Nghi lễ Tống ôn - Tống gió của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 39 (08-2019)
NGHI LỄ TỐNG ÔN - TỐNG GIÓ
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
y Trần Diễm Thùy(*)
Tóm tắt
Nghi lễ tống ôn - tống gió được người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long tổ chức hàng năm nhằm
đáp ứng nhu cầu tâm linh của các cộng đồng cư dân gắn bó với kênh rạch và sông nước. Bài viết
nhằm tìm hiểu nghi lễ này ở các khía cạnh: nguồn gốc, hành động lễ, ý nghĩa và giá trị văn hóa; kết
hợp với việc liên hệ và so sánh những nghi lễ tương tự của các cộng đồng người Việt ở miền Trung,
góp phần chứng minh sự gắn bó, xuyên suốt của văn hóa Việt Nam. Với những giá trị mà nghi lễ
mang lại cho cộng đồng người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần tạo nên bản sắc văn
hóa riêng biệt và khẳng định được sức sống của lễ hội truyền thống trong sự phát triển của xã hội.
Từ khóa: Nghi lễ, tống ôn - tống gió, văn hóa, Đồng bằng sông Cửu Long.
1. Đặt vấn đề
đồng dân cư, bao gồm những nghi thức được bảo
tồn bởi chủ thể văn hóa của một vùng và được
thực hiện nhằm đảm bảo những chức năng nhất
định cho chủ thể văn hóa. Tống ôn - tống gió là
một nghi lễ dành cho những vong linh, những cô
hồn - những người chết không rõ danh tính và
không được người thân thờ tự. Theo quan niệm
của người Việt ở ĐBSCL, những vong hồn vô
thừa nhận thường mang theo những điều không
may mắn và luôn quấy phá cuộc sống nên cần có
những nghi lễ mang tính chất tống tiễn.
Từ hồn - vía đến sự ngưỡng vọng quỷ thần
là một đặc trưng trong tín ngưỡng của người Việt,
thể hiện một thế giới quan sinh động để từ đây
hình thành những nghi thức cúng tế có giá trị
riêng biệt. Thông qua các hình thái tín ngưỡng,
người Việt vừa bộc lộ sự kính sợ, nhưng cũng
vừa thể hiện tín lý nhân văn sâu sắc đối với quan
niệm hồn - vía có từ ngàn xưa, được họ mang theo
trong quá trình Nam tiến. Nghi lễ tống ôn - tống
gió của người Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) được họ định hình bằng tư duy linh
hoạt, mềm dẻo và dung hòa văn hóa nhằm đáp
ứng nhu cầu tâm linh của cộng đồng gắn bó với
kênh rạch, sông nước; đồng thời thông qua nghi
lễ, họ cầu mong sự bình an cho cả người sống
lẫn những người đã mất. Nghi lễ tống ôn - tống
gió ngày nay có những biến đổi thông qua sự tác
động của không gian và thời gian văn hóa, nhưng
việc giữ gìn và bảo tồn lễ hội dân gian trong đời
sống văn hóa (như là một bản sắc riêng biệt của
cộng đồng cư dân sông nước ở ĐBSCL) liệu có
còn được bảo vệ và phát huy hợp lý.
“Tống” là xua đuổi, tiễn đi. “Ôn” theo quan
niệm dân gian ở vùng Nam Bộ mang nghĩa ôn
dịch, bệnh tật hay việc không may mắn trong
cuộc sống - những điều này thường xuất phát
từ những vong hồn đơn độc, không được cúng
kiếng hoặc do chết không rõ nguyên nhân hoặc
chết bất đắc kỳ tử. Như vậy, tống ôn là tống tiễn,
xua đuổi đi những điều không may mắn cho con
người từ những vong hồn cô độc.
Cùng là nghi thức dành cho những cô hồn
nhưng ở những vùng khác nhau thì có tên gọi
khác nhau. Ở vùng ven biển Đà Nẵng gọi là
“tống cói hạ kỳ” hoặc “tống ôn đưa khách” - cói
là cách nói trại của người dân đi biển về những
điều không may mắn, nghĩa của nó là đưa khách:
tống tiễn những cô hồn/Cô Bác chết trên vùng
biển này để bước vào mùa đánh bắt mới; Người
dân ở huyện đảo Lý Sơn gọi là tống ôn dịch;
thì ở Bình Định lại gọi là lễ tống na… Những
2. Nghi lễ tống ôn - tống gió
2.1. Một số khái niệm liên quan đến nghi
lễ tống ôn - tống gió
Nghi lễ là một phần trong lễ hội, thể hiện
được thế giới quan, nhân sinh quan của một cộng
(*) Trường Đại học An Giang.
61
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 39 (08-2019)
lễ tế người chết trên sông, trên biển khi đi khai thể trong cộng đồng làng xã. Tiêu biểu ở khu vực
hoang được gọi là “thủy đạo trường sa”, những ĐBSCL có thể kể đến nghi lễ tống ôn - tống gió
người chết trong quá trình khai hoang - những của người Việt tại Miễu Bà, ở Xóm Chài, phường
cô hồn bị phiêu tán thì cúng “xiêu mồ lạc mả”… Hưng Phú, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ,
Mỗi tên gọi đều phản ánh quan niệm về thế giới nơi mà nghi lễ tống ôn - tống gió vẫn diễn ra như
tâm linh của từng nhóm cộng đồng, song đều một hiện tượng văn hóa đơn nhất, đồng thời giữ
xoay quanh một ước vọng được bình an, xua đi được những nghi thức xa xưa, một ngày hội của
những điều không may mắn và cũng chính tên cộng đồng cư dân sông nước.
gọi phản ảnh được cách ứng xử với môi trường
tự nhiên đối với không gian mà người dân đang
sinh sống.
Lễ tống ôn - tống gió tại Miễu Bà xóm Chài
thường được tổ chức vào ngày 12-14 tháng Giêng
hàng năm, địa điểm chính của nghi lễ được diễn
ra tại Miễu Bà và trên dòng sông Hậu. Trước khi
bắt đầu vào nghi lễ, người dân phải làm trước
một chiếc thuyền lớn với khung sườn bằng nan
tre, được dán giấy màu khắp thuyền. Thân của
chiếc thuyền sau khi được trang trí thì có ghi trên
đó biển số thuyền, ngày tháng năm tiến hành hạ
thủy, nơi làm ra chiếc thuyền. Chiếc thuyền được
trang hoàng lộng lẫy, trên thuyền còn có những
hình người và quần áo bằng giấy, cả con thuyền
được đặt trên một chiếc bè được kết lại từ những
thân cây chuối. Ngoài ra, họ còn chuẩn bị gạo,
muối và các thức cúng khác để chuẩn bị chu đáo
nhất cho nghi lễ.
Nghi lễ tống ôn của người Việt ở ĐBSCL
thường được gọi là nghi lễ tống ôn - tống gió/tống
phong. Thời gian diễn ra nghi lễ này không thống
nhất tại các tỉnh, thành thuộc ĐBSCL nhưng phổ
biến nhất là từ rằm tháng Giêng đến tháng Ba
Âm lịch hoặc từ tháng Năm đến tháng Bảy Âm
lịch. Có sự trùng hợp là khoảng thời gian diễn
ra lễ tống ôn - tống gió lại là lúc thời tiết bắt đầu
chuyển gió theo mùa ở ĐBSCL. Song song đó,
trong tri thức dân gian của người Việt ở ĐBSCL
lại có bệnh “trúng gió” do mắc phải những luồng
gió độc. Có lẽ từ những tri thức dân gian trên mà
người Việt ở Nam Bộ gộp việc tống ôn và tống
những luồng gió độc lại trong một nghi lễ gọi
chung là tống ôn - tống gió.
Ngày vào lễ, người dân đặt chiếc thuyền -
được gọi là Long chu - trước miễu Bà. Sau khi
tiến hành các nghi thức cúng bài, người dân
sẽ đưa chiếc thuyền, nghi vật của nghi lễ tống
ôn - tống gió, trên một chiếc ghe rồi diễu hành
một đoạn trên sông. Đặc biệt, đối với nghi lễ
tống ôn - tống gió của người dân thuộc khu vực
3, phường Hưng Phú còn có hiện tượng người
dân trên các tàu cùng đi tóe nước vào nhau
tạo thành một cảnh tượng vô cùng vui nhộn,
náo nhiệt. Sau khi diễu hành, chiếc Long chu
sẽ được người dân đưa ra ngã ba sông để thả,
mang ý nghĩa tống những điều xui xẻo, không
may mắn, những vong hồn cô độc sẽ theo chiếc
thuyền ra biển khơi, không còn quấy phá người
dân. Bởi ý nghĩa này, Long chu được chuẩn bị
vô cùng khéo léo, kỳ công sao cho khi thả không
bị chìm, bị vỡ và thuyền có thể theo con nước
di chuyển thẳng ra biển. Theo quan niệm dân
gian, nếu chiếc thuyền không trôi ra biển mà
Các thực hành tín ngưỡng được hình thành
dựa vào sự nhận thức của con người đối với thế
giới tự nhiên và thực hiện chức năng cụ thể nhằm
đảm bảo mong muốn cơ bản nhất của cộng đồng
cư dân: sự bình an. Chúng thể hiện cách con
người cảm nhận và ứng xử với thế giới ở xung
quanh họ.
2.2. Khái quát nghi lễ tống ôn - tống gió
của người Việt ở ĐBSCL
Tại ĐBSCL, nghi lễ tống ôn - tống gió hiện
nay được giản lược và thường được gộp chung
vào những dịp lễ hội như: cúng đình, cúng miễu,
việc lề, nghinh Ông… Nghi lễ tống ôn - tống gió
ở ĐBSCL không tồn tại một cách phổ biến như
một chỉnh thể nguyên vẹn trong dòng chảy văn
hóa, tuy nhiên, nó vẫn giữ được những thành tố
quan trọng nhất để thực hiện các chức năng cụ
62
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 39 (08-2019)
quanh quẩn hoặc gặp các sự cố thì đó là điềm từ biển - đã hình thành một nghi lễ thờ cúng các
không may mắn.
vong linh, cô hồn giúp cho cộng đồng cư dân
được an tâm sinh sống và nương nhờ vào biển.
Ở vùng biển Trung Bộ của nước ta, nghi lễ tống
ôn - tống gió được gọi bởi nhiều tên khác nhau
như người viết đã trình bày ở phần 1, tuy ngày
nay các nghi lễ này hầu như được diễn ra một
cách quy cũ nhưng mỗi một nơi lại tích hợp thêm
một số yếu tố văn hóa khác thông qua tác động
của quá trình cộng cư.
Sau khi tiến hành nghi thức thả thuyền giấy,
người dân trở về đất liền với tâm trạng phấn khởi.
Tại nhà riêng, người dân thường gom lá khô ra
trước sân nhà đốt, họ còn rắc vào đó một nắm
muối tạo tiếng nổ rôm rốp. Tiếng nổ mang ý nghĩa
xua đuổi tà ma và đống lửa trước cửa nhà chính
là đốt đi những ôn khí, dịch bệnh. Hoạt động này
được diễn ra ở khắp thôn xóm, tạo không khí cho
một nghi lễ truyền thống trong cộng đồng.
Ở Âm Linh Tự, huyện đảo Lý Sơn, đối tượng
cử hành nghi lễ không chỉ có các vong hồn còn
bao gồm những người đã từng tham gia hải đạo
Trường Sa, cùng với tế âm linh là các nghi lễ
khao lề thế lính, hiến tế cho mặt biển các hình
nhân để mong cầu sự bình an. Ở vùng Nhật Lệ,
Quảng Bình trong lễ tế âm linh còn có hội trải và
lễ cầu siêu/lễ buông phao nhằm để cầu siêu cho
những người chết trên biển. Lễ tống na ở Khánh
Hòa có điểm đặc biệt là các lễ vật được đặt trên
con thuyền nhỏ bằng nan, có buồm và được thả
để chạy ra biển, đồng thời trong phần nghi lễ có
hát bả trạo, sau cùng là hát bội còn gọi là hát đãi.
Tùy vào nhân sinh quan và sự ảnh hưởng của tôn
giáo, tín ngưỡng của vùng văn hóa đó đến cộng
đồng cư trú mà hình thành những nghi thức tế lễ
khác nhau, cho thấy được sự linh hoạt cũng như
những giá trị nhân văn mà nghi thức tế âm hồn
của mỗi địa phương đem lại. Chính vì thế, nghi
lễ tống ôn - tống gió của cộng đồng người Việt
ở ĐBSCL cũng có nét đặc sắc riêng.
2.3. Ảnh hưởng không gian văn hóa đến
sự hình thành nghi lễ tống ôn - tống gió của
người Việt ở ĐBSCL
Quá trình định cư của người Việt ở miền
Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng gần như
gắn liền với sự chỉ dẫn của thiên nhiên - cụ thể
hơn là các con sông, con rạch. Những hiểm nguy
từ không gian sống luôn rình rập cuộc sống của
những cư dân khẩn hoang nên ở đâu có bất trắc
nguy hiểm, ở đó có thờ cúng và thực hành nghi lễ.
Tín niệm về linh hồn hay âm hồn của người
Việt trong dân gian tin rằng những người khi
chết đi không được tế tự, bị đói lạnh nên thường
lang thang trên trần gian gieo rắc mầm mống tai
họa - đây là đối tượng mà những người ở dương
gian phải tìm cách giải trừ. Văn hóa người Việt
khi vào đến Nam Bộ đã chịu ảnh hưởng không ít
từ văn hóa Nho giáo, Đạo giáo và cả Phật giáo.
Nho giáo chủ trương quỷ thần “kính nhi viễn
chi” - nên kính nhưng không nên tiếp xúc, Phật
giáo chủ trương từ bi - tìm cách để những cô hồn
được siêu thoát, Đạo giáo sử dụng phép thuật để
chế ngự. Tất cả những điều này được tích hợp,
dung hòa và thể hiện trong nghi lễ tống ôn - tống
gió của người Việt ở Nam Bộ.
Trong quá trình tìm hiểu nghi lễ tống ôn -
tống gió, người viết nhận thấy nghi lễ ở các nơi
tuy có khác nhau nhưng đều có yếu tố tương
đồng như: quan trọng nhất chính là chiếc Long
chu - chiếc thuyền làm bằng nan, dán giấy, trên
thường ghi biển số, nơi tiến hành nghi lễ; vàng
mã và hình nhân bằng giấy là những vật không
thể thiếu trên những chiếc Long chu; đồ ăn, thức
cúng có thể thay đổi khác nhau nhưng muối và
gạo không thể không có trong nghi lễ tế âm binh
hay tống ôn; nhân sự trong lễ hội thường là những
Xuất phát điểm đầu tiên của nghi lễ tống
ôn - tống gió có thể bắt nguồn từ tín lý về linh
hồn và sự cúng bái quỷ thần của người Việt ở
Bắc Bộ. Khi người Việt dừng chân ở đất Thuận
- Quảng và mở rộng lãnh thổ cả vùng Nam Trung
Bộ, do tiếp xúc với biển và sinh sống bằng nghề người dân trong làng và gắn bó với nghề nghiệp
biển - nghề luôn gặp những bất trắc, nguy hiểm của họ. Khi so sánh các nghi lễ ở khu vực miền
63
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 39 (08-2019)
Trung với nghi lễ tống ôn - tống gió ở ĐBSCL được làng xóm thì họ lại phải đối đầu với dịch
qua sự tương đồng và khác biệt, người viết có thể bệnh ở một vùng đất mới, dĩ nhiên sự nương nhờ
nhận định lễ tế âm binh của người Việt ở miền sức mạnh quỷ thần là tâm lý chính của người
Trung đã được người dân đem vào Nam Bộ và dân lúc này.
biến đổi một cách phù hợp.
Người dân ở ĐBSCL tuy đa số không sống
Khi vào đến ĐBSCL, nghi lễ này không còn gần và nhờ vào biển, nhưng họ thường tụ cư gần
được diễn ra ở những am âm linh như ở khu vực sông, rạch hoặc gần nguồn nước để thuận lợi cho
miền Trung mà được tích hợp vào các nghi lễ, đặc việc tưới tiêu. Mỗi năm, họ thường tổ chức cúng
biệt là lễ cúng đình hay cúng miễu. Tuy nhiên, đình, hạ điền - đầu năm cầu mong sự thuận lợi và
nghi lễ không được bảo tồn nguyên vẹn như ở thượng điền cuối năm - tạ ơn thần linh, có lẽ vì
miền Trung, nó thường được diễn ra vào cuối lễ thế mà lễ tống ôn thường được tổ chức đầu năm
hội kỳ yên hay cúng miễu, người ta thường hay để nhằm cầu tống tiễn dịch bệnh, cúng những cô
làm những chiếc thuyền nhỏ bằng giấy màu hoặc hồn xiêu lạc để họ không quấy phá vụ mùa. Cũng
giấy kiếng, để lên đó gạo, muối và đèn cầy rồi có thể nói, do sự ảnh hưởng của Phật giáo nên
thả trên những dòng sông, con rạch. Ở Long An, trong nghi lễ tống ôn - tống gió ngày nay tích hợp
Sóc Trăng trong mỗi dịp tống ôn - tống gió còn luôn cả nghi lễ cầu an, cầu siêu và thường được
có nghi lễ rước vong đường thủy hay lễ chiêu u tổ chức vào những ngày lễ lớn của Phật giáo như
đường sông, được thực hiện bởi các nhà sư Phật rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy.
giáo. Nghi lễ này giống với lễ hội làm chay ở làng
biển Nhượng Bạn tỉnh Hà Tĩnh, lễ buông phao ở
cửa sông Nhật Lệ tỉnh Quảng Bình với ý nghĩa
tiếp dẫn cho vong hồn người chết.
Quá trình khẩn hoang và hình thành cộng
đồng làng xã ở ĐBSCL cũng là quá trình người
Việt lưu giữ truyền thống cũ và thêm vào đó
những tập quán mới, hình thành tục lệ phù hợp
Ngày nay, nghi lễ tống ôn - tống gió thường với tín lý và môi trường sống của mình. Ngày
được gộp luôn cả lễ cầu an, cầu siêu và tống ôn nay, nhiều địa phương không còn giữ được trọn
vào làm một để tiết kiệm. Tuy nhiên, chủ lễ vẫn vẹn nghi lễ tống ôn - tống gió như thuở mới khai
tiến hành nghi thức tống ôn - tống gió nhằm tống hoang lập làng. Nghi lễ tuy được giản lược, được
tiễn ôn hoàng dịch lệ, cô hồn các đảng trên một tích hợp hay thêm thắt theo thời gian cũng có thể
chiếc thuyền giả kèm theo đồ hàng mã để mưu chấp nhận bởi văn hóa dân gian là của nhân dân,
cầu một cuộc sống an lành. Sau cuộc lễ, thường do nhân dân lưu giữ và sáng tạo theo cách vận
có gạo muối được ném vào lửa để xua đuổi tà khí động của riêng nó, miễn sao nó còn giữ được cái
và ngăn chặn những điều không may.
gốc, cái cốt lõi của một nghi lễ mang tính nhân
văn đã theo chân ông cha ta từ thuở khai hoang.
Bắt nguồn từ tín lý thờ hồn vía và lệ tế âm
linh của cư dân miền Trung, người dân ĐBSCL
3. Ý nghĩa và giá trị văn hóa của nghi lễ
còn thực hiện nghi thức tống ôn bao hàm cả ý tống ôn - tống gió của người Việt ở ĐBSCL
nghĩa cúng thủy đạo trường sa, bởi trong hành
trình vượt biển vào Nam bằng đường thủy, những
di dân xưa kia đã gặp nhiều phong ba và thiệt
mạng giữa biển, hồn xác không còn, thân nhân
lấy ngày ra đi làm giỗ và xem như những người
ấy đã gia nhập thủy đạo trường sa như xưa kia.
Bên cạnh đó, trong quá trình khai hoang, những
cô hồn khai hoang bị phiêu tán thì họ cúng “xiêu
mồ lạc mả”. Sau quá trình khẩn hoang vất vả, lập
Nghi lễ tống ôn - tống gió của người Việt ở
ĐBSCL là hành vi thờ cúng của con người đối
với đối tượng mang lại những nguy hiểm cho họ
trước hết là trong quá trình di dân, định cư và
sau là mang lại những bệnh họa trong cuộc sống
hàng ngày. Tuy nghi lễ này mang tính chất tống
tiễn, xua đuổi những điều không may, nhưng
đồng thời cũng tích hợp vào đó những giá trị
nhân văn nhất định. Đối với người chết, nghi lễ
64
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 39 (08-2019)
này tuy mang bản chất xua đuổi nhưng nó còn trong hành động cá nhân đó, lại thể hiện một sự
mang tính tiếp dẫn vong linh cho những người cộng cảm, cộng mệnh của một cộng đồng dân
mất mạng trong cuộc mưu sinh hoặc trong quá cư. Hướng tâm thức về cùng mục đích, gắn kết,
trình khai khẩn. Đối với những người sống, đây đan xen lại thành một khối bền vững. Nghi lễ
là dịp mang lại sự vững tâm cho họ trong cuộc này tồn tại được là nhờ sự đóng góp công, sức,
sống, tin vào tương lai bền chắc. Yếu tố này cũng tiền bạc của bà con xóm làng để tổ chức nghi lễ
mang lại sự an ủi cho những người ở lại, giúp cho thấy được sức mạnh và sức sống mãnh liệt
của cá nhân trong cộng đồng. Đây cũng chính
là giá trị mang tính chân - thiện - mỹ mà nghi
lễ đem lại.
họ có lý do để tiếp tục vươn lên trong cuộc sống
vốn nhiều thăng trầm.
Với nguồn gốc từ sự tin, thờ linh hồn và được
tiếp biến trong quá trình người Việt sinh sống ở
miền Trung, khi vào Nam Bộ, nghi lễ mang tính
chất tế âm linh đã được mang một màu sắc khác,
tuy nhiên vẫn giữ được những gốc ban đầu. Nghi
lễ này tuy không được tổ chức phổ biến như một
lễ hội đơn nhất ở các tỉnh ĐBSCL mà thường
được tích hợp, nhưng với những nghi thức, nghi
trượng, nghi vật đặc trưng, nó vẫn là nơi lưu giấu,
cất giữ và hướng con người về những giá trị văn
hóa nhất định.
4. Kết luận
Khi cuộc sống ngày càng phát triển thì
những giá trị cổ truyền gần như bị lu mờ, nó
được nhận định là có giá trị nhưng ít khi được
xã hội hưởng ứng để rồi những giá trị ấy dần
chìm vào quên lãng bởi nhiều nguyên nhân: con
người không có thời gian, kết hợp tổ chức để tiết
kiệm hoặc làm vì mục đích kinh tế mà không căn
nguyên vào gốc văn hóa ban đầu… Tuy nhiên,
bằng cách này hay cách khác, những giá trị văn
hóa dân tộc vẫn tìm được chỗ đứng của mình
trong xã hội hiện đại dù có ít ỏi.
Dù diễn ra với tên gọi nào, ở địa phương
nào, thì nghi lễ tống ôn - tống gió không thể
thiếu “giày, áo, cháo, nổ”. Ở mặt tinh thần,
những tiếng nổ sẽ giúp người sống được an tâm
vì những gì không may mắn đã được xua đuổi. Ở
mặt vật chất, đây là những thứ mà những người
chết trôi sông, lạc chợ sẽ thiếu thốn khi về thế
giới bên kia, một bộ quần áo sạch sẽ, khô ráo,
một bữa ăn no lòng giúp họ được an ổn. Tất cả
những yếu tố đó, được đưa lên một con thuyền
để trở về biển, phương tiện mà xưa kia, những
người đi mở cõi đã từng dùng, đi theo con nước
Nghi lễ tống ôn - tống gió xuất phát từ tín
lý về linh hồn của người Việt và đã cùng người
Việt trải qua sự tác động của nhiều yếu tố văn
hóa khác nhau cho đến khi “định cư” trong văn
hóa dân gian của người Việt ở ĐBSCL. Đã có
những biến đổi, đã có những tích hợp khác nhau,
nhưng những giá trị cơ bản của nghi lễ: an ủi
vong linh người chết, mong cầu cuộc sống bình
an cho người sống và hoài niệm về một quá khứ
khó khăn nhưng đậm chất bi hùng của hành trình
như xưa kia họ đã từng đi. Tất cả việc làm là mở cõi phương Nam vẫn được gìn giữ.
nhằm an ủi vong linh quá vãng của người chết
không được thờ tự, nhưng đồng thời cũng gợi
nhớ về thời gian khó nhọc của lớp tiền hiền khai
khẩn, hậu hiền khai cơ.
Mỗi lần tổ chức nghi lễ là một lần người
dân đắm mình trong dòng chảy văn hóa dân gian
của dân tộc. Sự cộng cảm, cộng mệnh ấy là khát
vọng về sự trường tồn của văn hóa dân tộc, bảo
vệ những giá trị văn hóa mà cha ông để lại. Nghi
lễ tống ôn - tống gió ngày nay tuy ít nơi còn giữ
được nguyên vẹn, vậy cần nhìn nhận và bảo vệ
số ít này một cách trân quý hơn như một dấu ấn
của văn hóa sông nước trong đời sống tâm linh
của người Việt ở ĐBSCL trong xã hội hiện đại./.
Trong cái chung, có cái riêng và ngược
lại, tính cộng đồng và tự trị xóm linh hoạt đan
xen nhau một cách mềm dẻo trong nghi lễ tống
ôn - tống gió. Ở tư cách cá nhân, mỗi gia đình,
mỗi làng xóm thực hiện nghi lễ như một cách
cầu may cho riêng làng, xóm của mình. Nhưng
65
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 39 (08-2019)
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Diễn trình văn hóa ĐBSCL, NXB Thời đại, Hà Nội.
[2]. Nguyễn Xuân Hương (2011), “Lễ tống ôn - Lễ thức cầu an của cộng đồng cư dân ven biển
[3]. Nguyễn Xuân Hồng (2014), Lễ hội truyền thống của người Việt ở ĐBSCL - Vấn đề bảo tồn
và phát triển, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
[4]. Huỳnh Thanh Lợi (2014), Một góc nhìn về văn hóa biển, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Content/1385.pdf .
[6]. Phan ThịYến Tuyết (2013), Tập bài giảng điện tử Tín ngưỡng và tôn giáo Việt Nam, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
[7]. Phan Thị Yến Tuyết (2013), Tập bài giảng điện tử Văn hóa biển, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
[8]. Phan Thị Yến Tuyết (2014), Đời sống xã hội - kinh tế văn hóa của cư dân và ngư dân vùng
biển Nam Bộ, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
[9]. Huỳnh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc (2013), Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia thần, NXB
Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[10]. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam (2012), Sổ tay hành hương đất phương Nam, NXB
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
THE RITUAL TO SEE OFF PLAGUES AND TOXIC WIND OF
VIETNAMESE PEOPLE IN THE MEKONG DELTA
Summary
The ritual to see off plagues and toxic wind is anually organized by Vietnamese people in the
Mekong Delta, meeting the spiritual needs of the communities attached to canals and rivers. The
article addresses this ritual regarding the origin, ritual performances, meaning and cultural values
in comparison with those of Vietnamese communities in Central Vietnam contributing to proving
the attachment and thread of Vietnamese culture. The ritual’s cultural values brought to Vietnamese
people in the Mekong Delta have made its own cultural identity and affirmed the vitality of traditional
festivals in the course of social development.
Keywords: Ritual, see off plagues and toxic wind, culture, Mekong Delta.
Ngày nhận bài: 25/3/2019; Ngày nhận lại: 11/4/2019; Ngày duyệt đăng: 20/6/2019.
66
Bạn đang xem tài liệu "Nghi lễ Tống ôn - Tống gió của người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- nghi_le_tong_on_tong_gio_cua_nguoi_viet_o_dong_bang_song_cuu.pdf