Phẫu thuật robot điều trị ung thư trực tràng tại Bệnh viện Bình Dân - Kết quả 03 năm
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
PHẪU THUẬT ROBOT ĐIỀU TRỊ UNG THƯ TRỰC TRÀNG
TẠI BỆNH VIỆN BÌNH DÂN - KẾT QUẢ 03 NĂM
1
1
1
TRẦN VĨNH HƯNG , LÊ QUANG NGHĨA , HOÀNG VĨNH CHÚC ,
1
1
1
DƯƠNG BÁ LẬP , NGUYỄN PHÚ HỮU , VŨ KHƯƠNG AN
TÓM TẮT
Mở đầu: Ung thư trực tràng là một bệnh lý ác tính thường gặp ở đường tiêu hóa. Phẫu thuật robot là
một lựa chọn mới trong điều trị ung thư trực tràng. Pigazzi[12] và cộng sự đã thực hiện phẫu thuật TME
trong điều trị ung thư trực tràng thấp bằng robot vào năm 2006. Bệnh viện Bình Dân bắt đầu sử dụng
robot trong phẫu thuật ung thư trực tràng từ tháng 11/2016. Mục tiêu của chúng tôi là tìm hiểu tính an toàn
trong việc sử dụng robot để điều trị ung thư trực tràng.
Thiết kế: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca: 82 trường hợp ung thư trực tràng được phẫu thuật
bằng robot da Vinci thế hệ Si tại bệnh viện Bình Dân trong (03 năm) từ 11/2016 đến 11/2019.
Kết quả: Tỉ lệ nam: nữ là 2,5. Tuổi trung bình là 62 tuổi (21 - 85). Phương pháp điều trị: 10 trường
hợp (TH) cắt trước, 46 TH cắt trước thấp, 8 TH cắt trước cực thấp, 18 TH phẫu thuật Miles. Giai đoạn giải
phẫu bệnh sau mổ: 2 TH giai đoạn I (2,4%), 15 TH giai đoạn IIA (18,3%), 42 TH giai đoạn IIB (51,2%), 10
TH giai đoạn IIIA (12,2%), 13 TH giai đoạn IIIB (15,9%). Thời gian phẫu thuật chung trung bình là 201
phút. 2 TH biến chứng chảy máu trong lúc phẫu thuật. Sau phẫu thuật có 6 TH nhiễm trùng vết mổ, 1 TH
bí tiểu do u xơ tuyến tiền liệt, 1 TH liệt ruột sau mổ kéo dài, 3 TH xì miệng nối được điều trị nội khoa thành
công 2 TH và 1 TH phải mổ lại. Thời gian nằm viện trung bình 8,1 ngày (6 - 16 ngày). 1 TH tái phát vùng
chậu.
Kết luận: Phẫu thuật robot trong điều trị ung thư trực tràng là an toàn và khả thi. Phẫu thuật có thể áp
dụng rộng rãi cho những bệnh nhân có ung thư trực tràng chưa di căn.
Từ khóa: Ung thư trực tràng, phẫu thuật robot, cắt trước thấp, phẫu thuật Miles.
ngắn và dài hạn so với phẫu thuật mổ mở[2],[13],[14]
.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư trực tràng là một bệnh lí ác tính rất
Tuy nhiên, phẫu thuật nội soi cắt trực tràng do ung
thư còn tồn tại một khó khăn nhất định trong không
gian hẹp của xương chậu do dụng cụ nội soi giới
hạn phạm vi chuyển động, dụng cụ nội soi kém linh
động trong không gian chật hẹp làm giảm đi khác
năng bóc tách các hạch di căn cũng như bảo tồn các
đám rối thần kinh hạ vị dưới, sự run tay của phẫu
thuật viên chính, camera hai chiều (2D) và cần
người phụ mổ chuyên nghiệp. Ngày nay, phẫu thuật
robot là một sự chọn lựa mới để điều trị ung thư trực
tràng. Hệ thống Robot da Vinci® được sử dụng
trong nghiên cứu này có tầm nhìn ba chiều (3D), độ
chi tiết được phóng đại lên 10 lần, hệ thống
EndoWrist® (hình 3) cung cấp cho phẫu thuật viên
có thao tác tự nhiên và một loạt các chuyển động xa
thường gặp của đường tiêu hóa. Hiện nay, tỉ lệ ung
thư đại trực tràng chiếm hàng thứ 3 ở nam và thứ 2
ở nữ. Trong năm 2012, thế giới có khoảng
1.361.000 trường hợp mới và 694.000 trường hợp
tử vong[3]. Phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ
yếu của bệnh lí này. Các phương pháp phẫu thuật
đã phát triển dần từ phương pháp mổ mở đến các
phương pháp xâm lấn tối thiểu. Từ khi phẫu thuật
cắt trực tràng qua nội soi đầu tiên được báo cáo vào
những năm 1990, nó dần dần được thực hiện tại
nhiều trung tâm trên toàn thế giới bởi vì phương
pháp này đã được chứng minh là có lợi cho bệnh
nhân và an toàn về mặt ung thư học với các kết quả
Ngày nhận bài
Ngày phản biện
Ngày chấp nhận đăng : 05/11/2020
: 01/10/2020
: 03/11/2020
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Phú Hữu
Email: bsphuhuu2012@gmail.com
1 Bệnh viện Bình Dân
208
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
lớn hơn so với bàn tay con người đặc biệt tỏ ra vô
cũng hữu dụng trong không gian chật hẹp của vùng
chậu. Pigazzi và cộng sự đã lần đầu tiên thực hiện
phẫu thuật TME trong điều trị ung thư trực tràng thấp
bằng robot vào năm 2006[12]. Sau đó, nhiều trung
tâm trên thế giới đã có báo cáo cho thấy kết quả đều
thuận lợi[6]. Tại Việt Nam, các nghiên cứu về tính an
toàn và khả thi của phẫu thuật robot trong điều trị
ung thư đại trực tràng hiện chưa có vì đây là
phương pháp điều trị mới. Mục tiêu của chúng tôi là
tìm hiểu tính an toàn trong việc sử dụng robot để
điều trị ung thư trực tràng.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư
trực tràng qua nội soi tiêu hóa và có giải phẫu bệnh
trước mổ, được phẫu thuật nội soi dùng hệ thống
Robot da Vinci tại bệnh viện Bình Dân trong thời
gian (03 năm) từ tháng 11/2016 - tháng 11/2018.
Chúng tôi sử dụng tiêu chuẩn lâm sàng và bệnh
học theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (AJCC) phiên bản
lần thứ 8[1].
Đánh giá giai đoạn TNM trước và sau mổ dựa
vào: siêu âm qua nội soi trực tràng, MRI chậu cản
từ, CT Scan ngực + bụng có cản quang[1],[9]
.
Hình 1. Hệ thống Robot da Vinci và cách bố trí
phòng mổ trong ung thư trực tràng
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu
mô tả hàng loạt ca.
services/da-vinci)
Một số định nghĩa
Mổ robot lai (hybrid robotic techniques): là sự
phối hợp giữa phẫu thuật robot và phẫu thuật nội soi
truyền thống. Phẫu thuật nội soi truyền thống sẽ cắt
bó mạch mạc treo tràng dưới và di động góc lách.
Sau đó, robot sẽ phẫu tích vùng chậu theo tiêu
chuẩn TME.
KẾT QUẢ
Tỉ lệ nam/nữ là 2,5.
Tuổi trung bình: 62 ± 11,3 (nhỏ nhất là 21 và
lớn nhất là 85).
Phương pháp phẫu thuật: Trong 82 trường hợp
ung thư trực tràng đã được phẫu thuật robot
Mổ robot hoàn toàn (totally robotic techniques):
toàn bộ phẫu thuật sẽ được thực hiện bằng robot.
Cắt trước: 10 trường hợp.
Mổ robot một lần docking: vị trí robot không thay
đổi so với bệnh nhân trong suốt cuộc mổ.
Cắt trước thấp: 46 trường hợp.
Cắt trước cực thấp: 8 trường hợp.
Phẫu thuật Miles: 18 trường hợp.
Mổ robot nhiều lần docking: vị trí robot thay đổi
so với bệnh nhân khi làm ở thì đại tràng và thì chậu
(thường phải 2 lần setup các cánh tay robot).
Tổng số hạch lấy được trung bình: 14,2 ± 7,4
(ít nhất là 5 hạch và nhiều nhất 25 hạch).
Tất cả những bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi đều mổ robot hoàn toàn và một lần
docking.
Tổng số hạch di căn trung bình: 1,6 ± 2,1 hạch
(nhiều nhất là 14 hạch di căn và ít nhất là không có
hạch nào). Tỉ lệ hạch di căn dương tính là 10,3%.
Diện cắt vòng quanh (CRM: Circumferential
resection margin) dương tính 4/72 (5,5%) TH ung
thư trực tràng giữa và thấp.
209
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Thời gian docking (là khoảng thời gian từ lúc
bệnh nhân bắt đầu mê đến lúc đặt xong các trocars
và bắt đầu phẫu thuật trên bàn điều khiển (console)):
13,1 ± 9,5 phút (nhanh nhất là 6 phút và chậm nhất
là 45 phút).
Thời gian nằm viện sau mổ trung bình: 8,1 ± 2,9
ngày (nhanh nhất là 6 ngày và chậm nhất là
16 ngày).
Bảng 1. Giai đoạn ung thư sau mổ
(AJCC phiên bản lần thứ 8)
Thời gian phẫu thuật trên Robot (là thời gian
phẫu thuật viên chính mổ trên bàn điều khiển):
155,5 ± 69,2 phút (nhanh nhất là 90 phút và chậm
nhất là 300 phút).
Giai đoạn
pTMN
T2N0M0
Số ca
2
Tỉ lệ %
2,4%
I
IIA
IIB
IIIA
T3N0M0
15
18,3%
52,2%
12,2%
Thời gian phẫu thuật chung (là khoảng thời gian
từ lúc bệnh nhân được gây mê đến lúc hoàn thành
cuộc phẫu thuật): 201,6 ± 68,6 phút (nhanh nhất là
126 phút và chậm nhất là 380 phút).
T4aN0M0
T2 (N1/N1c)M0
42
10
T3 (N1/N1c/N2a)M0,
T4a (N1/N1c)M0
IIIB
13
15,9%
Có 2 trường hợp chảy máu mạc treo trực tràng
trong lúc phẫu thuật, lượng máu mất khoảng 200ml,
không truyền máu cũng như không chuyển phương
pháp phẫu thuật
BÀN LUẬN
Vai trò của mổ bụng qua nội soi (laparoscopic
surgery) đã được chứng minh qua rất nhiều nghiên
cứu trong y văn. Tuy nhiên phương pháp này vẫn có
hạn chế riêng, nhất là khi mổ vùng chậu do các dụng
cụ nội soi đa số thẳng, khó xoay trở trong không
gian hẹp. Phẫu thuật viên chính không cảm nhận
được về chiều sâu qua màn hình 2D, tay mổ lâu có
thể bị rung và họ cần người phụ mổ chuyên
nghiệp[2].
Lượng máu mất trung bình: 43,2 ± 53,6ml
(ít nhất là 30ml và nhiều nhất là 200ml).
Thời gian bệnh nhân trung tiện được: 2,8 ± 0,9
ngày (nhanh nhất là 1 ngày và chậm nhất là 4 ngày).
Thời gian cho bệnh nhân ăn lại: 2,4 ± 1,4 ngày
(nhanh nhất là 1 ngày và chậm nhất là 4 ngày).
Sau phẫu thuật có 6 trường hợp nhiễm trùng
vết mổ (chỗ lấy bệnh phẩm, thay băng tại địa
phương), 1 trường hợp liệt ruột kéo dài (được mổ
thám sát lại loại trừ tắc ruột vào ngày hậu phẫu
thứ 5), 1 trường hợp bí tiểu (do bệnh nhân có bướu
lành tuyến tiền liệt kèm theo điều trị nội khoa, bệnh
nhân tiểu lại được sau 10 ngày và xuất viện).
Đặc biệt có 3 trường hợp xì miệng nối phát hiện
bằng các dấu hiệu lâm sàng: mạch nhanh >100
lần/phút, sốt từ 380C trở lên, ống dẫn lưu ra dịch tiêu
hóa, công thức máu bạch cầu tăng, siêu âm bụng có
dịch lượng ít đến vừa, CT Scan có bơm thuốc cản
quang tan trong nước vào lòng trực tràng thấy thuốc
cản quang thoát vào vùng chậu, 2 TH xì miệng nối
được điều trị nội khoa thành công bằng kháng sinh
mạnh Imipenem 0,5g, nuôi ăn tĩnh mạch và 1 TH
phải mổ lại rã miệng nối, làm hậu môn nhân tạo hố
chậu trái, sau đó hóa trị 8 đợt và đã đóng lại hậu
môn nhân tạo sau mổ 8 tháng, hiện tại bệnh nhân ổn
định. 1 TH (ung thư trực tràng thấp đã làm phẫu
thuật Miles với giai đoạn ung thư sau phẫu thuật
pT4aN2aMo) tái phát vùng chậu sau phẫu thuật 1
năm, hiện tại quá chỉ định phẫu thuật lại do ung thư
tái phát xâm lấn xương cùng và đang hóa + xạ trị.
Phẫu thuật robot giúp tránh các hạn chế trên.
Khi thông qua robot, bác sĩ được nhiều thuận lợi
như: các chi tiết trong phẫu trường được thể hiện
sắc nét hơn, có độ sâu qua màn hình 3D; người mổ
chính tự điều chỉnh camera theo ý mình, dụng cụ mổ
linh hoạt tương tự tay người trong một không gian
hẹp giúp các thao tác phẫu tích, khâu nối chính xác
và tinh tế hơn. Vì vậy, phẫu thuật robot có thể áp
dụng cho nhiều chuyên khoa như Ngoại niệu, Ngoại
tiêu hóa và Phụ khoa. Đặc biệt, phẫu thuật robot
phát huy ưu điểm của mình trên bệnh nhân nam có
khung chậu hẹp, bệnh nhân béo phì hoặc bệnh nhân
đã được hóa trị tân hỗ trợ trong bệnh lý ung thư trực
tràng[10]
.
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy kết quả
ung thư ngắn hạn tương tự như mổ qua nội soi ổ
bụng. Về kết quả ung thư lâu dài, hiện nay nhiều
nghiên cứu đang được thực hiện. Các năm gần đây
số nghiên cứu về mổ với robot tăng đều và chủ yếu
áp dụng trong ung thư trực tràng[4],[10],[11]
.
Kinh nghiệm của Ferrara[4] cho thấy so với mổ
nội soi, mổ qua robot lợi hơn nhiều mặt, đặc biệt
trong việc nạo hạch. Số hạch phẫu tích ít nhất là 12
hạch, phù hợp với hướng dẫn của National
Comprehensive Cancer Network (NCCN)[9].
210
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Bảng 2. Một số nghiên cứu về phẫu thuật trực tràng sử dụng robot
Tác giả
Ng và cộng sự[8]
Nozawa và cộng sự[10]
Huang và cộng sự[5]
Chúng tôi
Năm
2009
2014
2015
2016
Quốc gia
Singapore
Số bệnh nhân
8
Nhật Bản
63
40
82
Cao Hùng, Đài Loan
TP.HCM, Việt Nam
Bảng 3. Đặc điểm nhóm nghiên cứu so với một số tác giả khác
Tác giả
Số lượng bệnh nhân
Tỉ lệ nam/nữ
Huang và cộng sự[5]
40
Ng và cộng sự[8]
8
Chúng tôi
82
1/1
5/3
2,5
Tuổi
60 (32 - 89)
264 (109 - 527)
150 (20 - 500)
35%
55 (42 - 80)
192 (145 - 250)
Không đáng kể
12,5%
62 (21 - 85)
201 (126 - 380)
43,2 (5 - 200)
15.9%
Tổng thời gian mổ chung (phút)
Máu mất (ml)
Tỉ lệ biến chứng chung
Tổng số hạch phẫu tích
Số hạch di căn
9 (0 - 22)
17 (2 - 26)
0,3 (0 - 2)
5 (4 - 30)
14,2 (2 - 23)
2,1 (0 - 14)
8,1 (5 - 15)
1,3 (0 - 6)
7 (5 - 32)
Thời gian nằm viện (ngày)
Khi mổ qua robot, phẫu thuật viên nhìn các cơ quan giải phẫu rõ hơn mổ qua nội soi, các thao tác của
dụng cụ robot tương tự của tay người nhờ vào hệ thống EndoWrist®. Do đó, phẫu thuật viên có thể tránh gây
tổn thương các đám rối thần kinh hạ vị, niệu quản phải và trái, bó mạch sinh dục và có thể phẫu tích, khâu nối
chính xác hơn. Vì vậy, chức năng niệu và sinh dục của bệnh nhân sau mổ được bảo toàn, giúp bệnh nhân có
chất lượng sống tốt hơn sau phẫu thuật[10]
.
Hình 2. Vị trí cánh tay robot phía ngoài và trong ổ bụng - Nguồn BV. Bình Dân 2018
trocars. Tuy nhiên, sau khoảng 10 trường hợp đầu
Thời gian mổ robot thường kéo dài hơn so với
mổ nội soi ổ bụng. Nguyên nhân là phẫu thuật viên
cần thời gian tính toán vị trí các trocar, docking robot
vào bệnh nhân và chuẩn bị các dụng cụ chuyên biệt
của robot. Khi phẫu thuật viên quen dần với các thao
tác này, thời gian mổ giảm rõ rệt. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, thời gian docking robot những trường
hợp đầu tiên thường kéo dài khoảng 30 đến 40 phút
do chưa quen với dụng cụ và cách đặt vị trí các
tiên, thời gian này được rút ngắn đáng kể còn
khoảng 6 - 12 phút. Thời gian setup robot còn rút
ngắn đáng kể với thế hệ robot mới Xi, chúng ta
không cần tính toán các vị trí các cánh tay robot vì ở
thế hệ robot này đã được tích hợp trí tuệ nhân tạo
(AI: Artificial Intelligence) sẽ tính toán sẵn các vị trí
cánh tay sau khi chúng ta nhập liệu vị trí chính xác
khối ung thư. Hiện nay thế hệ robot da Vinci Xi này
211
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
đã ứng dụng tại nhiều nước phát triển trên thế giới
và mang lại những lợi ích thiết thực cho bệnh
Tổng số hạch trung bình lấy được của chúng tôi
là 14 hạch, ít hơn tác giả Ng[8] và nhiều hơn tác giả
Huang[5], tuy nhiên số hạch có di căn của chúng tôi
cao hơn tác giả Ng[8] (bảng 3), do đa số bệnh nhân
của chúng ta thường đến bệnh viện muộn giai đoạn
ung thư muộn.
nhân[5],[6],[10]
.
Chúng tôi, 2 TH chảy máu trong quá phẫu
thuật, lượng máu mất khoảng 200ml, không phải
truyền máu cũng như chuyển phương pháp phẫu
thuật, nguyên nhân trong thời gian đầu chúng tôi
chưa thật sự quen với các dụng cụ robot, đặc biệt là
khả năng cầm nắm nên lực cầm nắm mạc treo trực
tràng quá mạnh làm rách mạc treo trực tràng. Sau
đó chúng tôi học hỏi qua từng TH và cải thiện dần
khả năng bóc tách, cầm nắm cũng như các chuyển
động các cánh tay robot. Theo nghiên cứu của tác
giả Nasir M (2016)[7], đường cong học tập phẫu thuật
robot với ung thư trực tràng dao động từ 15 TH phẫu
thuật viên sẽ quen với các thao tác dụng cụ robot
trong ổ bụng đến 44 TH thì sẽ hoàn toàn làm chủ
được công nghệ cũng như khả năng thuần thục để
phát huy tối qua hiệu quả của robot trong phẫu thuật.
Tất cả những trường hợp phẫu thuật của chúng
tôi đều có hai mặt cắt trên và dưới an toàn về mặt
ung thư học (R0). Chúng tôi có 1 TH (ung thư trực
tràng thấp đã làm phẫu thuật Miles với giai đoạn ung
thư sau phẫu thuật pT4aN2aMo) tái phát vùng chậu
sau phẫu thuật 1 năm, hiện tại quá chỉ định phẫu
thuật lại do ung thư tái phát xâm lấn xương cùng và
đang hóa + xạ trị
Một lợi điểm nữa của phẫu thuật robot trong
ung thư trực tràng là khả năng chuyển mổ mở cũng
như diện cắt vòng quanh (CRM: circumferential
resection margin) thấp hơn so với phẫu thuật nội soi.
Trong nghiên cứu chúng tôi tất cả 82 TH đều không
chuyển mổ mở, CRM (+) 4/72 (5,5%) TH ung thư
trực tràng giữa và thấp. Theo tác giả David Jayne[6]
năm 2017 tổng kết 471 bệnh nhân ung thư trực
tràng bao gồm 237 bệnh nhân mổ robot và 234 bệnh
nhân mổ nội soi thì tỷ lệ chuyển mổ mở nhóm mổ
robot là 8,1% trong khi nhóm mổ nội soi là 12,2%,
tỷ lệ CRM (+) nhóm mổ robot là 5,1%, nhóm mổ nội
soi là 6,3%.
Thời gian bệnh nhân nằm viện sau mổ từ 6 đến
16 ngày, trung bình là 8,1 ngày tương đồng với
nhiều tác giả khác trên thế giới. Trong đó, 6 trường
hợp nhiễm trùng vết mổ (chỗ lấy bệnh phẩm, thay
băng tại địa phương), 1 trường hợp liệt ruột kéo dài
(được mổ thám sát lại loại trừ tắc ruột vào ngày hậu
phẫu thứ 5 do bụng chướng nhiều, X quang bụng
đứng rất nhiều hơi ruột non chưa lại trừ tắc ruột tuy
nhiên khi phẫu thuật không phát hiện xì miệng nối,
không tắc ruột cơ học mà chỉ liệt ruột). Đặc biệt có 3
trường hợp xì miệng nối phát hiện bằng các dấu
hiệu lâm sàng: mạch nhanh >100 lần/phút, sốt từ
380C trở lên, ống dẫn lưu ra dịch tiêu hóa, công thức
máu bạch cầu tăng, siêu âm bụng có dịch lượng ít
đến vừa, CT Scan có bơm thuốc cản quang tan
trong nước vào lòng trực tràng thấy thuốc cản quang
thoát vào vùng chậu, 2 TH xì miệng nối được điều trị
nội khoa thành công bằng kháng sinh mạnh
Imipenem 0,5g, nuôi ăn tĩnh mạch và 1 TH phải mổ
lại rã miệng nối, làm hậu môn nhân tạo hố chậu trái,
sau đó hóa trị 8 đợt và đã đóng lại hậu môn nhân tạo
sau mổ 8 tháng, hiện tại bệnh nhân ổn định. Tác giả
Ng[8] phẫu thuật 8 trường hợp bệnh nhân ung thư
trực tràng giữa và trực tràng thấp thời gian xuất viện
vào khoảng 4 - 5 ngày, có một trường hợp bệnh
nhân bị viêm phổi do có bệnh phổi tắc nghẽn mãn
tính kèm theo, và xuất viện sau 10 ngày. Tác giả
Huang[5] qua 40 trường hợp cắt ung thư đại trực
tràng có thời gian xuất viện sau phẫu thuật từ 5 - 32
ngày, ghi nhận 14/40 trường hợp có biến chứng
trong và sau phẫu thuật bao gồm: chảy máu
hậu phẫu, áp xe tồn lưu, xì + hẹp miệng nối, tổn
thương niệu quản + bí tiểu, nhiễm trùng vết mổ và
viêm phổi.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật ung thư trực tràng bằng robot cho
thấy sự an toàn, khả thi và bước đầu mang lại kết
quả tốt cho bệnh nhân với khả năng mổ tốt hơn
trong không gian chật hẹp, thêm một lựa chọn tốt
cho bệnh nhân cũng như phẫu thuật viên. Trong
tương lai chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu với cỡ
mẫu lớn hơn và so sánh với phẫu thuật nội soi về
tính an toàn, khả năng nạo vét hạch và kết quả ung
thư ngắn hạn cũng như dài hạn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Amin M.B., Edge S.B., Greene F.L., et al (2017),
AJCC Cancer Staging Manual, Springer
International Publishing, Cham.
2. Braga M., Frasson M., Vignali A., (2007).
Laparoscopic resection in rectal cancer patients:
Outcome and cost-benefit analysis. Diseases of
the Colon and Rectum, 50.
3. Ferlay J., Soerjomataram I., Dikshit R., et al
(2015). Cancer incidence and mortality
worldwide: Sources, methods and major patterns
in GLOBOCAN 2012. Int J Cancer, 136(5),
359-386.
212
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
4. Ferrara F., Piagnerelli R., Scheiterle M., et al
(2016). Laparoscopy Versus Robotic Surgery for
Colorectal Cancer. Surg Innov, 23(4), 374-380.
10. Nozawa H. và Watanabe T. (2017). Robotic
surgery for rectal cancer. Asian J Endosc Surg,
10(4), 364-371.
5. Huang C.-W., Yeh Y.-S., Ma C.-J., et al (2015).
Robotic colorectal surgery for laparoscopic
surgeons with limited experience: preliminary
experiences for 40 consecutive cases at a single
medical center. BMC Surg, 15(1), 73.
11. Park E.J., Cho M.S., Baek S.J., et al (2015).
Long-term oncologic outcomes of robotic low
anterior resection for rectal cancer. Ann Surg,
261(1), 129-137.
12. Pigazzi A., Ellenhorn J.D.I., Ballantyne G.H., et
al (2006). Robotic-assisted laparoscopic low
anterior resection with total mesorectal excision
for rectal cancer. Surg Endosc, 20(10),
1521-1525.
6. Jayne D., Pigazzi A., Marshall H., et al (2017).
Effect of robotic-assisted vs conventional
laparoscopic surgery on risk of conversion to
open laparotomy among patients undergoing
resection for rectal cancer the rolarr randomized
clinical trial. JAMA - J Am Med Assoc, 318(16),
1569-1580.
13. Rubino F., Mutter D., Marescaux J., et al (2004).
Laparoscopic total mesorectal excision (TME) for
rectal cancer surgery: long-term outcomes.
Surgical Endoscopy, 18, 281-289.
7. Nasir M, Ahmed J et al (2016). Learning Curves
in Robotic Rectal Cancer Surgery: A literature
Review. J Min im Invasive Surg Sci;5(4):
e41196.
14. Van der Pas M.H.G.M., Haglind E., Cuesta M.A.,
et al (2013). Laparoscopic versus open surgery
for rectal cancer (COLOR II): Short-term
outcomes of a randomised, phase 3 trial. The
Lancet Oncology, 14, 210-218.
8. Ng K.H., Lim Y.K., Ho K.S., (2009). Robotic-
assisted surgery for low rectal dissection: From
better views to better outcome. Singapore Med
J, 50(8), 763-767.
9. NCCN:
National
Comprehensive
Cancer
Network (2017) Rectal Cancer.
213
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
ABSTRACT
Robotic surgery for rectal cancer at Binh Dan Hospital: Outcomes of three years application
Introduction: Rectal cancer is a common malignant disease of the alimentary tract. Pigazzi et al performed
a first robotic TME for low rectal cancer in 2006. Binh Dan hospital started to use robotics in colorectal cancer
surgery in November 2016. Our aim was elvaluated the safety of robotic surgery in management of rectal
cancer.
Materials and methods: Prospective case series study: 82 rectal cancer cases were operated by robotic
da Vinci Surgical System (Si version) in (03 years) from November 2016 to November 2019 at Binh Dan
hospital.
Results: Men/ Women ratio: 2,5. Average age: 62 yrs (21 - 85). Treatment: 10 cases of anterior resection,
46 cases of low anterior resection, 8 cases of ultra-low anterior resection, 18 cases of abdominal perineal
resection. Post - operative pathology staging: stage I: 2 cases (2,4%), stage IIA: 15 cases (18,3%), stage IIB:
42 cases (51,2%), stage IIIA: 10 cases (12,2%), stage IIIB: 13 cases (15,9%). Complications: Intra-operative,
there were 2 cases bleeding. Post - operative, there were: 6 cases of wound infection, 1 case of urine retention,
1 case of ileus, 3 cases of anastomotic leak with 2 cases were successfull internal treatment and 1 case was
reoperated. Average length of stay after the operation is 8,1 days (6 - 16). 1 case was pelvic recurrence.
Conclusion: The use of robotic surgery in rectal cancer treatment is a safe and feasible procedure. We
can perform widespread for rectal cancer patients without metastasis.
Key words: Rectal cancer, robotic surgery, low anterior resection (LAR), abdominoperineal resection
(APR).
214
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật robot điều trị ung thư trực tràng tại Bệnh viện Bình Dân - Kết quả 03 năm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- phau_thuat_robot_dieu_tri_ung_thu_truc_trang_tai_benh_vien_b.pdf