Sử dụng vật liệu tổ hợp trên cơ sở graphene oxide để hấp thu nhiệt

JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 021-027  
Sử dụng vật liệu tổ hợp trên cơ sở graphene oxide để hấp thu nhiệt  
Using Graphene Oxide Based Materials for Thermal Sorption  
Bùi Thị Lệ Thuỷ*, Đào Đình Thuần, Phạm Đình Thảo  
Trường Đại học Mỏ Địa chất, Hà Nội, Việt Nam  
*Email: thuykhai2001@gmail.com  
m tắt  
Trong bài báo này, một số vật liệu tổ hợp trên cơ sở graphene oxide (GO) (Al2O3/GO, Fe3O4/GO,  
Fe3O4Al2O3/GO) được chế tạo và đặc trưng bởi phổ nhiễu xạ tia X và phổ hồng ngoại, SEM và EDX. Các  
vật liệu được phân tán vào nước muối và đo khả năng hấp thu nhiệt của hỗn hợp. Kết quả chỉ ra rằng sự  
hấp thu nhiệt của các vật liệu tổ hợp cao hơn các vật liệu riêng lẻ, trong đó Fe3O4-Al2O3/GO có khả năng  
hấp thu nhiệt cao nhất (sự chênh lệch về nhiệt độ giữa mẫu trắng và mẫu có vật liệu với hàm lượng  
0,5 mg/mL 6 °C). Ảnh hưởng của hàm lượng vật liệu trong nước muối đến hiệu suất hấp thu nhiệt đã  
được nghiên cứu và hàm lượng 0,5 mg/mL được đề nghị sử dụng. Do có từ tính nên 98% vật liệu  
Fe3O4-Al2O3/GO được thu hồi và tái sử dụng, hiệu suất hấp thu nhiệt giảm không đáng kể sau 5 lần tái sinh  
và tái sử dụng. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tiềm năng sử dụng các vật liệu này để tăng hiệu quả hấp thu năng  
lượng mặt trời trong quá trình chưng cất nước mặn thành nước ngọt.  
Tkhóa: Graphene oxide, hấp thu nhiệt, chưng cất nước mặn.  
Abstract  
In this work, some nanocomposite materials based on graphene oxide (GO) (Al2O3/GO, Fe3O4/GO,  
Fe3O4Al2O3/GO) were prepared and characterized by X-ray and infrared spectra, SEM and EDX analysis.  
GO based materials were dispersed into salty water and the thermal absorption ability of mixtures was  
measured. Results showed that thermal sorption of composite materials was greater than that of single  
materials. Fe3O4-Al2O3/GO gives the highest thermal absorption efficiency (the temperature difference  
between the blank sample and the sample containing Fe3O4-Al2O3/GO with content of 0.5 mg/mL is 6 °C).  
The influence of the material content in salty water on the thermal sorption efficiency was investigated and a  
suitable concentration of 0.5 mg/mL was found. 98% of Fe3O4-Al2O3/GO was recovered with the magnet  
because of its magnetic property and thermal absorption of recovered material are similar to that of the fresh  
material. The research results show the potential of using these nanocomposite materials to increase the  
efficiency of thermal sorption in the process of distilling salty water into fresh water.  
Keywords: graphene oxide, solar thermal sorption, distilling salty water.  
1. Giới thiệu  
nghệ được sử dụng phổ biến để sản xuất nước ngọt từ  
nước mặn là công nghệ nhiệt và công nghệ màng [1].  
Cạn* kiệt nguồn nước sinh hoạt đang là vấn đề  
mang tính toàn cầu mà hầu hết các quốc gia trên thế  
giới đã và đang phải đối mặt. Thật vậy, theo thống kê  
hiện nay trên thế giới có tới 1,5 tỷ người bị khát  
nước, 1 tỷ người đang phải sử dụng nước bị ô nhiễm  
và 120 quốc gia đang bị thiếu nước ngọt. Mỗi năm  
có hàng triệu người chết vì những căn bệnh liên quan  
đến việc dùng nước bị ô nhiễm. Dự báo đến năm  
2030, lượng nước trên toàn cầu giảm đến 40%.  
Lượng nước sụt giảm tác động lớn đến sinh hoạt, sản  
xuất lương thực, vệ sinh và sức khỏe cộng đồng, cũng  
như 98% hoạt động sản xuất điện năng trên toàn cầu.  
Việt Nam đang được xếp vào nhóm quốc gia bị thiếu  
nước, có tới 20% dân số Việt Nam hiện chưa từng  
được tiếp cận với nguồn nước sạch. Trong khi đó  
nguồn nước mặn dồi dào chiếm 70% diện tích bề mặt  
trái đất vẫn chưa được tận dụng triệt để. Hai công  
Với mục đích tận dụng nguồn năng lượng tự  
nhiên sẵn có để giảm chi phí, công nghệ chưng cất  
nước mặn bằng năng lượng mặt trời đã được nghiên  
cứu và sử dụng từ lâu. Nhược điểm chính của công  
nghệ này là rất nhiều năng lượng mặt trời bị lãng phí  
trong quá trình chưng cất, nước chỉ hấp thu được 13%  
năng lượng bức xạ. Thậm chí những dụng cụ chưng  
cất tốt nhất cũng cần rộng đến 6m2 để tạo ra đủ nước  
cho một người dùng trong một ngày  
(2,5-5 l/m2/ngày). Các nhà khoa học đang quan tâm  
nghiên cứu công nghệ để nâng cao hiệu suất hấp thu  
nhiệt và hiệu quả bay hơi nước của các hệ thống hấp  
thu năng lượng mặt trời để sử dụng cho các mục đích  
khác nhau [2-4]. Một phương pháp hiệu quả là phân  
tán các vật liệu nano có khả năng nâng cao hiệu suất  
hấp thu nhiệt vào trong môi trường chất lỏng như:  
nước, glycol, dầu… gọi là nanofluid [4,5]. Nanofluid  
chứa các hạt nano khác nhau: kim loại (Cu, Ag, Au,  
Ni), oxit kim loại (Al2O3, Cu2O, TiO2…), cacbua kim  
loại (AlN, SiN), dạng  
graphite…) đã được nghiên cứu [6]. Một số vật liệu  
C (carbon nanotubes,  
ISSN: 2734-9381  
Received: March 12, 2020; accepted: September 25, 2020  
21  
 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 021-027  
nanocomposite (hybrid nanopaticles) đã được đưa  
nước cất được thêm từ từ vào hỗn hợp để tránh hiện  
tượng quá nhiệt cục bộ, nhiệt độ của hệ được giữ ở  
90 C, hn hợp được tiếp tục khuấy trong 30 phút.  
vào chất lỏng và cho hiệu quả hấp thu nhiệt cao hơn  
vật liệu nano một thành phần [6]. Các nanofluid  
thường được sử dụng trong chưng cất nước mặn ở  
dạng: đưa vào thiết bị trao đổi nhiệt để gia nhiệt cho  
nước mặn hoặc đưa vào trong bình chưng cất chứa  
nước mặn (phương pháp hấp thu nhiệt trực tiếp).  
o
Sau đó, 80 mL H2O được cho vào để dừng phản ứng,  
khi đó nhiệt độ đạt xấp xỉ 50oC, khuấy tiếp 20 phút.  
10,5 mL dung dịch H2O2 30% được thêm vào hỗn  
hợp và hỗn hợp được khuấy khoảng 20 phút. Sản  
phẩm được lọc rửa với dung dịch HCl 0,1 M sau đó  
rửa nhiều lần với nước cất và ly tâm đến pH = 7, sấy  
Theo lý thuyết vật đen tuyệt đối thì các vật liệu  
chứa GO có màu đen có khả năng hấp thu nhiệt cao.  
Khi tạo ra vật liệu hỗn hợp thì bề mặt của vật liệu sẽ  
không đồng đều và phẳng như vật liệu GO (có cấu  
trúc lớp), càng nhiều cấu tử phối hợp thì bề mặt của  
vật liệu càng không đồng đều và khả năng phản xạ  
ánh sáng càng kém. Hơn nữa, khả năng hấp thu nhiệt  
của vật liệu còn phụ thuộc vào độ dẫn nhiệt của vật  
liệu. Theo một số nghiên cứu thì độ dẫn nhiệt của  
chất lỏng phân tán vật liệu nanocomposite (hybrid  
nanofluid) cao hơn chất lỏng phân tán các vật liệu  
đơn [7]. Các vật liệu Fe3O4, GO sử dụng trong nghiên  
cứu này đều có độ dẫn cao, Al2O3 cũng đã được kết  
hợp với Cu để tạo ra Al2O3-Cu có độ dẫn nhiệt cao  
hơn Cu [8]. Fe3O4 vừa có độ dẫn nhiệt cao vừa tạo ra  
từ tính cho vật liệu để có thể thu hồi bằng từ trường  
sau thời gian sử dụng.  
o
khô ở 60 C trong chân không thu được graphene  
oxide. Hỗn hợp sấy khô được nghiền mịn bằng cối đá  
mã não và bảo quản trong bình hút ẩm.  
2.2.2. Tổng hợp Al2O3/GO [10,11]  
Pha 100 mL dung dịch AlCl3 1 M trong ethanol  
và khuấy dung dịch trong khoảng 30 phút. Dung dịch  
NH3 được nhỏ từ từ vào dung dịch AlCl3 1 M đến  
pH = 9 (lúc này xuất hiện kết tủa màu trắng). Hỗn  
o
hợp kết tủa được cho vào autoclave và sấy ở 200 C  
trong 3 giờ. Kết tủa được rửa bằng nước cất đến  
o
pH = 7 và sấy ở 80 C. Cuối cùng, nung kết tủa ở  
o
500 C trong 5 giờ thu được Al2O3. Để tổng hợp vật  
liệu hỗn hợp GO và Al2O3, 0,15g GO được phân tán  
trong 200 mL và siêu âm trong 1 giờ. 0,15g Al2O3  
được thêm vào huyền phù GO và hỗn hợp được  
khuấy đều trong vòng 6 giờ. Cuối cùng, sản phẩm  
được sấy ở 70 oC trong 12 giờ.  
Trong nghiên cứu này, với mong muốn kết hợp  
nhiều thành phần để tăng hiệu quả hấp thu nhiệt, hệ  
vật liệu nanocomposite trên cơ sở graphene oxide  
(Al2O3/GO, Fe3O4/GO, Fe3O4-Al2O3/GO) được tổng  
hợp và đặc trưng bằng các phương pháp X-ray, phổ  
hồng ngoại, SEM và EDX. Khả năng hấp thu nhiệt  
của các vật liệu và khả năng thu hồi tái sử dụng vật  
liệu được nghiên cứu một cách hệ thống.  
2.2.3. Tổng hợp Fe3O4/GO  
Quá trình tổng hợp được tham khảo các tài liệu  
[12,13]. FeCl3.6H2O và FeSO4.7H2O được hòa tan  
vào 150 mL nước cất. Hỗn hợp được khuấy trên bếp  
từ trong 30 phút để thu được dung dịch màu vàng  
sáng. Sau 30 phút, dung dịch NH3 được nhỏ từ từ đến  
2. Thực nghiệm  
2.1. Nguyên liệu  
o
pH = 10, hỗn hợp được tiếp tục khuấy ở 65 C trong  
30 phút. Sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn, các hạt  
kết tủa màu đen được thu bằng nam châm, rửa nhiều  
lần với nước và ethanol đến pH = 7. Các hạt nano  
Fe3O4 được sấy ở 60 oC.  
Graphite loại tinh khiết (99%) mua của Công ty  
Sigma- Aldrich, H2SO4 (98%), KMnO4 (loại tinh thể,  
99%),  
H2O2  
(30%),  
FeCl3.6H2O  
(99%),  
HCl (36-38%), NaNO3 (99%), FeSO4.7H2O (99%),  
AlCl3.6H2O, ethanol (99,7%) và NH3 (25%) được  
cung cấp bởi nhà máy hóa chất Guangdong  
Guanghua, Trung Quốc.  
Tổng hợp Fe3O4/GO: 0,3g GO được thêm vào  
300 mL nước và siêu âm trong 30 phút, thu được  
huyền phù GO. Sau đó, 0,15g nano Fe3O4 được thêm  
vào huyền phù và siêu âm 30 phút để thu được một  
huyền phù đồng nhất. Hỗn hợp Fe3O4/GO được thu  
bằng nam châm và sấy ở 60 oC.  
2.2. Tổng hợp vật liệu nanocomposite để hấp thu  
năng lượng mặt trời  
2.2.4. Tổng hợp Fe3O4 -Al2O3/GO  
2.2.1. Tổng hợp GO bằng phương pháp Humers cải  
tiến [9]  
0,3g Al2O3/GO được thêm vào 300 mL nước cất  
và siêu âm trong 30 phút, thu được huyền phù  
Al2O3/GO. Sau đó, 0,15g Fe3O4 được thêm vào huyền  
phù Al2O3/GO và siêu âm 30 phút. Cuối cùng thu  
được một huyền phù đồng nhất Fe3O4-Al2O3/GO  
được thu bằng nam châm và để khô tự nhiên.  
3g bột graphite và 42 mL dung dịch H2SO4  
98% được cho vào cốc 1000 mL đã được làm lạnh  
bằng hỗn hợp nước đá và muối ăn (0oC). Hỗn hợp  
được tiếp tục làm lạnh và khuấy liên tục trong 30  
phút với tốc độ 350 vòng/phút. 0,45 g KMnO4 được  
thêm từ từ vào hỗn hợp đang khuấy trên. Tốc độ thêm  
KMnO4 phải đảm bảo sao cho nhiệt độ của hỗn hợp  
2.3. Đánh giá khả năng hấp thu nhiệt của vật liệu  
Chuẩn bị 7 cốc thủy tinh sạch dung tích 250 mL.  
Cho vào mỗi cốc 200 mL dung dịch nước muối 3,5%  
được. Sau đó cân chính xác 0,1 g mỗi mẫu vật liệu  
cho vào một cốc. Các mẫu được ký hiệu là M1, M2...  
o
không vượt quá 0 ± 5 C. Tiếp tục thêm từ từ 9 g  
KMnO4 sao cho nhiệt độ hỗn hợp không vượt quá  
35 oC ± 3 oC và khuấy trong 30 phút. Sau đó, 120 mL  
22  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 021-027  
và xếp thành một vòng tròn. Bóng đèn công suất  
hồng ngoại của Al2O3 thể hiện đầy đủ các đỉnh đặc  
trưng của Al2O3. Đỉnh có chân rộng ở 3487 cm-1 là  
do sự có mặt của nhóm Al-OH, đỉnh ở 1636 cm-1 là  
của nhóm OH trong H-O-H, đỉnh đặc trưng của nhóm  
Al-O và Al-O-Al ở trong khoảng 600 800 cm-1 [15].  
Đỉnh hấp thụ ở 571 cm-1 là dao động hóa trị của nhóm  
chức Fe-O. Kết quả này phù hợp với các số liệu đã  
được công bố trước đây [13,16]. Số sóng trong  
khoảng 1625 cm-1 đến 1400 cm-1 chỉ ra sự có mặt của  
dao động biến dạng của nhóm H-O-H, trong khi đó  
nhóm O-H có dao động hoá trị ở khoảng 3380 cm-1.  
100 W được lắp ở giữa sao cho khoảng cách từ bóng  
đèn đến mép trong của cốc là 5 cm. Nhiệt độ ban đầu  
của dung dịch trong mỗi cốc được đo và ghi lại. Bật  
bóng đèn và cứ sau 10 phút ghi lại nhiệt độ trong mỗi  
mẫu thí nghiệm.  
Khảo sát sự ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đến  
khả năng hấp thu nhiệt của vật liệu  
Thí nghiệm được bố trí tương tự như thí nghiệm  
ở mục trên. Vt liệu có khả năng hấp thu nhiệt cao  
nhất là Fe3O4-Al2O3/GO được phân tán vào dung dịch  
muối ăn 3,5%. Hỗn hợp sau đó được siêu âm để vật  
liệu phân tán tốt trong nước muối. Nhiệt độ ban đầu  
của các mẫu thí nghiệm được đo và ghi lại. Bật bóng  
đèn công suất 200W và cứ sau 10 phút ghi lại sự thay  
đổi nhiệt độ của mẫu thí nghiệm.  
Sự so sánh phổ của các vật liệu GO, Al2O3,  
Fe3O4 và Fe3O4-Al2O3/GO cho thấy phổ hồng ngoại  
của Fe3O4-Al2O3/GO có đầy đủ đỉnh đặc trưng của  
các vật liệu riêng rẽ là GO, Al2O3 và Fe3O4 nhưng với  
cường độ giảm đi. Ví dụ, cường độ của các đỉnh phổ  
đặc trưng cho GO (1692 cm-1, 1572 cm-1, 1258 cm-1  
và 1062 cm-1 của các nhóm C = O, C = C, C-OH và  
C-O) bị giảm do nồng độ GO trong mẫu giảm đi.  
2.4. Thực nghiệm đánh giá khả năng thu hồi và tái  
sinh vật liệu  
Đánh giá khả năng thu hồi vật liệu  
100  
90  
Sau thí nghiệm đánh giá khả năng hấp thu nhiệt,  
Fe3O4-Al2O3/GO được thu hồi bằng nam châm, rửa  
sạch, làm khô và ghi lại khối lượng để tính hiệu suất  
thu hồi vật liệu.  
Fe3O4-Al2O3/GO  
80  
70  
Fe3O4  
60  
Thực nghiệm đánh giá khả năng tái sinh của vật  
liệu  
50  
40  
Vật liệu Fe3O4-Al2O3/GO sau khi thu hồi được  
phân tán vào dung dịch muối ăn để đánh giá khả năng  
hấp thu nhiệt. Kết quả hấp thu nhiệt của vật liệu sau  
khi tái sinh được so sánh với khả năng hấp thu nhiệt  
của vật liệu ban đầu. Quá trình được lặp lại 5 lần.  
Al2O3  
30  
20  
GO  
10  
2.6. Phương pháp nghiên cứu đặc trưng của vật  
liệu  
0
4000  
3500  
3000  
2500  
2000  
1500  
1000  
500  
Wavenumber [cm-1]  
Các vật liệu được đặc trưng cấu trúc bằng các  
phương pháp X-ray (D8 ADVANCE BRUKER tại  
Bộ môn Hóa vô cơ, khoa Hóa Học, trường Đại Học  
Khoa Học Tự Nhiên Hà Nội), chụp kính hiển vi điện  
tử quét SEM (Jeol 6490 JED 2300 (Nhật Bản) tại  
Viện Khoa học vật liệu, Viện Hàn lâm Khoa học và  
Công nghệ Việt Nam), EDX trên đế kali (K) (JED-  
2300 - JEOL (Nhật Bản) tại Viện Khoa học vật liệu,  
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và  
FT-IR (4600 JASCO tại phòng thí nghiệm bộ môn  
Lọc-Hóa Dầu, Đại Học Mỏ - Địa Chất).  
Hình 1. Phổ hồng ngoại GO (a), Al2O3 (b), Fe3O4 (c)  
và vật liệu tổ hợp Fe3O4-Al2O3/GO (d)  
3.1.2. Nhiễu xạ tia X của các vật liệu  
Từ giản đồ XRD (Hình 2) ta thấy góc 2θ=11,2o  
là đỉnh nhiễu xạ đặc trưng cho vật liệu GO. Trong khi  
với graphite, đỉnh nhiễu xạ đặc trưng ở 2θ=26,5o,  
khoảng cách giữa các lớp chỉ là 3,35 Å. Kết quả đo  
này phù hợp với kết quả thu được từ các nghiên cứu  
trước [17,18]. Khi phối trộn các vật liệu với nhau, các  
nhóm chức OH trên bề mặt Al2O3 thể tương tác  
với các nhóm chức chứa oxy (-COOH, -OH…) trên  
bề mặt hoặc giữa các lớp của GO. Điều này làm giảm  
nh tinh thể của GO. Kết quả nhiễu xạ tia X của  
Al2O3/GO ở Hình 3 cho thấy việc đưa Al2O3 đã làm  
cho đỉnh nhiễu xạ đặc trưng của GO ở góc 2θ=11,2o  
giảm đi, thay vào đó là sự xuất hiện các đỉnh mới ở  
giá trị 2θ tương ứng là 37,1o; 45,6o và 67,1o phù hợp  
với dữ liệu nhiễu xạ tia X của γ- Al2O3. Điều này thể  
hiện cho sự tổ hợp γ - Al2O3 lên bề mặt GO [19].  
3. Kết quả và thảo luận  
3.1. Kết quả đặc trưng vật liệu  
3.1.1. Phổ hồng ngoại của các vật liệu  
Phổ hồng ngoại của GO (Hình 1) có khoảng phổ  
chân rộng với đỉnh ở 3480 cm-1 là dao động của nhóm  
–OH trong axit và nước [14]. Các đỉnh phổ tại  
1692 cm-1, 1572 cm-1, 1258 cm-1, 1062 cm-1 là hấp  
thụ đặc trưng của các nhóm C=O, C=C, C-OO và  
C-H tương ứng [8]. Các dao động này chứng tỏ sự có  
mặt của các nhóm chức chứa oxy trong GO. Phổ  
23  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 021-027  
Hình 2. Nhiễu xạ tia X của (a) graphit và GO.  
Hình 3. Nhiễu xạ tia X của GO và Al2O3/GO  
Hình 5. Ảnh SEM của vật liệu Fe3O4-Al2O3/GO.  
3.1.4 Kết quả đo EDX của các vật liệu  
Kết quả EDX của Fe3O4- Al2O3/GO cho thấy vật  
liệu chứa 4 nguyên tố C, O, Al và Fe (Bảng 1). Trong  
đó hàm lượng của O cao nhất. Nguyên tố O có mặt  
chủ yếu trong Al2O3, Fe3O4, ngoài ra nó còn tồn tại  
trong các nhóm chức (C=O, COOH...) trên bề mặt  
GO. Hàm lượng nguyên tố C trong mẫu là nhỏ nhất,  
điều này có thể gợi ý rằng mẫu đo chứa nhiều nhóm  
chức chứa oxi và các hạt nano Al2O3 và Fe3O4. Kết  
quả này có thể được giải thích là do một lượng lớn  
các hạt nano Al2O3 và Fe3O4 xen vào giữa các hốc  
trống và/hoặc bao phủ lên bề mặt của vật liệu GO.  
Hình 4. Nhiễu xạ tia X của GO và Fe3O4/GO  
Tương tự như khi phối trộn với Al2O3, việc phối  
trộn GO với Fe3O4 có thể đã làm giảm tính tinh thể  
của GO. Kết quả nhiễu xạ tia X của Fe3O4/GO ở  
Hình 4 cũng cho thấy việc đưa Fe3O4 đã làm cho đỉnh  
nhiễu xạ đặc trưng của GO ở góc 2θ=11,2o giảm đi  
đáng kể. Mặt khác có thể quan sát thấy các tín hiệu  
đặc trưng của Fe3O4 của 2θ tại 30,23o; 35,69o; 57,41o;  
62,87o [18,20]. Khi phối trộn, GO và oxit sắt từ tương  
tác và xen phủ tốt nên có thể thu hồi tới 98% bằng từ  
trường (mục 3.3). Kết quả tương tự cũng thu được khi  
đo phổ X-ray của mẫu Fe3O4-Al2O3/GO.  
Bảng 1. Kết quả đo EDX của vật liệu Fe3O4-  
Al2O3/GO  
Thành phần khối  
lượng (%)  
Thành phần  
nguyên tố (%)  
Nguyên tố  
C
O
34,40  
45,79  
8,41  
22,55  
53,82  
19,80  
3,83  
Al  
Fe  
11,40  
100,00  
3.1.3 Kết quả đo SEM của vật liệu  
Totals  
100,00  
Kết quả đo SEM của vật liệu Fe3O4- Al2O3/GO  
(Hình 5) cho thấy Fe3O4 và Al2O3 có dạng cầu kích  
thước khoảng 10 - 15 nm.  
Thông qua quy trình tổng hợp và các phép đo  
định tính cũng như định lượng ta có thể xác nhận các  
24  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 021-027  
vật liệu đã điều chế được là GO, Al2O3, Al2O3/GO,  
Fe3O4, Fe3O4/GO, Fe3O4-Al2O3/GO.  
hiệu quả hấp thu nhiệt cao nhất. Tuy nhiên, để tiết  
kiệm chi phí và giảm sự kết tụ của vật liệu khi dùng  
thời gian dài thì nên dùng nồng độ chất hấp thu trong  
nước là 0,5 mg/mL.  
3.2. Đánh giá khả năng hấp thu nhiệt của các vật  
liệu tổng hợp được  
Bảng 2. Khả năng hấp thu nhiệt của các vật liệu trên  
cơ sở GO (hàm lượng: 5 mg /mL) (M1: Mẫu trắng;  
M2: GO; M3: Al2O3; M4: Al2O3/GO; M5: Fe3O4;  
M6: Fe3O4/GO; M7: Fe3O4-Al2O3/GO)  
Việc khảo sát khả năng hấp thu nhiệt của các vật  
liệu gồm các bước sau: đo khả năng hấp thu nhiệt của  
vật liệu, khảo sát sự ảnh hưởng của hàm lượng vật  
liệu đến khả năng hấp thu nhiệt của vật liệu, khảo sát  
sự ảnh hưởng của cường độ ánh sáng đến khả năng  
hấp thu nhiệt của vật liệu.  
Thời  
Nhiệt độ (oC)  
gian  
M1 M2 M3 M4 M5 M6 M7  
(phút)  
3.2.1 Kết quả đo khả năng hấp thu nhiệt của các vật  
liệu khác nhau  
0
27  
28  
29  
30  
32  
33  
34  
35  
36  
37  
38  
38  
38  
27  
28  
30  
32  
34  
36  
38  
38  
39  
39  
40  
40  
40  
27  
28  
30  
32  
34  
34  
35  
37  
38  
40  
40  
40  
40  
27  
29  
32  
34  
35  
36  
38  
39  
40  
41  
41  
41  
41  
27  
30  
32  
34  
35  
36  
37  
38  
39  
40  
40  
41  
41  
27  
30  
33  
35  
37  
38  
39  
39  
40  
41  
42  
42  
42  
27  
30  
34  
36  
38  
39  
40  
42  
42  
43  
44  
44  
44  
Để đánh giá sự tăng khả năng hấp thu nhiệt của  
các vật liệu tổng hợp được, các vật liệu được phân tán  
vào nước muối 3,5% với nồng độ 0,5 mg/mL. Đem  
chiếu sáng các hỗn hợp và đo nhiệt độ định kỳ tại các  
thời điểm khác nhau để so sánh. Kết quả được trình  
bày Bảng 2.  
10  
20  
30  
40  
50  
Từ kết quả đo cho thấy, tất cả các vật liệu  
nghiên cứu đều làm tăng khả năng hấp thu nhiệt của  
nước muối 3,5%. So sánh các mẫu M2, M3 và M4 ta  
thấy dung dịch chứa hỗn hợp Al2O3 và GO hấp thu  
nhiệt cao hơn so với dung dịch chỉ có GO hoặc  
Al2O3. Tương tự, việc so sánh các mẫu M2, M5, M6  
cho thấy hỗn hợp của Fe3O4 với GO cũng làm tăng  
khả năng hấp thu nhiệt của nước muối so với mẫu chỉ  
có GO hoặc Fe3O4. Đặc biệt, mẫu hỗn hợp chứa cả ba  
vật liệu Fe3O4, Al2O3 và GO có khả năng hấp thu  
60  
70  
80  
90  
100  
110  
120  
o
nhiệt cao nhất, cao hơn 6 C so với mẫu trắng. Sự  
khác biệt này sẽ càng tăng khi nhiệt độ môi trường  
càng cao. Đây là mẫu vật liệu có khả năng hấp thu  
nhiệt và dẫn nhiệt tốt nhất trong các mẫu vật liệu tổng  
hợp được.  
Bảng 3. Ảnh hưởng của hàm lượng Fe3O4-Al2O3/GO  
đến khả năng hấp thu nhiệt của vật liệu  
Nhiệt độ (oC)  
Thời  
3.2.2 Kết quả khảo sát sự ảnh hưởng của hàm lượng  
đến khả năng hấp thu nhiệt của vật liệu.  
gian  
0
0,5  
1
1,5  
2
(phút) mg/mL mg/mL mg/mL mg/mL mg/mL  
Kết quả thử nghiệm đánh giá khả năng hấp thu  
nhiệt của dãy vật liệu trên cơ cở graphene oxide cho  
thấy, vật liệu Fe3O4-Al2O3/GO có khả năng hấp thu  
nhiệt tốt nhất. Vì vậy, vật liệu này được lựa chọn  
dùng trong thí nghiệm khảo sát sự ảnh hưởng của  
hàm lượng vật liệu đến khả năng hấp thu nhiệt của  
chúng. Từ đó sẽ xác định tỷ lệ m vật liệu/m H2O thích  
hợp để có hiệu suất hấp thu cao nhất đồng thời tránh  
lãng phí vật liệu. Kết quả thu được ở Bảng 3.  
0
27  
28  
29  
30  
32  
33  
34  
35  
36  
37  
38  
38  
38  
27  
30  
34  
36  
38  
39  
40  
42  
42  
43  
44  
44  
44  
27  
30  
33  
36  
38  
40  
41  
42  
42  
44  
45  
45  
45  
27  
31  
34  
37  
39  
40  
42  
43  
44  
46  
46  
46  
46  
27  
32  
35  
38  
40  
42  
44  
45  
45  
45  
45  
45  
45  
10  
20  
30  
40  
50  
60  
Khi tăng hàm lượng vật liệu phân tán trong nước  
muối từ 0,5 mg/mL đến 1,5 mg/mL thì nhiệt độ tăng  
lên 1-2 độ. Tuy nhiên khi tăng nồng độ của chất hấp  
70  
80  
o
thu lên 2 mg/mL và ở nhiệt độ cao trên 80 C thì khả  
90  
năng hấp thu nhiệt lại giảm. Điều này có thể giải  
thích là nhiệt độ cao và hàm lượng chất hấp thu lớn  
dẫn đến các hạt có xu hướng hút nhau và kết tụ với  
nhau tạo thành các hạt lớn hơn và lắng xuống dưới, vì  
vậy, làm giảm khả năng hấp thu nhiệt và dẫn nhiệt  
của cả hệ thống. Kết quả cho thấy, khi hàm lượng  
Fe3O4-Al2O3/GO là 1,5 mg/mL thì mẫu thí nghim có  
100  
110  
120  
25  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 021-027  
dính muối NaCl làm giảm khả năng phân tán cũng  
như hấp thu nhiệt, truyền nhiệt của vật liệu. Do đó,  
vật liệu cần được thu hồi, làm sạch muối và tái sử  
dụng.  
Để quá trình thu hồi xảy ra nhanh và triệt để,  
oxide sắt từ được đưa vào thành phần vật liệu để tạo  
ra vật liệu có từ tính và có thể thu hồi bằng từ trường.  
Việc đưa oxide sắt từ còn tạo hiệu ứng hiệp đồng làm  
tăng khả năng hấp thu nhiệt của vật liệu.  
Kết quả cho thấy, mẫu vật liệu nếu để lắng tự  
nhiên thì quá trình thu hồi vật liệu chậm và không  
hoàn toàn. Tuy nhiên, khi sử dụng nam châm ở đáy  
để thu hồi thì sau 10 phút, vật liệu đã bị nam châm  
hút hết về phía đáy cốc. Kết quả sau khi gạn bỏ nước,  
làm sạch và sấy, hiệu suất thu hồi đạt 98%. Điều này  
chứng tỏ vật liệu chế tạo được có khả năng thu hồi  
tốt.  
Hình 6. Kết quả đo EDX của vật liệu Fe3O4-  
Al2O3/GO  
3.2.3 Kết quả khảo sát sự ảnh hưởng của cường độ  
ánh sáng đến khả năng hấp thu nhiệt  
3.3.2. Kết quả đánh giá khả năng tái sinh vật liệu  
Sau khi thu hồi, vật liệu được rửa bằng nước  
sạch, sấy khô và đánh giá khả năng hấp thu nhiệt.  
Bảng 3 và 5 cho thấy, sau khi tái sinh 5 lần khả năng  
hấp thu nhiệt của vật liệu giảm không đáng kể.  
Vật liệu Fe3O4-Al2O3/GO được phân tán trong  
nước muối với hàm lượng 1,5 mg/mL và hỗn hợp  
được hiếu sáng với cường độ khác nhau. Kết quả thu  
được ở Bảng 4 cho thấy khi tăng cường độ chiếu sáng  
thì nhiệt độ của mẫu có chứa vật liệu tăng lên nhanh  
hơn.  
Bảng 5 Kết quả hấp thu nhiệt của vật liệu Fe3O4-  
Al2O3/GO sau khi tái sinh 5 lần  
Bảng 4. Kết quả hấp thu nhiệt với cường độ chiếu  
sáng khác nhau  
Thời  
gian  
(phút)  
Nhiệt độ (oC)  
0
0,5  
1
1,5  
2
Nhiệt độ (oC)  
mg/mL mg/mL mg/mL mg/mL mg/mL  
Thời gian (phút)  
0
29  
30  
32  
34  
34  
36  
38  
39  
40  
40  
40  
40  
40  
29  
31  
34  
34  
35  
38  
39  
40  
40  
41  
42  
42  
42  
29  
32  
36  
38  
40  
42  
44  
45  
46  
46  
46  
46  
46  
29  
33  
36  
39  
40  
42  
43  
44  
45  
46  
46  
46  
46  
29  
32  
35  
38  
39  
41  
42  
43  
44  
44  
44  
44  
44  
Bóng đèn  
100 W  
Bóng đèn  
200 W  
10  
0
27  
30  
34  
36  
38  
39  
40  
42  
42  
43  
44  
44  
44  
27  
39  
45  
49  
53  
55  
57  
59  
61  
63  
65  
67  
67  
20  
10  
30  
20  
40  
30  
50  
40  
60  
50  
70  
60  
80  
70  
90  
80  
100  
110  
120  
90  
100  
110  
120  
4. Kết luận  
Nhóm tác giả đã tổng hợp thành công các vật  
liệu hấp thu nhiệt trên cơ sở GO là: Al2O3/GO,  
Fe3O4/GO và Fe3O4-Al2O3/GO. Các kết quả phân tích  
bằng phổ FT-IR, X-ray, SEM, EDX đã chứng tỏ sự  
tạo thành của các vật liệu. Kết quả đo khả năng hấp  
thu nhiệt cho thấy các vật liệu khi dùng phối hợp cho  
hiệu quả hấp thu nhiệt cao hơn khi dùng đơn lẻ.  
Fe3O4-Al2O3/GO cho hiệu quả hấp thu cao nhất  
(chênh lêch nhiệt độ giữa mẫu trắng và mẫu có phân  
3.3. Kết quả thử nghiệm đánh giá khả năng thu hồi  
và tái sinh vật liệu  
3.3.1 Kết quả thử nghiệm đánh giá khả năng thu hồi  
Như đã trình bày trong phần tổng quan, trong  
quá trình chưng cất, khi nước bay hơi để tạo nước  
ngọt thì nước muối mới được bổ sung, vì vậy, nồng  
độ muối trong hệ tăng lên dẫn đến vật liệu hấp thu bị  
26  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 021-027  
tán vật liệu nồng độ 0,5 mg/mL là 6 oC. Kết quả khảo  
Journal of Scientific and Research Publications,  
Volume 4, Issue 10, October 2014.  
sát sự ảnh hưởng của nồng độ vật liệu đến khả năng  
hấp thu nhiệt cho thấy khi tăng nồng độ hơn  
1,5 mg/mL và chiếu sáng lâu hơn 80 phút thì hiệu  
suất hấp thu giảm. Khi dùng bóng đèn công suất cao  
gấp hai lần thì chênh lệch nhiệt độ giữa mẫu có phân  
tán vật liệu và mẫu trắng tăng lên nhiều. Vật liệu có  
từ tính nên hiệu quả thu hồi cao tới 98% và hiệu quả  
hấp thu nhiệt của vật liệu sau thu hồi xấp xỉ vật liệu  
mới.  
[11] Stephen F. Bartoluccia,., Joseph Parasa, Mohammad  
A. Rafieeb, Javad Rafieec, Sabrina Leea,Deepak  
Kapoora, Nikhil Koratkarc, Graphene–aluminum  
nanocomposites, Material Science and Engineering A  
vol. 528, pp. 79337937, 2011.  
[12] Ferni Malega, I.Putu Tedy Indrayana, Edi Suharyadi,  
Synthesis and characterization of the microstructure  
and functional group bond of Fe3O4 nanoparticles  
form natural iron sand in tobelo North Halmahera,  
Jurnal Ilmiah Pendidikan Fisika Al-BiRuNi, 7 (2018)  
pp 13-22.  
Lời cảm ơn  
Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn Bộ Giáo  
dục và Đào tạo đã tài trợ cho nghiên cứu này.  
[13] Ferni Malega, I.Putu Tedy Indrayana, Edi Suharyadi,  
Synthesis and characterization of the microstructure  
and functional group bond of Fe3O4 nanoparticles  
form natural iron sand in tobelo North Halmahera,  
Jurnal Ilmiah Pendidikan Fisika Al-BiRuNi, 7 (2018)  
pp 13-22  
Tài liệu tham khảo  
[1] Mohammad Al-harahsheh, Mousa Abu-Arabi, Hasan  
Mousa, Zobaidah Alzghoul, Solar desalination using  
solar still enhanced by external solar collector and  
PCM, Applied Thermal Engineering 128 (2018)  
10301040  
[14] S. Shiva Kumar, S.U.B. Ramakrishna, B. Rama Devi  
&
V. Himabindu, Phosphorus-doped graphene  
supported palladium (Pd/PG) electrocatalyst for the  
hydrogen evolution reaction in PEM water  
electrolysis, International Journal of Green Energy,  
vol.15, 2018, pp. 558-567,  
[2] Nửa Thế Giới đang “khát” nguồn nước sạch,  
[3] Nguồn nước ngọt thế giới đang cạn dần?,  
DOI. 10.1080/15435075.2018.1508468  
[15] Rogojan, R., Andronescu, E., Ghitulică, C., & Vasile,  
B. S., (2011). Synthesis And Characterization Of  
Alumina Nano-Powder Obtained By Sol-Gel Method,  
U.P.B. Sci. Bull, series B, 73(2), 2011.  
[4] Raj P, Subudhi S., A review of studies using  
nanofluids in flat-plate and direct absorption solar  
Collectors, Renewable and Sustainable Energy  
Reviews, 84 (2018) pp 5474.  
[16] Omid M., Kianifar A., Heris S. Z., Wen D., Sahin  
Ahmet Z., Wongwises S., Nanofluids effects on the  
evaporation rate in a solar still equipped with a heat  
exchanger, Nano Energy 36 (2017) pp 134155.  
[5] Sarsam W.S., Kazi S.N., A. Badarudin, A review of  
studies using nanofluids in flat-plate and direct  
absorption solar Collectors, Solar Energy, 122 (2015)  
pp 12451265.  
[17] Sun L., Structure and Synthesis of graphene oxide,  
Chinese Journal of Chemical Engineering, vol. 27,  
no. 10, pp. 2251-2260, 2019,  
[6] Syam Sundara L., Sharmab K.V., Singha Manoj K.,  
Sousaa A.C.M., Hybrid nanofluids preparation,  
thermal properties, heat transfer and friction factor –  
DOI. 10.1016/j.cjche.2019.05.003  
A
review, Renewable and Sustainable Energy  
[18] Hà Quang Ánh, Nghiên cứu tổng hợp và đặc trưng  
vật liệu mới cấu trúc nano trên cơ sở graphene ng  
dng trong xử lý môi trường, Luận án tiến sĩ hóa học,  
Viện Hàn Lâm Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam  
(2016).  
Reviews 68 (2017) pp 185198.  
[7] Suresh, S., Venkitaraj, K.P., Selvakumar, P., &  
Chandrasekar, M., (2012). Effect of Al2O3Cu/water  
hybrid nanofluid in heat transfer, Experimental  
Thermal and Fluid Science 38, 54-60.  
[19] Xi Liu, Ling Xue, Xiaoquan Chen, Jisheng Liu,  
Hanhan Wang, Jianwei Xue, Fuxiang Li, Zhiping Lv,  
Iron oxide and Fe2O3/Al2O3 used to catalyze  
removing hydrogen from tail chlorine at low  
temperature, College of Chemistry and Chemical  
Engineering, Taiyuan University of Technology,  
Taiyuan.  
[8] Selvakumar, P. & Suresh, S., (2012). Use of Al2O3-  
Cu/Water Hybrid Nanofluid in an Electronic Heat  
Sink, IEEE Transactions On Components, Packaging  
And Manufacturing Technology, 2(10), 1600-1607.  
[9] L. Shahriary, A.A. Athawale, Grapheneoxide  
synthesized by using modified hummers approach,  
International Journal of Renewable Energy and  
Environmental Engineering, 2, 58 - 63 (2014).  
[20] Nguyễn Hữu Hiếu, Đặng Thị Minh Kiều, Phan Thị  
Hoài Diễm, Tổng hợp Fe3O4/graphene oxide  
nanocomposite để xử lý nước thải nhiễm kim loại  
nặng, Đại học Bách Khoa, Đại học Quốc Gia Hồ Chí  
Minh.  
[10] Neethumol Varghese, Manjusha Hariharan, A. Benny  
Cherian, Dr. P.V. Sreenivasan, Jenish Paul, Asmy  
Antony. K.A, PVA  
- Assisted Synthesis and  
Characterization of Nano α -Alumina, International  
27  
pdf 7 trang yennguyen 18/04/2022 1060
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng vật liệu tổ hợp trên cơ sở graphene oxide để hấp thu nhiệt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_vat_lieu_to_hop_tren_co_so_graphene_oxide_de_hap_thu.pdf