Sử dụng vạt đảo dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm

Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
SỬ DỤNG VẠT ĐẢO DƯỚI CẰM TRONG  
TÁI TẠO KHUYẾT HỔNG KHẨU CÁI MỀM  
1
1
1
1
ĐOÀN MINH TRÔNG , ĐẶNG VŨ QUANG , TRẦN NHẬT TÀI , ĐẶNG THỊ HỒNG QUYÊN  
TÓM TẮT  
Vạt đảo dưới cằm được mô tả lần đầu bởi tác giả Martin và cộng sự năm 1993[1]. Vạt có thể lấy ở  
dạng có cuống tại vùng hoặc vạt tự do và được cấp máu bởi bó mạch dưới cằm. Thành phần vạt đảo  
dưới cằm bao gồm da, mô mỡ dưới da, cơ bám da cổ, bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng và  
có thể một phần xương hàm dưới nếu cần. Vạt đảo dưới cằm thường được chỉ định cho các khuyết hổng  
2/3 dưới khuôn mặt. Trong đó, sử dụng vạt đảo dưới cằm tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm là một lựa  
chọn tương đối tốt vì đáp ứng được chức năng nói, nuốt của bệnh nhân.  
Mục tiêu nghiên cứu: Bước đầu đánh giá kỹ thuật và kết quả sử dụng vạt đảo dưới cằm trong tái tạo  
khuyết hổng khẩu cái mềm.  
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả 10 trường hợp dùng vạt đảo dưới cằm tái tạo  
khuyết hổng khẩu cái mềm được thực hiện tại khoa Ngoại Đầu Cổ, Hàm Mặt - Bệnh viện Ung Bướu thành  
phố Hồ Chí Minh từ 01/2020 đến 10/2020.  
Kết quả: Qua 10 trường hợp tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm bằng vạt đảo dưới cằm, chúng tôi ghi  
nhận không có trường hợp nào bị hoại tử vạt hoàn toàn. Hầu hết bệnh nhân đều hài lòng về chức năng  
nói và nuốt.  
Kết luận: Vạt đảo dưới cằm là một vạt đa năng, có thể ứng dụng trong nhiều trường hợp để tái tạo  
khuyết hổng vùng đầu mặt cổ. Đặc biệt, sử dụng vạt đảo dưới cằm tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm  
giúp phục hồi tốt chức năng nói và nuốt cho bệnh nhân. Vạt có ưu điểm là linh hoạt, nguồn cung cấp máu  
đáng tin cậy và sẹo kín đáo.  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Với các sang thương vùng khẩu cái mềm  
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
Mô tả loạt ca gồm 10 trường hợp dùng vạt đảo  
dưới cằm tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm được  
thực hiện tại khoa Ngoại đầu cổ, hàm mặt - Bệnh  
viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh từ 01/2020  
đến 10/2020.  
sẽ dẫn đến các khuyết hổng sau phẫu thuật, do đó  
đòi hỏi phải tái tạo lại khuyết hổng. Vạt tự do và vạt  
tại chỗ, tại vùng là những phương pháp thường  
dùng để tạo hình các khuyết hổng này. Tuy nhiên, kỹ  
thuật dùng vạt tự do là một kỹ thuật đòi hỏi nhiều kỹ  
năng và trang thiết bị phức tạp. Một trong những lựa  
chọn có thể thay thế vạt tự do là dùng vạt tại vùng,  
trong đó vạt đảo dưới cằm là một lựa chọn tương  
đối tốt và đáp ứng được chức năng nói, nuốt của  
bệnh nhân.  
Vạt đảo dưới cằm  
Vạt đảo dưới cằm là kiểu vạt trục dựa vào bó  
mạch dưới cằm. Động mạch dưới cằm là nhánh  
hằng định của động mạch mặt. Nó đi sâu trong tuyến  
dưới hàm rồi đi về phía trước và phía trong cơ hàm  
móng. Ngay chỗ chia đường kính động mạch dưới  
cằm từ 1 – 2mm (trung bình 1,7mm). Nó có thể ở bề  
mặt (30%) hoặc sâu (70%) trong cơ nhị thân[2] và kết  
thúc phía sau điểm giữa xương hàm dưới, trên bụng  
Do đó chúng tôi thực hiện công trình này nhằm  
đánh giá bước đầu sử dụng vạt đảo dưới cằm cho  
một số khuyết hổng khẩu cái mềm.  
Ngày nhận bài: 09/10/2020  
Ngày phản biện: 03/11/2020  
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020  
Địa chỉ liên hệ: Đoàn Minh Trông  
Email: doantrongmd@gmail.com  
1 Khoa Ngoại đầu cổ, hàm mặt - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM  
78  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
trước cơ nhị thân, từ đây nó cho nhánh vào tuyến  
dưới lưỡi. Trên đường đi nó cho 1 - 4 nhánh xuyên  
nuôi da. Các nhánh này đi xuyên qua cơ bám da cổ  
đến tận cùng đám rối dưới da nối với động mạch  
phía đối diện. Rồi cung cấp máu cho da nửa bên cổ  
và cung cấp máu ngẫu nhiên tin cậy cho da đối diên.  
Vì vậy có thể cho phép lấy vạt với chiều dài từ góc  
hàm này đến góc hàm đối diện và chiều rộng tùy vào  
độ chùn da cổ. Kích thước vạt có thể 7 x 18cm. Dẫn  
lưu máu của vạt nhờ vào tĩnh mạch dưới cằm đổ  
vào tĩnh mạch mặt. Đường kính tĩnh mạch mặt từ 1 -  
2,9cm (trung bình 2.2cm). Chiều dài cuống mạch  
Kỹ thuật lấy vạt  
Chuẩn bị tiền phẫu  
Kiểm soát tốt bệnh lý đi kèm: tim mạch, đái tháo  
đường…  
Xếp giai đoạn bệnh nếu có.  
Giải thích bệnh nhân về phương pháp phẫu  
thuật và tạo hình.  
Chuẩn bị lúc phẫu thuật  
Sử dụng kháng sinh dự phòng.  
khoảng 8 cm[2,4]  
.
Gây mê qua nội khí quản đường mũi.  
Tiến hành phẫu thuật  
Bước 1: BN nằm ngửa, kê gối dưới vai, cổ  
ngữa tối đa. Dùng tay nhéo vùng da dưới cằm để  
đánh giá tình trạng da, mô dưới da, ước lượng kích  
thước tối đa có thể lấy vạt. Vẽ đường rạch da, bờ  
trên vạt cách bờ dưới xương hàm dưới khoảng  
5mm, chiều dài vạt có thể từ góc hàm này đến góc  
hàm kia. Dùng đầu dò siêu âm Doppler xác định  
đường đi động mạch mặt: vị trí gần góc hàm, bắt  
ngang bờ dưới xương hàm dưới.  
Hình 1. Động mạch dưới cằm[5]  
Hình 3. Thiết kế vạt  
Bước 2: Rạch da qua lớp cơ bám da cổ. Bóc  
tách vạt da phần đối diện trong mặt phẳng dưới lớp  
cơ bám da cổ cho đến đường giữa.  
Hình 2. Tĩnh mạch dưới cằm[5]  
Chỉ định  
Bước 3: Xác định thần kinh bờ hàm dưới đi  
song song thân xương hàm dưới, giữa lớp cơ bám  
da cổ và động tĩnh mạch mặt. Sau đó, lần lượt nhận  
định động tĩnh mạch mặt bắt chéo phía trong thần  
kinh bờ hàm dưới.  
Khuyết hổng 2/3 dưới khuôn mặt: má, môi, hốc  
miệng, xoang hàm, khẩu hầu…[2,4,6]  
Chống chỉ định  
Nhiễm trùng da vùng dưới cằm[2,6]  
Nạo hạch cổ nhóm IA[2,3,6]  
.
Bước 4: Lần theo động tĩnh mạch mặt để xác  
định động tĩnh mạch dưới cằm tại chỗ chia. Bóc tách  
dần theo nó, lấy bỏ các hạch nhóm IB và mô mỡ  
trong tam giác dưới hàm nếu có liên quan đến di  
căn[2]. Thực hiện cẩn thận để bảo tồn cuống mạch  
và thần kinh bờ hàm dưới.  
.
79  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Bước 5: Tiếp tục bóc tách dọc theo động tĩnh  
mạch dưới cằm, cắt tuyến dưới hàm và xác định gân  
của bụng trước cơ nhị thân. Cắt gân đó và bụng  
trước cơ nhị thân kèm một phần cơ hàm móng để  
bảo vệ cuống mạch và các nhánh xuyên do cuống  
tử một phần bề mặt vạt được chúng tôi cắt lọc mô  
hoại tử vào ngày hậu phẫu 13 và 1 trường hợp  
nhiễm trùng xoang hàm (T) – cửa mũi sau gây bung  
hở một phần vạt phía trước – sau được chúng tôi  
bơm rửa bằng betadine, kháng sinh tĩnh mạch và  
khâu lại vị trí hở vạt bằng chỉ Monosyn 3/0. Đa số  
bệnh nhân được ngoại trú sau 10 - 18 ngày.  
mạch dưới cằm nằm giữa 2 lớp cơ này[2, 4, 6]  
.
Có 7 bệnh nhân được nạo hạch cổ một bên; 1  
ca di căn hạch cổ nhóm IB; 1 ca di căn hạch cổ  
nhóm II; 1 ca di căn hạch cổ nhóm III; 1 ca di căn  
hạch cổ nhóm IB, II, III; và 3 ca hạch cổ dạng viêm.  
Tất cả bệnh nhân đều được xạ trị bổ túc, ngoại trừ 1  
bệnh nhân không đồng ý xạ trị.  
Đặc biệt, có 1 ca ung thư khẩu cái mềm  
cT4N3M0 với bướu lan rộng và hạch cổ phải nhóm II  
kích thước 3cm xâm lấn bó mạch cảnh, chúng tôi cắt  
bướu diện cắt không an toàn và không nạo hạch cổ,  
tạo hình vạt đảo dưới cằm, khai khí đạo dự phòng  
và xạ trị bổ túc.  
Có 9 bệnh nhân phải khai khí đạo dự phòng để  
đảm bảo đường thở sau phẫu thuật và tất cả phải ăn  
uống qua ống thông mũi dạ dày từ 14 – 20 ngày.  
Hình 4. Vạt đảo dưới cằm  
Bước 6: Tạo đường hầm dưới niêm mạc má đủ  
rộng để đưa vạt đến vị trí khuyết hổng khẩu cái mềm  
cần tái tạo. Vạt gồm da, mỡ dưới da, cơ bám da cổ,  
bụng trước cơ nhị thân, một phần cơ hàm móng.  
Đường mổ dưới cằm có thể được đặt ống dẫn lưu  
áp lực âm. Khâu da từng lớp.  
Chức năng nói được chúng tôi đánh giá sau 1  
tháng phẫu thuật: 7 (70%) bệnh nhân có giọng nói  
ngọng, khó nghe và 3 (30%) bệnh nhân nói dễ hiểu.  
Sau 2 – 3 tháng, chỉ 3 (30%) bệnh nhân còn nói  
ngọng, 3 (30%) bệnh nhân nói dễ hiểu và 4 (40%)  
bệnh nhân nói chuyện bình thường.  
Bên cạnh đó, chức năng nuốt của bệnh nhân  
cũng được chúng tôi đánh giá theo ba chế độ: chế  
độ ăn lỏng (nước suối, nước trái cây, sữa…), chế độ  
ăn sệt (cháo, ngũ cốc…) và chế độ ăn đặc (cơm, thịt  
xay,…). Có 2 (20%) bệnh nhân ăn chế độ ăn lỏng,  
8 (80%) bệnh nhân ăn chế độ ăn sệt sau 1 tháng  
phẫu thuật. Tuy nhiên, kết quả thật sự khả quan hơn  
sau 2 – 3 tháng, chỉ còn 1 (10%) bệnh nhân ăn chế  
độ ăn lỏng, 3 (30%) bệnh nhân ăn chế độ ăn sệt,  
còn lại 6 (60%) bệnh nhân có thể ăn chế độ ăn đặc.  
Hầu hết bệnh nhân đều hài lòng về thẩm mỹ và chức  
năng nói, nuốt sau 2 - 3 tháng điều trị (Bảng 2).  
Hình 5. Vạt đảo dưới cằm tái tạo khuyết hổng  
khẩu cái mềm  
Có 1 bệnh nhân ung thư tuyến nước bọt phụ  
khẩu cái mềm (T) pT4N1M0 còn ăn chế độ ăn lỏng  
sau 2 tháng phẫu thuật do nuốt khó và phải mở  
dạ dày ra da nội soi để nuôi ăn trong thời gian xạ trị  
bổ túc.  
BIẾN CHỨNG  
Theo dõi các biến chứng chảy máu, nhiễm  
trùng, hoại tử vạt, liệt thần kinh bờ hàm dưới[2,4,6]  
.
KẾT QUẢ  
Thời gian theo dõi từ 2 – 11 tháng sau phẫu  
thuật (trung bình 6.5 tháng), chúng tôi chỉ ghi nhận  
có 1 ca ung thư khẩu cái mềm (P) pT2N0M0 tái phát  
hạch cổ (P) nhóm II, chúng tôi đã phẫu thuật cắt  
rộng hạch và tiếp tục theo dõi.  
Tổng cộng 10 bệnh nhân đều ung thư vùng  
khẩu cái mềm được tái tạo khuyết hổng bằng vạt  
đảo dưới cằm, gồm có 9 ca là nam giới, tuổi từ 47  
đến 75, tuổi trung bình 61 (Bảng 1). Kích thước vạt  
trung bình 5 x 7.4cm. Chúng tôi ghi nhận không có  
trường hợp nào bị liệt thần kinh bờ hàm dưới, chảy  
máu sau phẫu thuật. Trong đó, có 1 trường hợp hoại  
80  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
Bảng 1. Mô tả đặc điểm của từng bệnh nhân  
Kích  
thước  
vạt  
Xạ trị  
bổ  
túc  
Theo  
dõi  
(tháng)  
Tình  
trạng  
hiện tại  
Bệnh  
nhân  
Giới  
tính  
Giải phẫu  
bệnh  
Ngày  
mổ  
Biến  
chứng  
Tuổi  
Chẩn đoán  
Điều trị  
(cm)  
Tái phát  
hạch cổ  
(P) nhóm  
II  
Carcinôm tế  
bào gai, grad  
2
Ung thư khẩu cái  
mềm (P) pT2N0M0  
Cắt rộng - tạo hình vạt  
dưới cằm - khai khí đạo  
1
2
Nam  
Nam  
52  
01/2020  
04/2020  
4x6  
5x7  
Không  
Có  
Có  
11  
8
Carcinôm  
nhầy bì, grad  
cao, di căn  
hạch cổ (T)  
nhóm III  
Hoại tử  
một  
phần  
bề mặt  
vạt  
Ung thư tuyến  
nước bọt phụ khẩu  
cái mềm (T)  
Cắt rộng - tạo hình đảo  
vạt dưới cằm - nạo hạch  
cổ (T) - khai khí đạo  
Sống  
không  
bệnh  
68  
pT3N1M0  
Carcinôm tế  
bào gai, grad  
1, hạch viêm  
Cắt rộng - tạo hình đảo  
vạt dưới cằm - nạo hạch  
cổ (T) - khai khí đạo  
Sống  
không  
bệnh  
Ung thư khẩu cái  
mềm (T) pT3N0M0  
3
4
Nam  
Nữ  
70  
64  
04/2020  
04/2020  
4x7  
4x6  
Không  
Không  
Có  
Có  
8
8
Ung thư tuyến  
nước bọt phụ khẩu  
cái mềm (P)  
Sống  
không  
bệnh  
Carcinôm bọc  
dạng tuyến  
Cắt rộng - tạo hình vạt  
dưới cằm - khai khí đạo  
pT2N0M0  
Ung thư tam giác  
hậu hàm (T) lan  
khẩu cái mềm  
pT3N0M0  
Carcinôm tế  
bào gai, grad  
1, hạch viêm  
Cắt rộng - tạo hình đảo  
vạt dưới cằm - nạo hạch  
cổ (T)  
Sống  
không  
bệnh  
5
Nam  
47  
04/2020  
4x7  
Không  
Có  
8
Carcinôm tế  
bào gai, grad  
2, di căn hạch  
cổ (T) nhóm  
IB, II, III  
Cắt rộng - tạo hình đảo  
vạt dưới cằm - nạo hạch  
cổ (T) - khai khí đạo  
Sống  
không  
bệnh  
Ung thư khẩu cái  
mềm (T) pT4N2M0  
Bỏ  
xạ  
6
7
Nam  
Nam  
67  
69  
06/2020  
07/2020  
6x8  
5x7  
Không  
Không  
6
5
Carcinôm tế  
bào gai, grad  
1, hạch viêm  
Cắt rộng - tạo hình đảo  
vạt dưới cằm - nạo hạch  
cổ (T) - khai khí đạo  
Sống  
không  
bệnh  
Ung thư khẩu cái  
mềm (T) pT3N0M0  
Có  
Có  
Hở một  
phần  
vạt,  
nhiễm  
trùng  
xoang  
hàm  
Ung thư tuyến  
nước bọt phụ khẩu  
cái mềm (T)  
Carcinôm  
Cắt rộng - tạo hình vạt  
dưới cằm - nạo hạch cổ  
(T) - khai khí đạo  
Sống  
không  
bệnh  
nhầy bì grad  
3, di căn hạch  
cổ (T) nhóm II  
8
Nam  
75  
08/2020  
6x8  
4
pT4N1M0  
(T)  
Ung thư khẩu cái  
mềm lan rộng  
cT4N3M0  
Carcinôm tế  
bào gai, grad  
2
Cắt bướu diện cắt không  
an toàn - tạo hình vạt  
dưới cằm - khai khí đạo  
Sống  
không  
bệnh  
9
Nam  
Nam  
47  
56  
09/2020  
10/2019  
6x10  
6x8  
Không  
Không  
Có  
Có  
3
2
Carcinôm tế  
bào gai, grad  
2, di căn hạch  
cổ (P) nhóm  
IB  
Cắt rộng - tạo hình vạt  
dưới cằm - nạo hạch cổ  
(P) - khai khí đạo  
Sống  
không  
bệnh  
Ung thư khẩu cái  
mềm (P) pT4N1M0  
10  
Bảng 2. Chức năng nói, nuốt sau tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm bằng vạt đảo dưới cằm  
Chức năng nói  
Sau 2-3 tháng  
Chức năng nuốt  
Sau 1 tháng Sau 2 - 3 tháng  
Bệnh  
nhân  
Giới  
tính  
Tuổi  
Sau 1 tháng  
Nói dễ hiểu  
Nói ngọng  
Nói ngọng  
Nói dễ hiểu  
Nói dễ hiểu  
1
2
3
4
5
Nam  
Nam  
Nam  
Nữ  
52  
68  
70  
64  
47  
Nói bình thường  
Nói dễ hiểu  
Sệt  
Lỏng  
Sệt  
Đặc  
Sệt  
Nói ngọng  
Đặc  
Đặc  
Đặc  
Nói bình thường  
Nói bình thường  
Sệt  
Nam  
Sệt  
81  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
6
7
Nam  
Nam  
Nam  
Nam  
Nam  
67  
69  
75  
47  
56  
Nói ngọng  
Nói ngọng  
Nói ngọng  
Nói ngọng  
Nói ngọng  
Nói dễ hiểu  
Nói bình thường  
Nói ngọng  
Sệt  
Sệt  
Đặc  
Đặc  
Lỏng  
Sệt  
8
Lỏng  
Sệt  
9
Nói ngọng  
10  
Nói dễ hiểu  
Sệt  
Sệt  
vạt đến khuyết hổng khẩu cái mềm. Tuy nhiên, tất cả  
bệnh nhân của chúng tôi được bảo tồn bó mạch mặt  
cả đầu xa và đầu gần, vẫn có thể chuyển vạt qua  
đường hầm dưới niêm mạc má đến tái tạo khuyết  
hổng khẩu cái mềm. Theo kết quả báo cáo của tác  
giả trên, trong 8 bệnh nhân tái tạo khẩu cái mềm  
bằng vạt dưới cằm: không có biến chứng nơi lấy vạt  
hay liệt thần kinh bờ hàm dưới, 62.5% bệnh nhân ăn  
được chế độ ăn đặc, 25% chế độ ăn mềm, 12.5%  
chế độ ăn lỏng, 75% giọng nói bình thường, 12.5%  
giọng nói dễ hiểu, 12.5% giọng nói ngọng sau trung  
bình 28 tháng theo dõi. Khi so sánh với kết quả của  
chúng tôi ghi nhận là gần tương đồng về chức năng  
nuốt và chức năng nói có phần thấp hơn không đáng  
kể. Tuy nhiên, thời gian theo dõi của chúng tôi ngắn  
hơn (trung bình 6.5 tháng) và hầu hết bệnh nhân  
đều hài lòng về chức năng nói, nuốt sau 2 - 3 tháng  
điều trị.  
BÀN LUẬN  
Tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm rất phức tạp.  
Tùy thuộc vào kích thước khuyết hổng, sự thuận lợi  
trong việc di chuyển vạt tới khuyết hổng, độ tin cậy  
của vạt và tổng trạng của bệnh nhân để xác định các  
kỹ thuật tái tạo cho phù hợp. Sự ra đời của vạt tự do  
là bước tiến lớn trong lĩnh vực tái tạo khẩu hầu nói  
chung. Vạt tự do như vạt cẳng tay quay hoặc vạt đùi  
trước ngoài là những vạt thường được lựa chọn cho  
những khuyết hổng này. Đây là vạt có độ tin cậy cao  
và rất linh động. Tuy nhiên, kỹ thuật vi phẫu đòi hỏi  
thời gian cuộc phẫu thuật kéo dài, trang thiết bị phức  
tạp và việc chọn lựa bệnh nhân cũng khắt khe[3].  
Vạt đảo dưới cằm là vạt có cuống tại vùng với  
ưu điểm linh hoạt, thời gian lấy vạt ngắn, nguồn  
cung cấp máu đáng tin cậy, sẹo khó thấy và thuận  
lợi cho các khuyết hổng 2/3 dưới vùng đầu cổ, trong  
đó có khẩu cái mềm.  
Tác giả Chen và cộng sự[9] ghi nhận có 1 bệnh  
nhân ung thư khẩu cái mềm T2N1M0 đã được cắt  
bướu và nạo hạch cổ 2 bên trên cơ vai móng kèm  
xạ trị bổ túc 60Gy bị tái phát hạch cổ sau 28 tháng.  
Chúng tôi cũng có 1 trường hợp ung thư khẩu cái  
mềm (P) pT2N0M0 tái phát hạch cổ (P) nhóm II sau  
9 tháng, chúng tôi đã phẫu thuật cắt rộng hạch và  
tiếp tục theo dõi.  
Râu vùng dưới cằm theo vạt có thể gây khó  
chịu cho bệnh nhân trong giai đoạn đầu. Tuy vậy,  
bệnh nhân có thể thích ứng được và không phàn  
nàn về điều này khi tái khám sau 4 - 11 tháng phẫu  
thuật.  
Chức năng của khẩu cái mềm như một cái van  
đóng mở và giúp cộng hưởng giọng nói. Seikaly và  
các đồng nghiệp[8] đã mô tả các đặc điểm lý tưởng  
mà sự tái tạo khẩu cái mềm nên đạt được gồm:  
phân tách khẩu hầu và mũi hầu mà vẫn duy trì sự  
thông thoáng của mũi, phục hồi chức năng nói và  
nuốt, an toàn về mặt ung thư học, chi phí hiệu quả.  
Như đa số các tác giả khuyến cáo, không nên sử  
dụng vạt này trên những bệnh nhân có chỉ định nạo  
hạch cổ nhóm IA[2,3,6] vì lý do an toàn về mặt ung thư  
học. Trong kết quả của chúng tôi, sau khi nạo hạch  
cổ bên ghi nhận chỉ có di căn hạch nhóm IB, II, III.  
Vạt đảo dưới cằm trong báo cáo của chúng tôi đã  
đáp ứng hầu hết các tiêu chí trên.  
KẾT LUẬN  
Brown và các đồng nghiệp[7] cho rằng những vạt  
tái tạo sẽ bị co lại theo thời gian, đặc biệt là sau khi  
xạ trị, gây ra tình trạng kém vận động ở màn hầu.  
Trong 10 ca chúng tôi đang theo dõi ghi nhận có sự  
co nhỏ của vạt, tuy nhiên mức độ không đáng kể và  
chức năng nói, nuốt của bệnh nhân ngày càng cải  
thiện hơn.  
Sử dụng vạt đảo dưới cằm trong tái tạo  
khuyết hổng khẩu cái mềm có thể mang lại hiệu quả  
tốt về mặt chức năng nói và nuốt. Vạt có ưu điểm là  
linh hoạt, thời gian lấy vạt ngắn, nguồn cung cấp  
máu đáng tin cậy và sẹo kín đáo. Vạt đảo dưới cằm  
nên là một lựa chọn trong tái tạo khuyết hổng 2/3  
dưới vùng đầu cổ, trong đó có khẩu cái mềm.  
Vạt đảo dưới cằm có thể được lấy theo xuôi  
dòng hoặc ngược dòng từ động mạch mặt. Wei-liang  
Chen và cộng sự[9] đã sử dụng thành công vạt dưới  
cằm ngược dòng để tái tạo khuyết hổng khẩu cái  
mềm ở 8 bệnh nhân từ 2009 đến 2013. Lý do tác giả  
sử dụng dòng chảy ngược của bó mạch mặt là để  
mở rộng góc xoay và chiều dài cuống mạch để đưa  
82  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
HÌNH ẢNH BỆNH NHÂN TRƯỚC VÀ SAU TÁI TẠO  
KHẨU CÁI MỀM BẰNG VẠT ĐẢO DƯỚI CẰM  
3. Colletti G, Tewfik K, Bardazzi A, et al. Regional  
flaps in head and neck reconstruction:  
a
reappraisal. J Oral Maxillofac Surg. 2015; 73(3):  
571e1 - 571.e10.  
4. Fu-Chan Wei, Samir Mardini. Local Flaps in the  
Head and Neck: Forehead, FAMM, Submental,  
Nasolabial and Cervicofacial Flaps. Flaps and  
Reconstructive Surgery-Elsevier. 2016; 31:  
375 - 379.  
5. A. Syed Khaja Hussain, S.M.Sharma. Evaluation  
of submental island flap for reconstruction of  
intraoral defects. 2006;1 - 64  
6. Allen Cheng, DDS, MD, Tuan Bui, MD, DMD.  
Submental Island Flap. Oral Maxillofacial Surg  
Clin N Am. 2014;1 - 9  
7. Brown JS, Zuydam AC, Jones DC, et al.  
Functional outcome in soft palate reconstruction  
using a radial forearm free flap in conjugation  
with a superiorly based pharyngeal flap. Head  
Neck. 1997;19: 524 - 534.  
Hình 6. Ung thư tuyến nước bọt phụ khẩu cái mềm  
(P) pT2N0M0  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
8. Seikaly H, Reiger J, Zalmanowitz J, et al.  
Functional soft palate reconstruction:  
comprehensive surgical approach. Head Neck.  
2008; 30:1615 - 1623.  
a
1. Martin D, Pascal JF, Baudet Jet al. The  
submental island flap:  
A new donor site.  
Anatomy and clinical applications as a free or  
pedicled flap.Plastic and Reconstructive Surgery.  
1993; 92: 867 - 73.  
9. Zhang DM, Chen WL, Lin ZY, Yang ZH. Use of a  
folded reverse facial-submental artery submental  
island flap to reconstruct soft palate defects  
following cancer ablation. J Craniomaxillofac  
Surg. 2014; 42(6):910 - 4.  
2. Johan Fagan, Tareck Ayad, Mohammad Alfalasi.  
Submental artery island flap for head & neck  
reconstruction.  
Open  
access  
atlas  
of  
otolaryngology, head & neck operative surgery.  
2017; 1 - 17.  
83  
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1  
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1  
ABSTRACT  
Using submental island flap in reconstruction of soft palate defects: A review of 10 cases  
Submental island flap was first time described by Martin et al in 1993. Supplying by submental vessels,  
submental island flap might be either predicled or free flap. Submental island flap ingredients included skin,  
subcutaneous tissue, platysma muscle, anterior belly of digastric muscle, a part of mylohoid muscle and a part  
of mandible if needed. Submental island flap was indicated for 2/3 lower face defects. Among these indidations,  
reconstruction of soft palate defects by submental island flap was appreciated because of well responding of  
speech and swallow functions.  
Purpose: Initially evaluated techniques and clinical effect of submental island flap in reconstruction of soft  
palate defects.  
Patients and methods: Described a total of 10 cases of reconstruction of soft palate defects by submental  
island flap at Head and Neck Surgery Department - Ho Chi Minh city Oncology Hospital from 01/2020 to  
10/2020.  
Results: Among 10 cases of recontruction of soft palate defects by submental island flap, there was no  
case of total flap necrosis. Most of patients were satisfied with speech and swallow functions.  
Conclusion: Submental island flap was a versatile flap, which could be used for many cases of reconstruct  
head and neck defects. Specially, recontruction of soft palate defects by submental island flap help patients  
recover their speech and swallow functions well. The advantages of this flap were flexibility, reliability blood  
supply and camouflage scars.  
84  
pdf 7 trang yennguyen 15/04/2022 3860
Bạn đang xem tài liệu "Sử dụng vạt đảo dưới cằm trong tái tạo khuyết hổng khẩu cái mềm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_vat_dao_duoi_cam_trong_tai_tao_khuyet_hong_khau_cai.pdf