Nghiên cứu sử dụng vật liệu nano tổng hợp TiO₂/ZrO₂ xúc tác quá trình ôxy hóa tiên tiến ôzôn để xử lý Axit Orange 7
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 SCIENCE - TECHNOLOGY
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG VẬT LIỆU NANO TỔNG HỢP TiO2/ZrO2
XÚC TÁC QUÁ TRÌNH ÔXY HÓA TIÊN TIẾN ÔZÔN
ĐỂ XỬ LÝ AXIT ORANGE 7
STUDY ON USING SYTHETIC CATALYTIC NANOMATERIAL OF TiO2/ZrO2
IN THE ADVANCED OXIDATION PROCESS OF OZONATION FOR REMOVING ACID ORANGE 7
Đặng Thị Thơm1,2,*, Đỗ Văn Mạnh1,2, Nguyễn Thành Đồng3,
Đào Trọng Hiền1, Trần Mạnh Hải1, Nguyễn Hoài Châu1,2, Trịnh Văn Tuyên1,2
TÓM TẮT
Cùng với sự phát triển công nghiệp hóa, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng đặc biệt phải kể đến các vấn đề ô nhiễm nước thải. Trong đó, nước thải chứa các
chất hữu cơ khó phân hủy sinh học đặc biệt là các chất nhuộm màu đang ngày được quan tâm vì chúng hầu hết là chất hữu cơ độc hại, bền trong môi trường nước và
đang sử dụng với một số lượng lớn trong khối ngành công nghiệp dệt nhuộm. Công nghệ ôxy hóa tiên tiến đã và đang được đánh giá cao bởi khả năng oxy hóa mạnh
đối với các chất nhuộm màu. Bằng quá trình oxy hóa tiên tiến sử dụng O3 và vật liệu nano tổng hợp TiO2/ZrO2 để xử lý chất nhuộm màu axit orange 7, bước đầu đã được
thu được hiệu suất xử lý rất cao. Kết quả chỉ ra rằng, sử dụng vật liệu nano tổng hợp TiO2/ZrO2 ở nồng độ 200ppm, tại pH 3 cho hiệu suất xử lý tốt nhất cụ thể là, hiệu
suất xử lý AO7 đạt 95% sau 15 phút thí nghiệm với nồng độ chất màu axit orange 7 (AO7) ban đầu khoảng 175ppm, với nồng độ ban đầu AO7 350ppm đạt 99% sau 18
phút, với chất màu AO7 550ppm đạt 95% với thời gian xử lý sau 30 phút khi liên tục tiếp xúc với dòng O3 với tốc độ dòng khí cấp của O2 tinh khiết 0,5L/phút với các thí
nghiệm. Bên cạnh đó, ở các điều kiện pH 7, pH 10 và với nồng độ ban đầu của chất màu AO7 khác nhau (175ppm, 350ppm, 550ppm), hiệu quả xử lý AO7 theo thời gian
đã được đánh giá khả năng xử lý bởi quá trình oxy hóa tiên tiến sử dụng O3 và vật liệu nano tổng hợp TiO2/ZrO2 ở các nồng độ ban đầu khác nhau. Các kết quả thu được
ghi nhận động học xử lý chất màu AO7 trong các thí nghiệm này theo phản ứng bậc 1 với độ tin cậy cao.
Từ khóa: Ôxy hóa tiên tiến, ôzôn, nano TiO2/ZrO2, axit orange 7 (AO7), hiệu suất xử lý.
ABSTRACT
According to the industrialized development, environmental pollution is increased day by day especially wastewater pollution problems. In there, wastewater
companied to dis-biodegradable organic compounds such as dyes is interested due to they are toxic and persistent organic compounds in water environment and used
with the amount of dyes in textile industry. The advanced oxidation technology has been appreciated by powerful oxidation capacity for dyes. The advanced oxidation
process of ozonation and synthetic nanomaterial TiO2/ZrO2 for removing acid orange 7 (AO7) obtained preliminary high efficiency. Results showed that using synthetic
nanomaterial of TiO2/ZrO2 at 200ppm, pH 3 get the best for removal efficiency, detailed as, removal efficiency of AO7 got 95% after 15 minutes of experiments with
initial AO7 concentration of 175ppm, with initial AO7 concentration of 350ppm get 99% of removal efficiency after 18 minutes, with initial AO7 concentration of
550ppm get 95% after 30 minutes of experiments with continuous stream mode and initial O2 flow rate of 0.5L/minute for experiments. Besides, conditions at pH 7,
pH 10 and different AO7 concentration (175ppm, 350ppm, 550ppm), removal efficiency of AO7 versus by time has been evaluated the removal capacity by the
advanced oxidation process using O3 and synthetic nanomaterial of TiO2/ZrO2 with different initial concentration. The obtained results recorded that treatment kinetics
of AO7 in experiments followed by the pseudo first order reaction with high reliability.
Keywords: Advanced oxidation, ozonation, nano TiO2/ZrO2, acid orange 7 (AO7), removal efficiency.
1Viện Công nghệ môi trường, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Học viện Khoa học Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
3Trung tâm Giáo dục và Nghiên cứu Unipetrol, Czech Republic
*Email: thomiet@gmail.com
Ngày nhận bài: 20/3/2021
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 10/6/2021
Ngày chấp nhận đăng: 25/6/2021
quan tâm và phát triển, có thể ứng dụng trong thực tế xử lý
môi trường đối với các chất hữu cơ khó phân hủy sinh học.
Với những ưu điểm trong xử lý nước thải bởi khả năng ôxy
1. GIỚI THIỆU
Với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện nay,
công nghệ ôzôn hóa xúc tác (nano-catazone) đang được
143
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 57 - No. 3 (June 2021) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
hóa cao của ôzôn và sự có mặt của xúc tác đặc biệt là xúc hủy/hấp phụ chất diệt khuẩn chống lại vi khuẩn gram
tác kích thước nano dạng kim loại hoặc oxit kim loại đã tạo dương và gram âm như Escherichia coli và Bacillus
ra những quá trình ưu việt hơn trong việc nghiên cứu và xử megaterium và bào tử vi khuẩn [3].
lý các chất hữu cơ khó phân hủy sinh học đặc biệt là các
chất nhuộm màu.
S.M Tabatabaei và cộng sự đã nghiên cứu tăng cường
quá trình ôzôn hóa 4-Nitrophenol (4NP) trong nước bằng
Enling Hu và cộng sự đã nghiên cứu loại bỏ thuốc xúc tác nano ZnO. Nghiên cứu đã tiến hành những thí
nhuộm hoạt tính bằng phương pháp ôzôn hóa xúc tác [1]. nghiệm so sánh hiệu quả xử lý 4NP bằng ôzôn và ôzôn kết
Nghiên cứu so sánh hiệu quả xử lý nước thải từ quá trình hợp với chất xúc tác ZnO. Khoảng 93% 4NP được loại bỏ
rửa có chứa thuốc nhuộm hoạt tính của hai quá trình: quá trong 5 phút đầu tiên khi sử dụng nano ZnO. Trong khi đó,
trình chỉ sử dụng ôzôn và quá trình kết hợp ôzôn với chất khi sử dụng micro ZnO thì chỉ có 70% 4NP được loại bỏ.
xúc tác MnFe2O4. Trong thí nghiệm loại bỏ màu, ban đầu Điều này cho thấy vật liệu nano giúp tăng cường quá trình
nước thải có màu xanh đậm vì có sự hiện diện của thuốc xử lý chất ô nhiễm trong nước. Cụ thể khi nồng tăng nồng
nhuộm RB19 (Remazol breliant blue), sau 10 phút, nước độ ZnO ban đầu tăng từ 100mg/L đến 300mg/L thì hàm
thải xử lý bằng catazon đã mất màu hoàn toàn. Sau 60 lượng 4NP bị phân hủy cũng tăng lên từ 69% đến 93%
phút, độ hấp phụ hầu như không thay đổi, cho thấy thuốc (trong 5 phút đầu). Nồng độ 4NP ban đầu 10, 12, 14 và
nhuộm bị giữ bởi các chất xúc tác. So sánh với khi chỉ sử 16mg/L hiệu quả phân hủy tương ứng 63%, 68%, 75% và
dụng ôzôn mang lại hiệu quả cao hơn. Điều này có thể thấy 93%. Với quá trình phân hủy bằng 4NP nồng độ 16mg/L
xúc tác MnFe2O4 trong quá trình catazon này thúc đẩy tạo bằng quá trình catazon xúc tác ZnO nồng độ 300mg/L,
ra OH° mạnh hơn so với ôzôn trong oxi hóa chất hữu cơ. Với ôzôn 5,64mg/L đạt hiệu quả tốt nhất ở pH = 3 [4].
thí nghiệm loại bỏ COD, kết quả cho thấy hiệu quả loại bỏ
Như vậy, sử dụng xúc tác nano oxit kim loại để tăng
COD sau 60 phút của quá trình ôzôn là 60%, khi sử dụng
cường quá trình oxy hóa tiên tiến trong việc xử lý nước thải
thêm xúc tác MnFe2O4 hiệu quả tăng lên 75%.
đặc biệt là nước thải công nghiệp có hàm lượng chất hữu cơ
Chung-Hsin Wu và cộng sự đã nghiên cứu loại bỏ thuốc cao, khó phân hủy sinh học như đối với các chất nhuộm màu
nhuộm azo RR2 (Red reactive 2) và AO6 (Acid orange 6) sẽ là một tiềm năng được đánh giá cao. Vì vậy, nghiên cứu
bằng quá trình catazon xúc tác MnO2 [2]. Kết quả khử màu này nhằm đánh giá hiệu quả xử lý sơ bộ việc sử dụng quá
cho thấy, sau 120 phút, hiệu suất khử màu của RR2 trong trình ôzôn hóa với sự có mặt của vật liệu nano tổng hợp
O3, O3/MnO2 (1g), O3/MnO2 (2g), O3/MnO2 (3g) lần lượt là TiO2/ZrO2 để xử lý chất nhuộm màu axit orange 7 (AO7).
83%, 92%, 95% và 95%, còn với AO6 lần lượt là 67%, 91%,
90% và 93%. Cả hai thuốc nhuộm RR2 và AO6 đều có hiệu
suất khử màu lớn hơn 90% khi sử dụng thêm chất xúc tác
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Thuốc nhuộm axit orange 7 (AO7) C16H11N2NaO4S là một
loại thuốc nhuộm azo có xuất xứ Aladdin - Trung Quốc để
đánh giá nghiên cứu.
MnO2 sau 120 phút xử lý.
Đặc biệt hơn, công nghệ nano đóng vai trò chính trong
việc phát triển các phương pháp tiêu thụ ít năng lượng, vật
liệu và giảm tác hại đến môi trường cũng như xử lý các chất
gây ô nhiễm môi trường. Các vật liệu nano có kích thước từ 1
đến 100nm, một số có đặc tính xúc tác, hấp phụ và độ phản
ứng cao có điện tích bề mặt riêng cao, do đó đây là những
vật liệu có tiềm năng ứng dụng trong xử lý môi trường, đặc
biệt là xử lý màu ô nhiễm. Các vật liệu nano có thể được sử
dụng làm chất xúc tác trong quá trình ôzôn hóa xử lý chất
hữu cơ trong nước. Nhiều vật liệu nano đã được nghiên cứu,
bao gồm các oxit kim loại (TiO2, ZnO, MgO,…) kim loại (Fe,
Zn) hoặc kim loại trên nền oxit kim loại.
Hình 1. Hình ảnh TEM cuả xúc tác TiO2/ZrO2
Vật liệu nano có diện tích bề mặt lớn cho tỷ lệ thể
tích/khối lượng của vật liệu nano tăng giúp tăng cường
tính hấp phụ của vật liệu. Các nghiên cứu gần đây về xử lý
nước thải bằng công nghệ nano đã sử dụng nhiều loại vật
liệu bao gồm các chất bán dẫn, nano khoáng sét, chất xúc
tác nano, hạt nano, vật liệu tổng hợp nano chủ yếu là TiO2,
paladi, Fe3O4, ceri oxit, chitosan từ tính...
Các hạt nano oxit kim loại như TiO2, ZnO và CeO2 đã sử
dụng rộng rãi cho xử lý các chất ô nhiễm trong nước. Do
điện tích bề mặt cao, tính chất quang điện, hạt nano oxit
kim loại được coi là chất xúc tác quang tốt cho quá trình
làm sạch nước. Các hạt MgO và Mg được sử dụng để phá
Hình 2. Giản đồ nhiễu xạ tia X của TiO2/ZrO2
144
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 SCIENCE - TECHNOLOGY
Xúc tác nano TiO2/ZrO2 được chế tạo từ vật liệu: TiOSO4 ảnh hưởng đến các phản ứng O3 trong quá trình. Đồng
và ZrCl2 trộn theo tỷ lệ mol 2:1, khuấy trong bình 1L. NaOH thời, chất màu cũng được chuẩn bị sẵn trong bể phản ứng
1M được thêm vào hỗn hợp cho đến khi pH đạt 11,5. Hỗn với các điều kiện thí nghiệm ứng với các nồng độ đánh giá
hợp dung dịch màu trắng xanh được được khuấy tiếp trong 175ppm; 350ppm và 550ppm. Mỗi thí nghiệm được tiến
12 giờ, để lắng và tiếp tục được lọc, rửa bằng nước cất. Kết hành trong khoảng 15 - 60 phút tùy thuộc vào từng phản
tủa rắn thu được đem sấy ở 50oC trong 12h. Kết quả chế tạo ứng, nồng độ chất màu AO7, nồng độ xúc tác nano đầu vào
vật liệu TiO2/ZrO2 và xác định đặc trưng của xúc tác nano và nồng độ chất màu được đánh giá theo thời gian phản
TiO2/ZrO2 qua ảnh TEM và chụp nhiễu xạ tia X tại Phòng thí ứng. Các mẫu phân tích được lấy ra từ bình phản ứng bằng
nghiệm vật liệu và kỹ thuật tiên tiến - Trung tâm Giáo dục syringe 10ml đảm bảo độ chính xác cao để tiến hành phân
và Nghiên cứu Unipetrol - Cộng hòa Séc. Kết quả trên hình tích và đánh giá số liệu thu được.
1 và 2 minh họa vật liệu nano TiO2/ZrO2 đã cho thấy kích
Hiệu suất xử lý chất màu của quá trình được tính toán
thước rất nhỏ từ 1 - 3nm được đo bởi kính hiển vi điện tử
theo công thức sau:
truyền qua (Transition Electron Microscopy (TEM)) và kết
(Co Cf )
quả phân tích TEM đồng nhất với kết quả XRD về cấu trúc
hạt vật liệu.
H(%)
.100
Co
Hơn nữa, vật liệu nano TiO2/ZrO2 được phân tích theo lý
thuyết phiếm hàm mật độ (NLDFT nonlocal density
functional theory) tại Phòng thí nghiệm vật liệu và kỹ thuật
tiên tiến - Trung tâm Giáo dục và Nghiên cứu Unipetrol –
Cộng hòa Séc và tính toán cụ thể đặc trưng cấu trúc của vật
liệu được thể hiện trên bảng 1.
Trong đó:
H là hiệu suất xử lý của quá trình (%);
Co là nồng độ của chất màu AO7 (ppm) tại thời điểm
ban đầu thí nghiệm;
Cf là nồng độ của chất màu AO7 (ppm) tại thời điểm kết
thúc quá trình xử lý.
Bảng 1. Đặc trưng của vật liệu nano TiO2/ZrO2
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Thông số
Đơn vị
Kết quả
3.1. Ảnh hưởng của nồng độ chất xúc tác ban đầu đến
hiệu quả xử lý chất nhuộm màu AO7 theo các pH khác
nhau
NLDFT analysis
Diện tích bề mặt (Surface area)
Dung tích lỗ rỗng (Pore volume)
m2/g
cm3/g
cm3/g
530,4
0,370
0,036
0,330
Thí nghiệm sử dụng nano TiO2/ZrO2 100ppm (100ppm
CAT)
Dung tích lỗ xốp (Micropore volume)
Dung tích mao quản trung bình (Mesopore volume) cm3/g
Nồng độ ban đầu của AO7 trong thí nghiệm được bố trí
175ppm với xúc tác nano TiO2/ZrO2 100ppm trong các thí
nghiệm pH 3, 7 và 10 và O3 được cấp liên tục với tốc độ
dòng khí của O2 0,5L/phút. Kết quả nghiên cứu hiệu quả xử
lý AO7 được minh họa trên hình 3.
Phương pháp nghiên cứu:
Nồng độ chất màu AO7 được xác định bằng phương
pháp trắc quang so màu UV Vis UH5300 Hitachi Nhật Bản tại
bước sóng 481nm. Nồng độ ôzôn được xác định bằng
phương pháp Indigo Carmin tại bước sóng 595nm trên máy
so màu UV Vis UH5300 Hitachi Nhật Bản. Giá trị pH trong các
thí nghiệm được đo bằng máy Hanna HI2211-02 Rumani.
Quá trình tạo ôzôn và thiết kế thí nghiệm
Ôzôn được sinh ra từ oxy tinh khiết (99%) cung cấp từ
bình chứa oxy 40L với lưu lượng khí điều chỉnh 0.5 L/phút đi
vào máy tạo ôzôn D - 10S (công suất 10g O3/h) qua van điều
chỉnh lưu lượng dẫn tới bể phản ứng khí lỏng 0,6L. Khí ôzôn
được cung cấp, phân phối đều bằng quả sủi bọt mịn để tăng
khả năng chuyển hóa ôzôn từ pha khí sang pha lỏng trong
suốt quá trình thí nghiệm. Máy khuấy từ được sử dụng để
tăng cường quá trình trộn mẫu được đồng đều trong bể
phản ứng pha lỏng. Khí ôzôn dư sẽ qua bộ khử khí có chứa KI
trước khi xả ra ngoài môi trường. Đường ống cung cấp khí O3
vào và O3 ra khỏi bình phản ứng có lắp đặt van một chiều. Hệ
thống được thiết kế là một hệ kín, các thí nghiệm được tính
toán hiệu quả xử lý trong bình phản ứng 0,6L.
Hình 3. Nồng độ AO7 theo thời gian với 100ppm xúc tác nano TiO2/ZrO2 tại
các pH khác nhau
Hiệu suất xử lý chất mầu AO7 được tính toán từ phân
tích nồng độ AO7 ban đầu và nồng độ AO7 tại thời điểm
kết thúc quá trình xử lý. Kết quả cho thấy, sau 16 phút
(994s) xử lý, hiệu xuất xử lý AO7 tại pH 10 đạt 99,3%. Hiệu
suất xử lý AO7 đạt được là 99,3% tại pH 7 chỉ sau 12 phút
(751s) và 99% tại pH 3 sau hơn 10 phút (672s) và nồng độ
chất màu AO7 đều giảm tuyến tính theo thời gian với các
điều kiện ban đầu thí nghiệm (hình 3).
Với lượng xúc tác nano TiO2/ZrO2 khác nhau (100ppm -
200ppm - 300ppm) được cho vào từ ban đầu trong bể phản
ứng với điều chỉnh pH ban đầu cố định tại pH 3, 7 và 10, sử
dụng nước cất siêu sạch đảm bảo không một yếu tố nào
145
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 57 - No. 3 (June 2021) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
Tại pH 10, nồng độ ôzôn sinh ra đã tiêu thụ nhanh để
chuyển hóa, hình thành gốc OH° trong quá trình thúc đẩy
ôxy hóa chất màu AO7. Tuy nhiên, so sánh điều kiện pH 3
và pH 7 thì tại pH 10 nồng độ AO7 được xử lý chậm hơn
(hình 3). Tại các thí nghiệm pH 3 và pH 7, nồng độ ôzôn hòa
tan lớn trong suốt quá trình xử lý, nồng độ O3 là 10,46ppm
và 9,42ppm (hình 4) lần lượt tại pH 3 và pH 7 do đó quá
trình xử lý diễn ra nhanh, hiệu quả hơn bởi quá trình ôzôn
trực tiếp. Điều đó, chứng tỏ rằng, cơ chế trực tiếp của ôzôn
và hiệu ứng xúc tác nano TiO2/ZrO2 trong điều kiện pH 3 đã
chiếm ưu thế hơn nhất trong xử lý chất màu AO7.
Hình 5. Nồng độ chất màu AO7 theo thời gian với xúc tác nano TiO2/ZrO2
200ppm tại các pH khác nhau
Để thấy được nồng độ ôzôn sinh ra và cơ chế ôzôn phân
hủy trong dung dịch phản ứng, các thí nghiệm trên hình 4
minh chứng nồng độ ôzôn trong dung dịch phản ứng với
sự có mặt của xúc tác nano TiO2/ZrO2 100ppm tại các pH
khác nhau 3, 7 và 10 khi không có với chất màu AO7 trong
bể phản ứng.
Tương tự như thí nghiệm với nồng độ chất xúc tác
100ppm, khi có mặt nồng độ 200ppm chất xúc tác nano
TiO2/ZrO2, tại pH 3, pH 7 và pH 10 có sự giảm nồng độ chất
màu một cách tuyến tính theo thời gian. Kết quả thí
nghiệm cho thấy, hiệu suất xử lý AO7 đạt 95% sau 15 phút
thí nghiệm và điều kiện thí nghiệm pH 3, với sự có mặt của
xúc tác nano TiO2/ZrO2 200ppm là điều kiện tốt nhất thực
hiện để xử lý chất màu AO7 (hình 5). Với các kết quả thí
nghiệm được tính toán, động học xử lý chất màu AO7 được
thể hiện theo phản ứng bậc một với hệ số phản ứng k lần
lượt ở pH 3, 7 và 10 lần lượt là 7.10-3; 5.10-3 và 5.10-3s-1. Kết
quả được minh họa trên hình 5 với sai số R2 có độ tin cây
cao, lần lượt là 0,88; 0,98 và 0,98 tại pH 3, pH 7 và pH 10.
Thí nghiệm sử dụng xúc tác nano TiO2/ZrO2 300ppm
Tương tự như hai hệ thí nghiệm trên, các thí nghiệm
này được bố trí với nồng độ chất xúc tác nano ban đầu
nano TiO2/ZrO2 300ppm với nồng độ chất màu AO7 khoảng
175ppm. Kết quả xử lý chất màu AO7 trong bể phản ứng
0,6L với dòng O3 liên tục cấp vào bể phản ứng với tốc độ
dòng O2 đầu vào 0,5L/phút tại pH 3, 7 và 10 được minh họa
trên hình 6.
Hình 4. Nồng độ ôzôn theo thời gian tại các giá trị pH khác nhau
Nồng độ ôzôn hòa tan tăng mạnh trong 5 phút đầu tiên
tại pH 3 và 7. Tại pH 3 nồng độ ôzôn tăng từ 3,93ppm lên
10,17ppm sau đó đạt trạng thái bão hòa với nồng độ ôzôn
trung bình 10.46ppm trong bình phản ứng khi không cho
chất màu AO7. Tương tự pH 7, nồng độ ôzôn cũng tăng
mạnh từ 5ppm lên 8,26ppm và sau đó đạt trạng thái bão
hòa với nồng độ ôzôn trung bình là 9,42ppm. Tại pH 10,
nồng độ ôzôn sinh ra bị tiêu thụ ngay chỉ còn khoảng
0,2ppm và không biến động nhiều theo thời gian do trong
môi trường kiềm pH 10, nồng độ ôzôn đã phản ứng rất
nhanh trong các chuỗi phản ứng để sinh ra các gốc tự do
và đặc biệt là gốc OH° linh động [5, 6].
Vì vậy, các kết quả đánh giá ban đầu đã ghi nhận động
học xử lý chất màu AO7 trong các thí nghiệm này theo phản
ứng giả bậc 1 với hằng số động học (k, s-1) phụ thuộc vào
thời gian phản ứng và điều kiện thí nghiệm. Hằng số động
học phản ứng tại thí nghiệm pH 3 cho kết quả lớn nhất
k = 8.10-3s-1, 7.10-3s-1 tại pH 7 và 6.10-3 tại pH 10 (hình 3).
Hình 6. Nồng độ AO7 theo thời gian với xúc tác nano TiO2/ZrO2 300ppm tại
các pH khác nhau
Thí nghiệm sử dụng nano TiO2/ZrO2 200ppm (200ppm
CAT)
Kết quả thí nghiệm cho thấy hiệu suất xử lý AO7 sau 20
phút đạt 98,65% đối với pH 7, 98,49% đối với pH 10. Kết
quả xử lý AO7 tại pH 3 là 98,57% chỉ sau gần 15 phút xử lý.
Với pH 7, với xúc tác nano TiO2/ZrO2 300ppm, nồng độ chất
màu AO7 có xu hướng giảm chậm hơn so với pH 3 và 10
trong suốt quá trình xử lý. Đây là điểm khác biệt so với khi
sử dụng xúc tác nano TiO2/ZrO2 100ppm và 200ppm cho
kết quả tốc độ xử lý AO7 chậm nhất tại pH 10. Do vậy, tại
Thí nghiệm tương tự thực hiện với điểu kiện nồng độ
màu AO7 ban đầu 175ppm, với 200ppm xúc tác nano
TiO2/ZrO2 trong bể phản ứng 0,6L tại pH 3, 7 và 10. Với
dòng O3 liên tục cấp vào bể phản ứng với tốc độ dòng O2
đầu vào 0,5L/phút, kết quả xử lý chất màu AO7 được minh
họa trên hình 5.
146
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619 SCIENCE - TECHNOLOGY
các thí nghiệm với pH 10 với xúc tác TiO2/ZrO2 300ppm, khả màu ban đầu được bố trí cao và nồng độ chất màu giảm
năng sản sinh gốc OH° trong dung dịch phản ứng mạnh tuyến tính theo thời gian xử lý trong các thí nghiệm nghiên
hơn để tác động mạnh với chất màu AO7 hơn ở cùng điều cứu. Thí nghiệm trong 5 phút đầu tiên từ nồng độ màu AO7
kiện pH7. Tuy nhiên, tại điều kiện pH 3, tốc độ xử lý chất ban đầu 350ppm, ở pH 3, nồng độ chất màu AO7 giảm
màu AO7 vẫn là tốt nhất với sự có mặt của chất xúc tác nhanh, giảm xuống còn 102,9ppm, đạt hiệu suất xử lý
nano TiO2/ZrO2 300ppm, chứng tỏ cơ chế trực tiếp và hiệu 69,87%. Tại thí nghiệm pH 7 nồng độ chất AO7 giảm xuống
ứng xúc tác bề mặt kết hợp của nano đã đóng góp trong xử còn 212,47ppm, đạt hiệu suất 38,4% trong 5 phút đầu. Ở thí
lý chất màu AO7 trong suốt quá trình thí nghiệm.
nghiệm pH 10, sau 5 phút xử lý, nồng độ chất màu AO7
giảm xuống còn 206,24ppm đạt hiệu suất 44,44% (hình 7).
Hiệu suất xử lý chất màu AO7 với nồng độ ban đầu khoảng
350ppm đạt 99% tại pH 3 sau 18 phút, tại pH 7 sau 30 phút,
tại pH 10 sau 25 phút xử lý. Các kết quả nghiên cứu cho
thấy ở thí nghiệm pH 3 đã cho hiệu quả xử lý chất màu AO7
là tốt nhất với sự có mặt của xúc tác nano TiO2/ZrO2
200ppm.
Từ các thí nghiệm thay đổi nồng độ xúc tác khảo sát với
điều kiện ban đầu tại pH 3, 7, 10 cho thấy thí nghiệm tại pH
3 cho kết quả nồng độ ôzôn hòa tan trong dung dịch phản
ứng tốt nhất và hiệu quả xử lý chất màu là tốt nhất và ổn
định với sự có mặt của nano TiO2/ZrO2. Điều này phù hợp
với lý thuyết về phân hủy ôzôn trong môi trường axit so
sánh với môi trường kiềm [5, 6]. Nano TiO2/ZrO2 đã đóng
góp quan trọng trong việc xúc tiến quá trình xử lý, cơ chế
thúc đẩy quá trình ôzôn hóa khi có mặt xúc tác nano đã
được tác giả và cộng sự đánh giá [7]. Các kết quả trên được
đánh giá cho thấy cơ chế xử lý chất màu azo AO7 hiệu quả
bằng con đường xử lý trực tiếp bằng ôzôn hơn cơ chế gián
tiếp bởi gốc OH°.Cơ chế của quá trình ôzôn khi có mặt của
xúc tác nano TiO2/ZrO2 để xử lý chất màu AO7 được giải
thích như sau:
Trên bề mặt chất xúc tác nano TiO2/ZrO2
+ Ôxy hóa xúc tác bởi gốc linh động
TiO2/ZrO2 -s +O3 TiO2/ZrO2 – sO=O-O
Hình 7. Nồng độ AO7 theo thời gian với 200ppm nano TiO2/ZrO2 tại các pH
khác nhau
TiO2/ZrO2 – sO=O-O TiO2/ZrO2 – sO° + O2
TiO2/ZrO2 – sO° + AO7 CO2 + H2O + chất trung gian
+ Ôxy hóa trực tiếp bởi ôzôn
Cơ chế động học xử lý chất màu AO7 ở các điều kiện
trên theo cơ chế xử lý bậc 1. Thí nghiệm tại pH 3 với
200ppm xúc tác nano TiO2/ZrO2, hằng số động học phản
ứng đạt cao nhất ở pH 3 là 4.10-3s-1 và hằng số động học ở
pH 7, 10 là 2.10-3s-1 (hình 7). Kết quả ghi nhận được sai số
tương quan của quá trình động học là đáng tin cậy với giá
trị R2 của từng quá trình xử lý chất màu tại các thí nghiệm
lần lượt là 0,89; 0,95 và 0,93 tại các điều kiện pH 3, 7 và 10.
O3
TiO2/ZrO2 + AO7 CO2 + H2O + chất trung gian
TiO2/ZrO2 –AO7 + O3 CO2 + H2O + chất trung gian
Trong dung dịch phản ứng
+ Ôxy hóa trực tiếp với O3
O3 + AO7 CO2 + H2O + chất trung gian
Từ các kết quả nghiên cứu cho thấy, sử dụng xúc tác
nano TiO2/ZrO2 nồng độ 200ppm vừa đảm bảo tiết kiệm
nguyên vật liệu sử dụng mà vẫn mang lại hiệu quả cao
Thí nghiệm với nồng độ chất màu 550ppm
Hiệu quả xử lý chất màu AO7 tại cả ba giá trị pH 3, 7 và
trong xử lý chất màu AO7. Vì vậy, nồng độ xúc tác 10 với sự có mặt của nano TiO2/ZrO2 đều tương tự nhau
nanoTiO2/ZrO2 200ppm được sử dụng nghiên cứu trong các (hình 8). Nồng độ chất màu AO7 giảm nhanh trong hơn 10
thí nghiệm tiếp theo.
3.2. Ảnh hưởng nồng độ chất màu AO7 đến hiệu quả xử
lý theo các pH khác nhau
phút đầu tiên, hiệu suất xử lý đạt lần lượt đạt 75,76%;
70,62%; 75,56% đối với pH 3, 7, 10 với sự có mặt nano
TiO2/ZrO2 200ppm.
Như vậy, tại nồng độ rất cao ban đầu của chất màu
AO7 550ppm, xu hướng xử lý chất màu AO7 tại các điều
kiện pH 3, 7 và 10 gần tương đương nhau khi có xúc tác
nano TiO2/ZrO2 200ppm. Ở các điều kiện này, hiệu quả xử
lý chất màu AO7 đạt 95% khi thời gian xử lý ngoài 30 phút
liên tục tiếp xúc với O3 như nhau trong các điều kiện trong
bể phản ứng.
Các thí nghiệm được tiến hành với lưu lượng dòng khí
cấp vào đồng đều O2 ở 0,5L/phút tạo ôzôn với công suất
10g O3/h như nhau để chuyển hóa ôzôn từ khí sang lỏng
trong bể phản ứng 0,6L với điều kiện được bố trí nồng độ
chất màu ban đầu AO7 cao hơn là 350ppm, 550ppm tại các
điều kiện thí nghiệm pH 3, 7 và 10. Các kết quả nghiên cứu
ảnh hưởng của nồng độ chất màu AO7 đến hiệu quả xử lý
được minh họa trên hình 7 và 8.
Kết quả được minh chứng rằng, động học xử lý chất màu
AO7 trong các thí nghiệm ở điều kiện này cho các kết quả
giống nhau về hằng số động học phản ứng, k = 2.10-3s-1 và
sai số R2 của các phép đo là rất đáng tin cậy, lần lượt là 0,97;
Thí nghiệm với nồng độ chất màu AO7 ban đầu 350ppm
Kết quả thí nghiệm cho thấy với nồng độ chất màu 350
ppm đầu vào, thời gian xử lý sẽ tăng lên do nồng độ chất
147
Website: https://tapchikhcn.haui.edu.vn Vol. 57 - No. 3 (June 2021) ● Journal of SCIENCE & TECHNOLOGY
KHOA HỌC
CÔNG NGHỆ
P-ISSN 1859-3585 E-ISSN 2615-9619
[7]. Dang T. T., Do V. M., Trinh V. T., 2020. Nano-Catalysts in Ozone-Based
Advanced Oxidation Processes for Wastewater Treatment. Curr. Pollut. Rep., 6(3),
pp. 217–229.
0,91 và 0,94 tương ứng với các thí nghiệm pH 3, 7 và 10 với
sự có mặt của xúc tác nano TiO2/ZrO2 200ppm (hình 8).
AUTHORS INFORMATION
Dang Thi Thom1,2, Do Van Manh1,2, Nguyen Thanh Dong3,
Dao Trong Hien1, Tran Manh Hai1, Nguyen Hoai Chau1,2,
Trinh Van Tuyen1,2
1Institute of Environmental Technology, Vietnam Academy of Science and
Technology
Hình 8. Nồng độ AO7 theo thời gian với xúc tác nano TiO2/ZrO2 200ppm,
nồng độ chất màu ban đầu AO7 khoảng 550ppm tại các pH khác nhau
2
Graduate University of Science and Technology, Vietnam Academy of
Science and Technology
3Unipetrol Centre of Research and Education, Czech Republic
4. KẾT LUẬN
Như vậy, các kết quả và thảo luận đã minh chứng một
tiềm năng của quá trình xử lý chất màu bằng công nghệ
ôzôn với sự có mặt của xúc tác nano. Với các điều kiện pH
khác nhau, môi trường axit, trung tính và môi trường kiềm
đã được đánh giá cùng với sự thay đổi nồng độ chất xúc tác
nano TiO2/ZrO2 ban đầu và nồng độ cao chất màu ban đầu
đã mang lại hiệu suất xử lý AO7 rất cao.
Nghiên cứu cho thấy một khả năng và triển vọng mới
trong việc tiếp cận công nghệ ôzôn hóa xúc tác (catazone)
sử dụng vật liệu tiên tiến nano mà điển hình sử dụng vật
liệu nano tổng hợp TiO2/ZrO2 trong xử lý các chất nhuộm
màu và có triển vọng đối với việc xử lý nước thải ngành
công nghiệp dệt nhuộm.
LỜI CẢM ƠN
Tập thể tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Viện
Hàn lâm và Công nghệ Việt Nam với sự ủng hộ tài chính từ
Đề tài mã số ĐLTE 00.07/19-20 cho nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Enling Hu et al., 2019. Removal of Reactive Dyes in Textile Effluents by
Catalytic Ôzônation Pursuing on-Site Effluent Recycling. Molecules - Open Access
Journal, 24(15).
[2]. Chung-Hsin Wua et al., 2007. Decolorization of azo dyes using catalytic
ôzônation. React.Kinet.Catal.Lett, 91(1), pp.161-168.
[3]. BhaskarBethi et al., 2016. Nanomaterials-based advanced oxidation
processes for wastewater treatment: A review. Chemical Engineering and
Processing: Process Intensification, Volume 109, pp.178-189.
[4]. S.M. Tabatabaei et al., 2011. Enhancement of 4-Nitrophenol Ôzônation in
Water by Nano Zno Catalyst. Iranian Journal of Environmental Health Science &
Engineering, 8(4), pp.363-372.
[5]. Tomiyasu H., Fukutomi H., Gordon G., 1985. Kinetics and Mechanism of
Ozone Decomposition in Basic Aqueous Solution. Inorg. Chem., 24(19), pp. 2962–
2966.
[6]. Staehelin J., Hoigne J., 1985. Decomposition of Ozone in Water in the
Presence of Organic Solutes Acting as Promoters and Inhibitors of Radical Chain
Reactions. Environ. Sci. Technol., 19(12), pp. 1206-1213.
148
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu sử dụng vật liệu nano tổng hợp TiO₂/ZrO₂ xúc tác quá trình ôxy hóa tiên tiến ôzôn để xử lý Axit Orange 7", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghien_cuu_su_dung_vat_lieu_nano_tong_hop_tiozro_xuc_tac_qua.pdf