệu đặc biệt cho tác phẩm. Đó chính là  
niềm tin, là tình cảm thƣơng nhớ vô bờ của  
họa sĩ Diệp Minh Châu đại diện cho miền  
Nam ruột thịt dành cho vị lãnh tụ yêu quí  
của mình. Hình ảnh Bác Hồ qua phản ánh  
của mỹ thuật có lúc thì uy nghi, cao cả, có  
lúc thì gần gũi thân quen nhƣ một vị cha  
già, một ngƣời ông thân thiết. Ký họa “Bác  
Hồ với thiếu nhi” [H4.12] của họa sĩ Lƣơng  
Xuân Nhị đã thành công trong chủ đề phản  
ánh tình cảm thân thƣơng sâu đậm của Bác  
Hồ dành cho các cháu thiếu niên nhi đồng.  
Bằng những nét đen mềm mại Bác Hồ đƣợc  
diễn tả nhƣ một ông bụt hiền từ và các cháu  
thiếu nhi đang quấn quyt xung quanh. Một số  
em đang ôm chầm lấy Bác, có em đang múa  
võ, có em đang tung tăng với bó hoa và lá cờ  
đỏ sao vàng trên tay. Tất cả các em đều vui  
đùa tung tăng bên Bác nhƣ một đàn chim sáo.  
Bác nhìn các cháu thiếu nhi với cái nhìn trìu  
mến của một ngƣời ông đối với đàn cháu thơ  
ngây. Ƣớc mơ trong những lần “băn khoăn  
giấc chẳng thành” của Bác chính là tìm thấy  
độc lập, tự do để các em thơ không phải đi  
học thời chiến với những nguy hiểm cận kề  
mà đƣợc tung tăng cắp sách đến trƣờng trong  
ánh nắng ban mai của bầu trời hòa bình cao  
lồng lộng.  
Không chỉ phản ánh cuộc đấu tranh  
dân tộc, phơi bày tội ác của quân xâm lƣợc,  
các tác phẩm giai đoạn này còn thể hiện  
hình ảnh Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu của  
dân tộc với một niềm tôn kính, yêu thƣơng.  
Một trong những tác phẩm của nhà điêu  
khắc Vũ Cao Đàm sáng tác tại Pháp đã thể  
hiện thành công “Chân dung Bác Hồ” vị  
lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Chiến tranh  
với sự tàn phá hủy diệt của nó luôn bao phủ  
khắp nơi, toàn dân tộc Việt Nam đã chiến  
đấu bằng nhiều hình thức với mục đích sau  
cùng là giải phóng đất nƣớc và cuộc chiến  
bằng trí óc là cuộc chiến âm thầm nhƣng  
còn nguy hiểm hơn cả mƣa bom bão đạn  
bởi vì nó quyết định vận mệnh của toàn dân  
tộc. Tác phẩm “Bác Hồ làm việc ở Bắc Bộ  
phủ” [H4.10] của họa sĩ Tô Ngọc Vân đƣợc  
thể hiện bằng chất liệu sơn dầu với hình  
ảnh chính là Bác Hồ, vị lãnh tụ kính yêu  
của dân tộc đang ngồi làm việc chăm chú  
trên chiếc bàn, xung quanh mọi vật đều rất  
đơn sơ từ chiếc ghế dựa đến khung tranh ở  
bức tƣờng phía sau. Bác ngồi đó dáng vẻ  
rất ung dung nhƣng hàng ngàn suy tính  
đang diễn ra trong bộ óc của nhà lãnh đạo  
tài ba ấy. Một quyết định thông minh, sáng  
suốt của ngƣời có thể đảo ngƣợc tình thế  
mang lại những thắng lợi vẻ vang, giúp  
toàn dân tộc tin vào một ngày mai tất  
thắng. Để tạo nên cuộc kháng chiến thần kỳ  
thì ngoài lòng dũng cảm, sự đoàn kết một  
lòng, một dạ giữa quân và dân, niềm tin  
tƣởng tuyệt đối vào vị lãnh tụ của mình  
cũng chính là một yếu tố vô cùng quan  
trọng. Tác phẩm “Thiếu nhi Trung, Nam,  
87  
TDMU, s3(28) 2016  
Nguyn ThKim Ngoan  
5. Kết luận  
nghệ thuật đa dạng đã và đang du nhập vào  
nƣớc ta. Lịch sử nhân loại đang chuyển  
sang một giai đoạn mới, nghệ thuật tạo  
hình cũng cần có sự đổi mới đó là một qui  
luật tất yếu. Tuy nhiên dù nghệ thuật có  
chuyển sang bất cứ một khuynh hƣớng,  
một phong cách nào thì ngƣời nghệ sĩ vẫn  
không thể thoát ly đƣợc hiện thực, các tác  
phẩm vẫn mang đặc trƣng riêng về quê  
hƣơng, đất nƣớc, con ngƣời nơi họ đang  
tồn tại. Đó chính là điểm tạo nên sự khác  
nhau giữa các nền văn hóa, tạo nên hƣơng  
sắc riêng cho nền nghệ thuật của mỗi nƣớc.  
Các họa sĩ trẻ hôm nay có quyền tìm kiếm  
thêm nhiều giống hoa lạ ở bất kỳ nơi nào  
trên vƣờn hoa thế giới để tô điểm cho vƣờn  
hoa nghệ thuật Việt Nam thêm rực rỡ sắc  
màu nhƣng đừng bao giờ quên đi những  
loài hoa cúc, hoa sen, hoa hồng quen thuộc  
của dân tộc. Đó cũng là cái riêng để tạo nên  
vẻ đẹp của nền nghệ thuật nƣớc ta trong  
vƣờn hoa nghệ thuật của nhân loại.  
Có thể khẳng định rằng chính hiện thực  
đã giúp cho nền mỹ thuật Việt Nam vẫn  
liền mạch dù trải qua bƣớc ngoặt lịch sử từ  
chế độ tƣ bản thuộc địa sang chế độ dân  
chủ cộng hòa. Bắt nguồn từ trƣờng thẩm  
mỹ gắn liền với hiện thực sinh động của  
cuộc kháng chiến trƣờng kỳ giải phóng dân  
tộc, những nghệ sĩ đã nhận thức đƣợc một  
vấn đề quan trọng trong quan niệm sáng tác,  
đó chính là nghệ thuật không chỉ vị nghệ  
thuật mà nghệ thuật còn phải vị nhân sinh.  
Mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-  
1954 đã phản ánh một cách trung thực  
những bƣớc chuyển mình của lịch sử Việt  
Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp  
chuẩn bị nền tảng cho sự phát triển đỉnh cao  
của mỹ thuật giai đoạn 1954-1975.  
Vận dụng linh hoạt tính hiện thực  
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật sẽ giúp  
ngƣời nghệ sĩ có đủ bản lĩnh tiếp thu một  
cách có chọn lọc những khuynh hƣớng  
THE REALISTIC VALUE OF VIETNAMESE MODERN ART  
DURING THE 1945  1954 PRIOD  
Nguyen Thi Kim Ngoan  
ABSTRACT  
The Vietnamese Modern Art is a colossal illustrated epic full of great realistic value.  
Through a collection of symbolic works of art appeared during the war of resistance  
against the French colonialists, the article has taken its part in making it clear the dialectic  
relation between realism and art, analyzing the unique value of the stream of art  
impregnated with the realistic characteristics, giving prominence to the heroism of the  
revolution of the Vietnamese people, and affirming the ever-lasting realistic value in all art  
forms and tendencies.  
 À  L       M K ẢO  
[1] Ban Biên tập NXB Văn hóa (1975), Nghệ thuật tạo hình Việt Nam, NXB Văn hóa.  
[2] Nguyễn Lƣơng Tiểu Bạch (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, NXB Hà Nội.  
[3] Hà Huy Bính (1997), “Nghệ thuật phản ánh hiện thực”, Những vấn đề Mỹ thuật, NXB Mỹ thuật.  
[4] Bộ Văn hóa Thông tin (1995), Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB  
Văn hóa – Thông tin.  
88  
TDMU, s3(28) 2016  
Giá trhin thc ca mthut hiện đại Vit Nam...  
[5] Bộ Văn hóa Thông tin (2003), Tuyển tập Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, NXB Văn hóa Thông tin.  
[6] PhạmThị Chỉnh (2004), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, NXB Đại học Sƣ phạm.  
[7] Phạm Văn Đồng (1976 ), Về văn hóa – văn nghệ, NXB n hóa.  
[8] Lê Sĩ Giáo chủ biên (2002), Dân tộc học đại cương, NXB Giáo dục.  
[9] Bảo Hân (2010), “Mỹ thuật hiện đại Việt Nam trên mảnh đất nghìn năm văn hiến: Thăng Long  
– Hà Nội sự kiện và bình luận", Tạp chí Mỹ thuật Việt Nam.  
[10]Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử Mỹ thuật Việt Nam, NXB Khoa học hội.  
[11]Nguyễn Phi Hoanh (1975), Văn minh nhân loại - Mỹ thuật và nghệ sĩ, NXB TP. HCM.  
[12]Nguyễn Phi Hoanh (1984), Lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, NXB TP. HCM.  
[13]Nguyễn Phi Hoanh (1993), Mỹ thuật và nghệ sĩ, NXB TP. HCM.  
[14]Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Mỹ học Mác Lênin, NXB Chính trị Quốc gia.  
[15]Hội Mỹ thuật Việt Nam (1994), 50 năm tranh tượng về lực lượng vũ trang và chiến tranh cách  
mạng, NXB Văn hóa.  
[16]Hội Mỹ thuật Việt Nam (1996), Tranh sơn dầu Việt Nam, NXB Hà Nội.  
[17]Hội Mỹ thuật Mỹ thuật Việt Nam (1997), Tranh Lụa Việt Nam, NXB Hà Nội.  
[18]Hội Mỹ thuật Việt Nam (1998), Các họa sĩ Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, NXB Hà  
Nội.  
[19]Hồ chí Minh (1977), Về công tác văn hóa văn nghệ, NXB Sự thật.  
[20]M.B.Khraptrenko (1985), Sáng tạo nghệ thuật hiện thực con người, tập hai, NXB Khoa học hội.  
[21]NguynQn(1982),NghthuậttohìnhViệtNamhiệnđại,NXB nhóa.  
[22]Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thể kỷ 20, NXB Tri thức  
[23]Quang Phòng - Quang Việt (2000), Mỹ Thuật thủ đô Hà Nội thế kỷ XX, NXB Mỹ thuật  
Bài nhận ngày: 24/04/2016  
Chấp nhận đăng: 30/05/2016  
Liên hệ: Nguyễn  hị Kim Ngoan  
Khoa Kiến trúc – Đô thị – Trƣờng Đại học Thủ Dầu Một.  
Số 6 Trần Văn Ơn, Phú Hòa – Thủ Dầu Một – Bình Dƣơng  
Email: kimngoanngoan@gmail.com  
89  
pdf 8 trang yennguyen 22/04/2022 720
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị hiện thực của mỹ thuật hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945-1954", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_hien_thuc_cua_my_thuat_hien_dai_viet_nam_giai_doan_1.pdf