Mĩ học hiện sinh và sự lên ngôi của nhân vị
UED Journal of Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC
MĨ HỌC HIỆN SINH VÀ SỰ LÊN NGÔI CỦA NHÂN VỊ
Nguyễn Thanh Trường
Nhận bài:
26 – 05 – 2015
Chấp nhận đăng:
Tó m tắt: Bằng cá i nhì n về bản chất “di trú” của loài người nguyên thủy, triết thuyết hiện sinh quan niệm
con người là kẻ “di dân” đi vào chốn xa lạ để tì m kiếm những giá trị trong khô ng gian sống. Điều mà chủ
01 – 11 – 2015
nghĩa sinh tồn quan tâm là xác định cho được một chủ thể sinh tồn - chủ thể thực hiện hành vi tí nh
người. Đây là sự cộng hưởng của những giá trị nhâ n vị để làm nên sức á m ảnh của mĩ học hiện sinh
trong hành trì nh lên ngô i của nhâ n vị. Nghĩa là từ gó c nhì n của mĩ học hiện sinh, con người chì m trong
vò ng xoá y thực tại. Mĩ học hiện sinh quan tâ m nhiều đến vấn đề vai trò tham dự của con người vào ý
nghĩa vong tồn của từng hữu thể, sự nổi loạn trong nghệ thuật. Tất cả tạo thành chức năng của nghệ
thuật là lừa dối và tự lừa dối; kết thúc bằng mục đích nhân đạo cao cả của nghệ thuật. Đây cũng là giá
trị nhâ n bản của nghệ thuật châ n chí nh.
Từ khóa: mĩ học hiện sinh; nhân vị; nghệ thuật; chủ nghĩa hiện sinh; chủ thể.
được khởi đi từ trong tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại,
với quan niệm chủ quan diễn giải thế đứng con người
1. Đặt vấn đề
“Con người giải quyết số phận của mình trong tình
trạng hoàn toàn cô độc” (Sartre). Tuyên ngôn phận
người đầy kiêu hãnh được hiểu như đường dẫn tới
khung giá trị về con người của chủ nghĩa hiện sinh -
khơi nguồn cho những ý nghĩa của mĩ học về bản thể
sinh tồn. Với các triết gia hiện sinh hay các nghệ sĩ hiện
sinh, nghệ thuật là không gian để triết thuyết của họ
được thực chứng. Đối với người hiện sinh, hình tượng
nghệ thuật là phát ngôn của triết lí hiện sinh. Mỗi trường
phái là một quan niệm mĩ học khác nhau. Song lớn hơn
một cuộc gặp gỡ, tất cả đều hướng về năng lực phục
dựng thế giới nhân vị.
giữa vũ trụ quan, mà theo lí thuyết thông diễn đã đưa
đến mối hòa giải giữa nhân sinh quan và vũ trụ luận.
Hơn nữa, trong mối quan tâm sâu sắc giữa thực thể tồn
tại của loài người từ thuở hồng hoang như một dấu hỏi
dài chưa tìm ra được lối thoát thì các nhà tự nhiên chủ
nghĩa đã hướng tới nhận diện, định giá nhân tính - tính
cách người tiềm tại như những hạt phân tử được tác hợp
từ các mẩu ghép bản thể nguyên sơ, một sự khai sinh tự
nhiên, trần trụi của thế giới người nguyên thủy.
Đối với triết học cổ đại Hy Lạp, chủ nghĩa tự nhiên
lí giải con người là sự hợp thành của những sự vật khác
nhau xoay quanh phạm trù thân xác và linh hồn. Linh
hồn là một loại bản thể, tham dự vào lí tính, phù hợp với
việc cai quản thân xác. Theo Augustine, linh hồn và thể
xác khác nhau về mặt siêu hình học. Tính nguyên hợp
trong mỗi cá thể người cần tới phương thức đa hợp giữa
linh hồn và thân xác, và ở đó, linh hồn cao hơn thân xác.
Điều này thể hiện ở sự phân loại các sự vật theo thứ bậc
chức năng, đó là nhóm những sự vật tồn tại là nó, sự vật
tồn tại để sống và những sự vật sống một cách lí tính.
Đây là lí do N.Blasquez thừa nhận thuyết nhị nguyên
của Augustine về các bản thể thân xác và linh hồn
không ngăn cản ông coi sự thống nhất giữa thân xác và
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Con người, từ yếu tính tự nhiên đến nhân vị
Con người tự nhiên và những khám phá đầu tiên
*
Liên hệ tác giả
Nguyễn Thanh trường
Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
Email: thanhtruong2806@yahoo.com
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131 | 123
Nguyễn Thanh Trường
linh hồn như là tự thân bản thể. Còn với Aristote, con
người là con vật khả tử có lí tính (animal rationale
mortale). Theo lí thuyết về hiện tượng con người,
Chardin lại cho sự xuất hiện đầu tiên của con người
đồng hành với ngưỡng cá thể của sự phản tư. Đó là hình
thái tồn tại bản nguyên của loài người như một cá thể
sinh tồn.
hình hóa các vật thể vô tri vô giác xung quanh họ để đi
vào mối quan hệ liên nhân với chúng. Theo cách này,
con người có thể cảm nhận như thể họ kiểm soát mọi
cảnh huống mà họ không thể nào kiểm soát được, bởi
họ không xem đối tượng như là một vật mà là một hữu
thể có lí tính, có thể cảm nhận được những xúc cảm và
ngôn ngữ của họ. Còn với luận giải về dục tính của loài
người theo tinh thần của chủ nghĩa hiện sinh, bản năng
tự nhiên của con người là nhu cầu giao phối mang tính
bản thể. Vì thế con người trong bản thể tự nhiên đã phát
lộ những ham muốn hiện sinh. Như một khát vọng sinh
tồn, hữu, hiện hữu.
Tiến trình tự nhiên của con người đặt con người
vào hai giá trị nghĩa, thứ nhất con người là sinh linh đẹp
nhất, thứ hai con người còn là sinh linh tự giác nhất. Với
ý nghĩa tư cách thứ hai, con người tự thân trở thành tác
nhân của quá trình tạo ra thế giới, cảm nhận thế giới. Và
con người tự nhiên với hai tư cách tồn tại đã trở thành
nền tảng mà các nhà mĩ học hiện sinh quan tâm. Như
vậy, cuối cùng con người được trả về bản nguyên của
giá trị đích thực. Con người tạo dựng được chỗ đứng
cho nó với tư cách làm chủ hoạt động thẩm mĩ, tất nhiên
trong đó có sáng tạo nghệ thuật.
Tinh thần của những tư tưởng mang tính luận
thuyết trên đã thực chứng về sự khám phá thế giới
người còn là sự khai mở từ phương diện lịch sử bản chất
người. Và theo quan niệm con người nhân hình hóa -
quan niệm nhân học, thì mối quan hệ giữa con người và
ngoại giới là tự do đích thực của những kiếp nhân sinh.
Ở đó, thế giới nhân vị hướng đến sự tự do tuyệt đối.
Đến quan điểm của triết học hiện sinh, Marcel xác
nhận thân xác vừa là sở hữu vừa là hiện hữu trong ta.
Tuy nhiên, điều quan trọng là Marcel đưa ra nhận định
sâu sắc về tính năng, vai trò chủ thể sinh hoạt của thân
xác. Bằng cách tạo ra thế lưỡng phân giữa cái nhìn cá
thể và môi trường sống, kể cả môi trường hẹp - tha nhân
và với cái nhìn về bản chất “di trú” của loài người
nguyên thủy, triết thuyết hiện sinh cho rằng con người
là những kẻ “di dân” đi vào chốn xa lạ để tìm kiếm
những giá trị trong thế giới sống1. Theo đó, Marcel đã
lập thuyết cho thân xác có những yếu tính tương tác với
linh hồn và là phương diện thể chất của linh hồn.
2.2. Sinh tồn và đích đến của nhân vị
Các suy tư thông diễn học (the hermeneutic
reflections) phê phán về tính khách quan đã mô tả hoạt
động văn hóa nghệ thuật là hiện thân cho tiến trình vô
tận của “các hòa nhập những chân trời” (“fusions of
horizons”). Đây là quan niệm đối thoại lại tính tương
đối của đời sống con người và tránh đụng độ với mối đe
dọa của một chủ nghĩa tương đối triệt để. Bởi vậy, thông
qua tiến trình tự do, vô tận là phạm trù không thể đoán
trước được về “các hòa nhập những chân trời”.
Trong mọi trường hợp, điểm xuất phát của thuyết
nhân học cổ bắt nguồn từ sự thống nhất của sự sống.
Đây là giá trị đầu tiên làm nền tảng cho sự phát triển của
các luận thuyết về nhân học sau này. Nơi đó, loài người
được định vị trong mối tương giao giữa bản thể và nhu
cầu khẳng định yếu tính tồn vong. Tính cách con người,
hình dạng, tính tình, sự say mê luôn luôn phụ thuộc vào
vị trí nó chiếm giữ và tồn tại trong sự sống. Không phải
sự sống là bộ mặt của con người, mà con người mới
chính là bộ mặt của sự sống. Trái ngược với thuyết nhân
học hiện đại không đánh giá ý nghĩa sống, thuyết nhân
học cổ bao giờ cũng ghi nhớ ý nghĩa của con người.
Đây là lí do cho thuyết nhân học cổ trở thành nền móng
để các triết thuyết quan tâm đến con người và lấy đó
làm cơ sở định hình thế giới nhân vị. Bên cạnh đấy,
nhân học cổ còn khẳng định linh hồn đi từ bóng tối sang
1Marcel nhấn mạnh tính chủ thể của thân xác: “Chính xác
ta nhìn sự vật, chính tai ta nghe âm thanh, chính xác ta tri giác
thấy vũ trụ muôn màu và thiên hình vạn trạng. Không có xác
chủ thể, chúng ta chỉ có thể suy tưởng về những màu sắc, suy
nghĩ về những âm thanh và suy nghĩ về những hình thể thôi;
không thân xác chủ thể, ta không bao giờ có những tri giác mà
chỉ có những ý tưởng thôi. [5, tr.272]
Trên quan điểm hiện tượng luận, Husserl đã thể
hiện một cách nhận thức khác của mình về con người,
đặt con người trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối
tượng. Để sắp xếp, tổ chức đời sống giữa phi ngã và tha
nhân, mà theo Heidegger, đó là thế giới đã được thuộc
địa hóa. Thế giới đó chính là đời. Đi vào thế giới là đi
vào đời. Sống ở đời nghĩa là cách thế để “hiện sinh”.
Trong khi đó, tư duy nhân học lại xem con người nhân
124
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131
bóng tối, u mê, đờ đẫn. Đó là đầu mối dẫn đến tận cùng
của sự tuyệt vọng. Quan niệm nhân học cổ đại này là
đường dẫn liên đới cho hành trình diễn giải việc hình
thành ý nghĩa sinh tử của nhân vị trong thuyết hiện sinh.
Có thể là hiện thể, là hiện sinh, là hữu thể, là hiện hữu.
Sự tồn sinh này được xem là chủ nghĩa sinh tồn - một
minh chứng cho những cái khả thể của “hiện sinh”. Nó
tồn tại trong những điều kiện của cảnh huống xã hội và
tự thân, mà ở đó dường như “mỗi người đích thực một
tự do” (Sartre).
Đến chủ nghĩa hiện sinh (existentialism), ý nghĩa
thân xác không còn đặt nặng trong mối quan hệ giữa
linh hồn và thể xác. Thân xác đã trở thành thực thể định
giá hữu thể và là ngôn ngữ hiện tồn của chủ thể. Tuyên
ngôn “thân xác tôi như là chủ thể” là ý thức thân xác
của hiện sinh Marcel. Chính khúc quanh biến động của
đời sống xã hội đã tạo nên bối cảnh xô đẩy con người
khát đến một thế giới mà theo quan niệm cực đoan của
họ, đó mới chính là sự sinh tồn. Tuy nhiên, chủ thể sinh
tồn không xóa nhòa đi những tranh chấp của đời sống
thực tại, mà vượt lên, như đúng ý nghĩa bản thể của con
người tự nhiên trên hành trình giải phóng những dồn
nén từ sự kiềm tỏa của thời Trung cổ với mặc cảm, cô
đơn, trống rỗng, thậm chí là phi lí.
Con người theo quan điểm của triết lí sinh tồn, là
mối “lo” - là con người bị bỏ rơi - con người dự định -
con người của sự sa ngã. Tương lai của con người theo
nhãn quan mĩ học hiện sinh không ngoài thế giới tương
lai của sự tiếp thu, một thế giới được gợi nhiều ý nghĩa
nhờ vào sinh tồn của chủ thể. Còn với quan niệm về con
người sa ngã, con người luôn trong trạng huống âu lo,
run sợ. Hay đó còn là bản năng trỗi dậy - cái ngoại hiện
của sự sa ngã trong cơn thèm khát tự do. Đó chính là
khoảnh khắc tự vấn về cái chết để cảm nhận cái giới hạn
tuyệt đối: “Tại sao chúng ta chết? (...) chết là chấm dứt
cuộc đời, chết làm cho hiện - sinh thành một toàn - thể,
chết là toàn - thể cuộc đời” [12, tr.390]. Theo quan
điểm của trường phái triết học hiện sinh thì đây là biểu
hiện của năng lực tồn sinh nơi khả thể con người trong
hành trình truy tìm những tính năng vô hạn định ở chất
người; là xác tín cho ý nghĩa của đời sống - ý nghĩa cái
chết đúc vào hình thái bản mệnh nghệ thuật có tính cá
nhân nhất. Trong thế kỉ Ánh sáng, người ta hướng đến
sự lạc quan, tuy nhiên suy cho cùng đó cũng là ánh sáng
vươn lên giải vây cho những “điều gian khổ”. Như thế,
cái chết trong phạm vi của chủ nghĩa hiện sinh là cơ sở
để con người bảo lưu sự sinh tồn đóng đinh trong sinh
mệnh sống. Tiếp nối tư tưởng này, đến các tư trào hiện
sinh, chủ nghĩa sinh tồn đã xâm thực vào trung tâm thế
giới nhân vị và trở thành bản thể luận của cái gọi là ý
thức tự do. Thậm chí, định tính cho cái hình nhân tự do
được khuôn trong cô độc. Bởi sinh tồn đi trước bản
chất. Nghĩa là từ góc nhìn của mĩ học hiện sinh, con
người chìm trong vòng xoáy kiếm tìm cái hằng tại. Trở
về nhân thể, con người không phải là cái mà “nó là”
mà nó là cái mà “nó không phải là”. Nói một cách
khác, nó không bị khuôn trong một phạm trù nào hết.
Cái tính chất tự do trong nó thuộc về ý thức nguyên
thủy của con người, là cái bản chất người được sinh
thành từ cấu trúc “bất biến” của tinh thần, của ý thức
nhân vị.
Không thể tách rời các trường phái của chủ nghĩa tự
nhiên trong việc sáng lập ra con đường tự do như sự
hướng về tôn giáo của loài người, biện giải của triết học
Đức là đi tìm hạt nhân cấu trúc cho những đứt nối trong
bản chất nhân vị. Khi đó, con người tìm đến tôn giáo
như một cứu cánh, để ý thức tự do có chỗ neo đậu và
phát triển trở thành chủ nghĩa sinh tồn với quan niệm
con người tự do như một sự “xé thây”2. Điều mà chủ
nghĩa sinh tồn quan tâm là xác định cho được một chủ
thể sinh tồn - chủ thể thực hiện hành vi tính người. Đôi
khi Thượng đế là “định đề” của con người sinh tồn. Khi
đó, con người tự nhiên rơi vào chủ quan đơn độc, hư
không… và quan tâm cả đến những “phạm trù tuyệt
vọng”. Con người phiêu lưu. Con người lạc nhịp trong
thế giới của hữu thể. Những biểu hiện mang tính tồn
2Chữ dùng của các nhà tư tưởng Nga khi đưa ra những
quan điểm mĩ học của chủ nghĩa hiện sinh.
vong này thể hiện sự bất lực của chủ nghĩa tự nhiên. Vì
vậy, con người suy tưởng về một thế giới sinh tồn nơi
đó họ rơi vào tình trạng hỗn loạn. Con người theo
Heidegger, “chỉ có thể định nghĩa từ cái sinh tồn của
nó”. Và Camus, Sartre, Nietzsche, Rimbaud… đều lấy
bản chất tự do của con người làm đích đến cho các
đường giao cắt trong lí giải chủ thể hiện sinh; lí giải
hành trình tìm bản nguyên hiện tồn trong tự ngã nhân vị.
Điều mĩ học hiện sinh quan tâm là xây dựng chủ
thể sinh tồn sắm vai trong thế giới nghệ thuật. Trên
125
Nguyễn Thanh Trường
tinh thần này, chủ thể trong tự nhiên được định tính là
một thực thể sinh tồn. Theo chủ nghĩa hiện sinh, như
Marcel quan niệm: “Những cái tôi có là sở hữu của tôi.
Như vậy, chúng không phải là tôi, và tất nhiên tôi càng
không phải là chúng” [5, tr.280]. Nhà triết học nhấn
mạnh liên hệ giữa tự do và định mệnh. Khác Sartre,
Marcel cho rằng tự do là đặc tính của con người hiện
sinh, nghĩa là thuộc về chủ thể tinh thần. Với Marcel,
tự do đích thực là hành vi sáng tạo của con người hiện
sinh. Người nghệ sĩ tự do, trong quan niệm của mĩ học
hiện sinh là kẻ dấn thân vào hành vi sáng tạo, sáng tạo
ngay trong chủ thể của cảm hứng nghệ thuật. Đó là
hành vi sáng tạo tự do đích thực. Với cả Sartre và
Marcel, tự do là lựa chọn, tính xác tín không cần lí do.
Vì thế con người tự do hiện sinh dễ rơi vào phi lí.
Theo diễn trình này, lí tưởng nghệ thuật đối với mĩ học
hiện sinh có thể nằm ngoài ý đồ nghệ thuật, không
hoàn toàn thỏa mãn cho ý đồ nghệ thuật của người
nghệ sĩ. Mà ngọn nguồn của sáng tạo là ngẫu nhiên -
chọn lựa - chọn lại - tái tạo trong sáng tạo. Trong mĩ
học hiện sinh, người ta quan tâm đến cái khác của
nhân vị - phải là những giá trị đích thực. Vì vậy, tự do
là sự chống đỡ đồng thời lại bị đe dọa bởi thế giới và
sự siêu nghiệm. Là không biện chứng. Phi lí. Phi mục
đích. Phi trung tâm. Suy cho cùng, mọi giãn cách phi lí
nơi trạng thức chủ thể tính luôn là hệ quả của tình
trạng cô độc trong tự do tuyệt đối. Một nguyên nhân
gián tiếp đẩy con người chạm ngưỡng tuyệt vọng.
Tuyệt vọng để thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật.
Trong đó, ở một số triết gia hiện sinh, Thượng đế là
đòi hỏi xác tín của sự tuyệt vọng. Mối quan hệ giữa
con người sáng tạo và “Thượng đế” trong tư duy sáng
tạo có thể hiểu là sự giải tỏa cho những phạm trù tuyệt
vọng. Thậm chí phủ quyết nghệ thuật. Xét ở góc độ
tích cực, hành vi phủ quyết nghệ thuật là động lực
sáng tạo nghệ thuật, dù là sáng tạo nổi loạn của con
người nghệ sĩ “phi lí”.
dồn nén tâm lí phức tạp. Đối với họ, chết không phải
hết. Chối bỏ thực thể siêu việt như một cứu cánh cho
con người đối diện với các thực thể vong thân. Sự dấn
thân trong cô độc đã mặc định cho “cái khác” luôn tồn
tại song song nơi ý thức con người. Thực thể tại thân là
“thừa”, theo quan niệm của Sartre đó chính là lí do dẫn
giải con người cảm nhận vị nhân.
Ngay cả nỗi cô độc của loài người - cũng là một
hình thái có nguồn gốc “tự nhiên”. Và đến với triết học
hiện sinh, nỗi cô độc bẩm sinh của loài người có thể đã
trở thành “nhân đức”4. Đối với cả Heidegger và Sartre,
cô độc của loài người là cô độc tuyệt đối. Không chỉ cô
độc giữa “mênh mông” mà cô độc tự thân. Khi con
người trong tâm thế lo âu vô định, con người đã hướng
bản thể đến vòng vây của vong thân. Đó là kinh nghiệm
chấn thương của một “vương quốc” mênh mông những
phi lí. Trượt trên ý thức phẩm tính nhân vị, vong thân
được xem là một trạng thái tinh thần ý thức cao độ về sự
hiện tồn.
Với ý thức đó, mĩ học hiện sinh quan tâm nhiều đến
vấn đề “tham gia” - tham dự vào ý nghĩa vong tồn của
từng hữu thể. Cái không phải tuyệt đối nảy sinh trong
cái tôi tư duy này đã tạo nên những mặt đối lập, thống
nhất biện chứng trong quan niệm về nghệ thuật. Đối với
mĩ học hiện sinh, nghệ thuật đích thực là sự chiếm đoạt
chứ không phải là sự chinh phục; là kiếm tìm cái khác
mang tính tất yếu trong biến đổi một vật thành một loại
đặc biệt giữa các chủng loại. Và khi chủ thể dấn thân
vào nghệ thuật tức muốn chiếm hữu bản chất sự sống.
Mặc dù bi kịch hiện sinh, nơi sự sống chồng xếp những
khoảng không gian ngột ngạt, thời gian bị đánh cắp.
3Một trong những hình thái sinh tồn của chủ nghĩa
hiện sinh
4 Quan điểm của Nietzsche
Thậm chí, trước vòng quay con tạo, con người nát vụn
trong vô vàn những ảo tưởng hóa. Song, chủ thể ý thức
tham dự, nghĩa là chủ thể tự đẩy mình vào “tăm tối” một
cách chủ động - là giành lấy quyền năng minh nhiên trí
tuệ để quy giản thế giới. Thế giới đó là thế giới của
“tôi”; là thế giới buộc tôi hành động. Với tâm thế
chuyển đổi giữa người thưởng ngoạn và kẻ tham gia
trong nghệ thuật, đã nảy sinh một trạng thái hoán
chuyển vị trí giữa chủ thể sáng tạo và người tiếp nhận.
Điều này cũng có nghĩa người nghệ sĩ vừa là người sáng
2.3. Tham dự3- khát vọng tinh thần tuyệt đỉnh
Dẫm chân lên cái tôi chủ thể để tiếp nhận thực thể,
để làm cho chủ thể bị “vong thân”. Tình trạng người
hiện sinh đã gây dựng ranh giới cho những khả thể nhân
vị. Từ đây tinh thần nhân vị mang trường lực nội sinh
bước ra khỏi tôi vây kín để đến với môi trường ngoài tôi
với các va chạm mang tính thách thức. Những khoái lạc
xác thịt cần sự nâng đỡ của một lực lượng mà hiện sinh
gọi là siêu hình. Con người cuốn chìm trong vòng xoáy
126
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131
tạo vừa là người thưởng thức (Mikel Dufrenne). Sự
tham dự của họ là khởi phát cho những tương tác, tạo
nên nghịch lí của mĩ học; đồng thời tạo động lực cho mĩ
học sáng tạo và tiếp nhận.
- phương châm của triết học, mĩ học hiện sinh. Tuy
nhiên, một trong những cách hiểu của chủ nghĩa hiện
sinh lại quan niệm, với con người không hề có Thượng
đế để dìu dắt, nó không thuộc về chân lí. Vậy chỉ có suy
lí. Suy lí như một phạm trù căn bản của tinh yếu hiện
sinh. Nó đẩy hiện tượng luận về hư vô, con người như
đứng trước một thế giới phẳng. Hư vô hiện sinh còn là
phạm trù tiếp diễn khỏa lấp vào cái vong thân của bản lề
tuyệt vọng. Tất yếu, nhân vị không thể tránh khỏi tâm
chấn hoang mang của loài người trước hư vô. Và đây
cũng chính là tâm thức “di trú” vừa chạy trốn vừa đối
mặt của chủ thể hiện sinh trước bản mệnh nghệ thuật.
Ngay trong ý niệm về sự tha hóa của con người cũng là
động cơ cho chủ thể sáng tạo ham muốn tái thiết trật tự
thế giới loài người xô bồ, hỗn mang, không lối thoát.
Tình trạng cô độc này không làm chấn thương trái tim
đam mê sáng tạo của nghệ sĩ mà ngược lại, đẩy tinh
thần họ dự phóng5 về với thế giới của ngập tràn ý đồ
nghệ thuật (tái sinh ngay từ trong hủy diệt; hồi sinh
ngay trong sự cầm tù của trạng thức cô đơn). Cộng sinh
mọi tinh lực từ thế giới tinh thần nhân vị, mĩ học hiện
sinh sẵn sàng chấp nhận một đối tượng - kẻ sáng tạo
thèm cô độc; là cô độc để thăng hoa từ trong hủy diệt.
Nên hiểu, cuộc chơi mà mĩ học hiện sinh trì hoãn cái
vòng tuần hoàn trong hữu thể luôn là khát vọng xâm lấn
những giới hạn, giới hạn trong giới hạn. Ở đó, có thể
mọi diễn giải cho lí thuyết trò chơi sẽ trở nên vô nghĩa
lí. Bởi, tính chất phi lí hiện hữu ở mỗi nấc thang giá trị
trò chơi - người nghệ sĩ càng trốn chạy càng bị trùng
vây của các lớp sóng sinh thành tự do vẫy gọi. Trở về,
Sartre cũng đưa ra vấn đề dự tính của con người.
Đây là điểm gợi mở đi sâu vào tinh thần nhân vị mà triết
gia này gọi là dự tính đã tạo nên “niềm tin triết học” về
ý nghĩa của quá trình tham dự. Cũng theo Jaspers, chỉ có
con người tâm linh, con người khải nghiệm mới hội đủ
khả năng sản sinh ra con người tinh thần. Nó như một
sự thúc bách của đời sống bên trong để không ngừng
sáng tạo. Và đây cũng chính là lí do phái sinh những
chuỗi nhu cầu quan thiết trong quá trình định hình nhân
vị. Hiện sinh quan niệm con người là những nhân vị
luôn dùng dự phóng để cấu tạo nên lịch sử tính của
mình; là ưu tư về định mệnh. Theo triết học hiện sinh,
cần phải dự phần vào không gian và thời gian thì con
người mới thể hiện được ý thức phẩm tính trong cấu
trúc tinh thần nhân vị. Như vậy, hiện sinh quan niệm tự
do của con người trong diễn cảnh tham dự chỉ có thể
xuất hiện khi đặt vào hành vi nhân bản - hành vi ý thức
của cái siêu tôi. Và cũng từ đây, mĩ học hiện sinh đề cao
năng lực tinh thần nhân vị hay nói khác hơn đó là thời
điểm lên ngôi của thế giới nhân vị.
Tuy nhiên “tự do”, trong một số triết thuyết, không
đồng nghĩa với lựa chọn. Mà đó chỉ là sự lựa chọn hiện
tồn bản thể. Theo đó, trạng thái cô độc định mệnh của
nhân vị hiện sinh đã đẩy họ đến với tâm thức “âu lo”.
Con người nhất thiết phải là một thực thể tràn lấp vô
cùng tận những “âu lo”. Đến đây, mĩ học hiện sinh tham
dự vào đời sống nghệ thuật như là liều thuốc tinh thần
để đưa con người đến với trạng thái “cô liêu”
(Heidegger). Đó là sự phóng thích vô hạn độ trong suy
ngẫm của chủ thể về sự thống trị của nghệ thuật với tư
cách là kẻ dấn thân. Trở lên, đó chính là cái năng lực ý
thức trong tôi đang cải biến và tái tạo vận mệnh cho tinh
thần nhân vị khi chủ thể - tôi dùng tự do của tôi với
những phản kháng của nó.
5Theo Heidegger, “Người là dự phóng, và chỉ có dự
phóng là đáng kể, bởi vì dự phóng nói lên biện chứng của con
người” [12, tr.260].
với người hiện sinh, cái đẹp là giá trị nhân bản; là sinh
tồn; là hiện thể. Nên con người hiện sinh bằng cách này
hay cách khác đều quẫy đạp để đi, để khát khao được
dịch chuyển, hướng tới đích tự do.
Trong tình trạng đơn độc, nghệ thuật tri thông với
cái tuyệt vọng. Có thể suy ra tình trạng đơn độc của
người nghệ sĩ là chân dung của những kẻ sáng tạo ra các
phẩm chất của sinh tồn và tự do sinh tồn. Như một nhu
cầu tự thân, tiềm tại nơi bản thể hiện sinh đã kéo theo
cái lo khiếp của hoài nghi, cái hoài nghi của chủ nghĩa
phi lí. Nhận thức hoài nghi là góp phần nâng đỡ thế giới
Mĩ học hiện sinh quan tâm đến chủ nghĩa sinh tồn,
cái chủ thể của kinh nghiệm bản thân. Kết thành liên hệ
giữa cái chủ quan và cái siêu nghiệm, một trong những
hình thái tạo nên khuynh hướng sáng tác hiện sinh, hiện
sinh trên nền siêu thực. Đồng thời với sự tiên nghiệm
của nghệ thuật là khả năng dự phóng. Đó là năng lực
127
Nguyễn Thanh Trường
xác định vị thế sinh tồn trong sáng tạo nghệ thuật. Bởi
vậy, sự sinh tồn cần đặt trong mối quan hệ cộng sinh -
sinh tồn không bao giờ đứng tách thành khách thể độc
lập. Điều này cần hiểu con người theo ý nghĩa sinh tồn -
là sự đóng đinh trong nhiều nấc thang giá trị nhân vị. Từ
đó, chủ thể đích thực của ý nghĩa sinh tồn là sự (hoài
nghi thế giới, hoài nghi bản thể, hoài nghi để khẳng định
giá trị người - tâm thức người - hành vi - tâm thế người
- nhân vị). Khi người hiện sinh hoài nghi là khoảnh khắc
rơi vào đỉnh điểm của trạng thái âu lo và phản kháng.
Con người “lo khiếp” trước thực tế vì cảm nhận đầy đủ
sự phi lí của thực tại bất toàn. Con người bất khả tín,
không còn tin vào sự xác tín của chân lí đời sống.
mang vĩnh viễn. Và họ quan tâm đến quyền tự do nội
tâm của cá thể người, tự do tuyệt đỉnh trong sáng tạo.
Kể cả tự do trong tuyệt vọng cũng bắt gặp phạm trù
tham dự của con người, để đích thực tự do. Còn theo
Jaspers, sinh ra là người đã là tự do tuy nhiên đó không
phải là tự do con người tự ban cho mình mà là tự do
Thượng đế ban cho. Với nhà triết học hiện sinh này, con
người không có tự do tuyệt đối mà chỉ có tự do hữu hạn.
Có thể thấy bằng ý thức tham dự, các nhà hiện sinh cho
rằng với họ, nghệ thuật là ngôn ngữ liên hệ. Liên hệ
giữa hành vi tham dự và hệ quả tham dự.
2.4. “Sự nổi loạn trong nghệ thuật”
Siêu hình đứng bên trên tất cả các thực hành, như
Lão tử đã nói: Đạo bảo rằng, đẹp thì đẹp thật, nhưng
không thể ứng dụng; chính cái vĩ đại trong đạo là không
thể ứng dụng, bởi sự ứng dụng sẽ dẫn tới sự chia cắt
từng mảnh. Quan niệm này như tiền đề cho sự lí giải
một cách siêu hình rằng theo thời gian, những sáng tạo
của con người sẽ mất mát, sẽ thanh lọc và cần bổ sung.
Với tư duy này, chỉ thời gian siêu hình còn đọng lại trên
tất cả, trên con người, vĩnh viễn; cùng với thế giới, tinh
thần và ý nghĩa của thế giới là “logos”, cũng là hướng
đến sự tuyệt đối.
Heidegger và Sartre còn định vị trong cách nhận
diện về giới hạn của sự tự do là lí do tồn tại của nó.
Hiểu như vậy cũng có nghĩa các học giả này tìm kiếm
những giá trị âm bản kìm nén trong tinh thần, trong vận
mệnh nhân vị. Tuy nhiên, các giá trị chỉ được thỏa mãn,
hoàn kết khi “tôi” thúc bách trong tìm kiếm tự do; đến
với tự do vừa trong nỗ lực mời gọi của sức hút nhân vị,
vừa trong ý thức bùng nổ của cơn phản kháng nhân vị.
Như vậy chủ thể hiện sinh tự cấp cho mình cái quyền
năng kiểm chứng - là mang cái “vị thân” vào cuộc sống
như hành vi đẩy chủ thể vào giữa tha nhân. Những biến
động này đã gợi hứng cho va chạm của chủ thể sáng tạo
trong những cuộc dấn thân. Khởi từ trạng thức lưỡng lự
giữa khách quan tính và chủ quan tính. Trạng huống này
không ngoài cái khát khao của chủ thế tính muốn vượt
thoát mình. Hay đó còn là ham muốn tột cùng trong tạo
dựng nhân cách, xác định tinh thần nhân vị với phương
châm - tự giải phóng khỏi sự trói buộc của cái cực đoan,
phải tuyệt đối hóa trong giao diện khách quan hóa và
chủ quan hóa. Vì vậy để trả con người về vị trí đích thực
trong chân không vũ trụ, triết học hiện sinh đã đánh bật
con người đến tận “gốc rễ”. Cuộc đại phẫu không né
tránh, tất yếu tạo nên những luồng phản kháng tức thì,
nguyên do quá trình cảm nhận tự do được đẩy cao đến
thái quá (những giấc mơ quá trớn, những đề cao vượt
giới hạn năng lực người…). Song, hiệu ứng của sự phản
đề không hoàn toàn triệt tiêu phẩm chất nhân vị, những
thích ứng tự thân thuộc cơ chế xung năng trong năng lực
người đã nhanh chóng tạo sinh lực đẩy mang tính xác
quyết cho hành trình nhân vị lên ngôi.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa tự nhiên, cái
đẹp hiện thân của tính mỏng manh của mọi sự biểu hiện
cá thể, là quy luật định mệnh. Tuy nhiên cái đẹp không
tách rời khỏi ý nghĩa khách quan. Nó vừa mang tính
chất khải huyền vừa hiện thân của tinh thần. Cái đẹp
chân chính đòi hỏi tính tự do lớn hơn so với yếu tính
người; là biểu hiện của sự dung hợp các yếu tố của đời
sống xã hội cao hơn tính nguyên hợp cổ xưa trong văn
hóa nguyên thủy6. Trong số các học giả hiện sinh, Camus
6Xem quan niệm về ý nghĩa nghệ thuật của Soloviev
trong Soloviev (2011), Siêu lí tình yêu, Nxb Tri thức, H.
quan tâm hơn cả đến phạm trù cái đẹp. Trong quan niệm
siêu hình học, Camus cho rằng cái khổ hạnh dường như
tiêu biểu cho mĩ học của các trường phái Nga tạo thành
cái nghịch dị của quan niệm hiện thực. Trên cơ sở đó,
nghệ thuật chính là băng chuyền trải hiện cho quan điểm
của chủ nghĩa hiện sinh phi lí của Camus hướng tới cái
đẹp, dù đó là cái đẹp của sự nổi loạn đến “sứt mẻ’. Như
một sự triệt tiêu thái độ bất cần ngay trong bản lề mỗi
hữu thể người, thuyết nghệ thuật phi lí - sự nổi loạn
trong nghệ thuật đã nâng triết thuyết của Camus lên
Các nhà hiện sinh quan tâm đến dự phần của con
người trong nhiều vai. Thế giới bao quanh con người
theo quan niệm này là cõi hỗn mang dày đặc, cõi hỗn
128
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131
thành tấm thảm của những phản đề mới. Phản kháng để
mổ xẻ cái đẹp hay phản ngộ để tái tạo cái mới. Xuất
phát từ quan điểm phê phán, Camus đã đưa ra quan
niệm riêng của mình về thế giới bí ẩn của nghệ thuật.
Đối thoại với Niethze, Camus hi vọng vào sức mạnh của
cái đẹp có khả năng làm một cuộc vượt thoát tính cách
siêu việt, phá vỡ sự im lặng để được trình bày ra1, mà
theo các triết gia hiện sinh, đó là sự phản kháng, thách
thức cái hiện tồn trong “hố thẳm”.
“phản tư” các triết thuyết về nghệ thuật và vai trò của nó
với thế giới loài người. Theo đó, không có nghệ thuật
nào có thể tồn tại bên ngoài. Camus cần đến Hegel để
thực hiện ý đồ đoạn tuyệt với quan điểm mĩ học của
Marx, tuy nhiên đó là sự tương tác để chắt lọc phẩm
chất trong nhân vị. Xét trên góc độ “liên chủ thể”, quan
niệm cái đẹp của triết học hiện sinh là một gạch nối
không đứt đoạn đối với những quan niệm về cái đẹp của
các trường phái mĩ học khác, kể cả quan niệm cái đẹp
theo Hegel, Marx và một số nhà mĩ học bận tâm đến
bản thể của cái đẹp như một hành vi sống. Song ở góc
nhìn hiện sinh, một số thời điểm người hiện sinh cuốn
vào giới hạn những lựa chọn nghiệt ngã khi trực diện
với các phạm trù đối lập. Để người hiện sinh lựa chọn ý
thức về cái đẹp như một cứu cánh của tinh thần tự do; tự
do trong cô độc. Đối với mĩ học hiện sinh, không có cái
gọi là trác tuyệt mà cái trác tuyệt có tồn tại cũng chỉ là
nguyên nhân của những hình thái thẩm mĩ vị “nhân
sinh”. Tức là đặt ra những triển hạn của cái đẹp. Cho
một thực thể tự do “thông diễn”.
Với một số quan niệm của mĩ học hiện sinh, thì cái
đẹp chính là nền tảng đưa triết thuyết của chủ nghĩa
hình thức Nga đi vào con đường diệt vong. Và khước từ
chủ nghĩa hư vô, khước từ quan điểm nghệ thuật vị nghệ
thuật. Đó là bản chất của con người nổi loạn, là định
hình cho hành vi phản kháng, dù đó là phản kháng cầm
tù hay phản kháng để hướng về một thực thể bất toàn.
Chính Camus đã đặt ra những giả thuyết đối thoại với
Mĩ học Macxit trong việc tạo ra những nấc thang giá trị
mà theo ông, đó chỉ là những nấc thang cứu vớt tạm bợ
một quan niệm nghệ thuật đen tối của một kiếp nghệ
thuật trung cổ đã sớm lụi tàn. Quan niệm cực đoan này
của Camus lại khơi nguồn cho một cách tân tư tưởng mĩ
học, mà sau này một số triết gia hiện sinh gọi là sự hòa
giải bản thể của loài người để quyết giữ lấy những giá
trị ý nghĩa của sự sinh tồn, đúng như quyền năng của tạo
hóa là khai sinh ra loài người, thậm chí là hôn phối giữa
loài người và tự nhiên dựa trên thuyết nhân vị mà chúng
ta vẫn quen gọi là nhân học văn hóa. Sự hạn định trong
mỗi chủ thể luôn tồn tại một môi trường tự nhiên ở
trong nó. Sự thích nghi hay chối bỏ trong cuộc đấu tranh
Hiểu như Sartre, cái đẹp trong nghệ thuật còn như là
hình thái biến thể của sự “tự lừa dối”. Và theo Sartre, mĩ
học hiện sinh chính là cái nhìn đông cứng về quan hệ
giữa đối tượng khách quan với thế giới hư vô trong
nghệ thuật. Khởi đi từ tiền đề về cuộc sống của các nhà
hiện sinh, là con đường định hướng cho những sáng tạo
8Hiểu theo quan niệm về khách thể của Jacques theys:
khách thể không chỉ là những yếu tố riêng biệt, những cá thể
sống mà là các tổng thể “các khách thể” tự nhiên ở tất cả các
cấp độ [3, tr.27].
9Hệ sinh thái được hiểu là “một hệ thống mở (…) các
sinh thể (các cơ thể tự dưỡng, các cơ thể dị dưỡng hay tiêu
thụ, các cơ thể họa sinh…), những vật chất không sống; những
chất có nguồn gốc sống và cần cho sự sống” [1, tr.7].
7“Trình bày ra”, được hiểu theo nghĩa rộng là giải phóng
- là phương tiện phóng thích cái vô hạn định cho năng lực tinh
thần chủ thể.
chân chính10. Và đặt ra vấn đề “chủ nghĩa hiện sinh là
chủ nghĩa nhân bản”. Ngay cả Kant cũng quan niệm cho
lập thuyết này trong cái gọi là đồng chất: cái phi hiện
thực vượt lên hiện thực mới là cơ sở tạo thành khoái
cảm thẩm mĩ. Vậy tất yếu, cái ý đồ nghệ thuật và đối
tượng được miêu tả đều hòa vào nhau thành một thứ
thực tại mới còn sinh động hơn cái hiện thực nguyên
bản. Bản chất hiện hữu chỉ là cái bóng của sự hiện tồn.
Vì vậy cái đẹp trong quan niệm hiện sinh là thông diễn
vào chiều sâu để tìm kiếm bản thể; là “lột xác” để vượt
tồn tại với khách thể8. Hay nói cách khác quy chiếu
trong hệ sinh thái - nhân văn9, chủ thể cũng là một đơn
vị sống trong các khách thể (hệ sinh thái). Như vậy,
quan niệm của con người hiện sinh về ý nghĩa của nhân
vị - ý nghĩa tồn vong của ý thức người hiện hữu trong
mối quan hệ với thiên nhiên, với môi trường qua “kinh
nghiệm của kẻ khác” mà Sartre gọi là lăng kính mổ xẻ
của tha nhân.
Với thái độ xác tín về cái đẹp trong tinh thần nhân
vị, một số triết gia hiện sinh đi theo lối phản kháng đã
129
Nguyễn Thanh Trường
thoát. Jaspers cho rằng nghệ thuật phục vụ tôn giáo,
trung thành với tôn giáo. Nghệ thuật là “hành động sáng
tạo cuối cùng ở ranh giới của cái lí trí”. Cái bên trong
của người nghệ sĩ xô đẩy anh ta đến với cái tự do vô hạn
của nghệ thuật. Đó là cái không ranh giới để thẩm định
hành vi sáng tạo của người nghệ sĩ ngang bằng với trò
chơi “hiện sinh”. Huyền thoại nghệ thuật trong quan
niệm nghệ thuật. Một số triết gia hiện sinh tôn sùng
Gide đã phán xét về giá trị “tội lỗi” của nghệ thuật và
“kẻ mang tội” của người sinh thành nghệ thuật. Theo
đó, nghệ thuật “là một tội lỗi mà người ta không thể nào
không phạm”. Bởi vì chức năng của nghệ thuật là lừa
dối và tự lừa dối; kết thúc bằng sự quy định mục đích
nhân đạo cao cả của nghệ thuật.
hiện sinh đã đóng dấu cho bản mệnh cấu trúc tinh thần
vị nhân là sống trong ý thức, trong đối diện với nghiệt
ngã, với “hố thẳm” và “hư vô”. Trong cái thế giới huyền
nhiệm đó, con người có thể thành thánh và cũng có thể
thành quỷ; có thể thắng dục vọng và cũng có thể là nô lệ
của dục vọng. Sự cộng hưởng mang tính đa ngã trong
tinh thần nhân vị đã minh nhiên cho hành vi ý thức của
chủ thể tính. Trở về, cái bất biến thuộc bản chất đã tạo
sinh dự phóng và cả những thách thức trong tư thế
người nghệ sĩ hiện sinh - khi xem nghệ thuật là cứu
cánh. Với quan niệm hành vi sáng tạo nghệ thuật như
những thăng hoa tuyệt đỉnh trong cấu trúc của “trò chơi”
hiện sinh, mĩ học hiện sinh đã đặt ra cho mình vinh dự
đi vào tìm kiếm bản mệnh giữa nghệ thuật - đời sống -
con người. Thực chất là một cuộc săn đuổi cái đẹp ngay
trong những giá trị nhân vị. Trong đó có cả những cái
phi lí, nổi loạn. Để làm thức dậy một khát vọng dấn thân
cho một hình hài nghệ thuật hiện hữu, sinh tồn.
Heidegger quan niệm về nghệ thuật như là hình thái
của động cơ “tín hiệu sáng tạo”. Nhà triết học này đã
loại trừ quan điểm mĩ học của các nhà triết học kinh
điển thế kỉ 18 - 19, khi cho rằng ý nghĩa, mục đích cuối
cùng của nghệ thuật là tự do. Heidegger đã cấp cho nó ý
nghĩa tự do - phục dựng giá trị tuyệt đối trong mỗi bản
mệnh. Theo đó, sứ mạng của nghệ thuật là xâm nhập
vào cái trống rỗng và cái phi nghĩa lí của cuộc sống để
đạt đến sự khai phát tự nhiên của bản thân tồn tại11. Như
vậy, quan niệm về người nghệ sĩ của các nhà hiện sinh
là cuộc chơi chiếm lĩnh thế giới của một người sống mê,
cơn mê của sáng tạo.
Tài liệu tham khảo
[1] Trần Lê Bảo (chủ biên) (2001), Văn hóa sinh thái
nhân văn, Nxb Văn hóa thông tin, H.
[2] Teilhard de Chardin (2014), Hiện tượng con
người, Nxb Tri thức, H.
[3] Oliver Coutard, Jean - Pierre LéVy (2012), Sinh
thái học đô thị, Nxb Thế giới, H.
[4] Denis Diderot (2013), Từ mỹ học đến các loại
hình nghệ thuật, Nxb Tri thức, H.
10“Có một lực tàn phá chặt chẽ liên kết với cuộc sống của ta
đôi khi ta không thể phân biệt nó ra nổi, nó lôi kéo chúng ta luôn
để làm sao ta đánh mất cuộc sống đích thực - có một lực khác lại
thôi thúc chúng ta phải làm hòa với chính ta” [7, tr.95-96].
11Với các nhà hiện sinh chủ nghĩa theo thuyết cải hóa cá
nhân, trong đó có Kierkégaard, với quan điểm của một nghệ sĩ
bị sự giải trí mê hoặc đã cho rằng sự giải trí của người nghệ sĩ
là sự say sưa tìm kiếm những cái “hay hay” ở đời; là giai đoạn
thẩm mĩ, là giai đoạn đầu tiên trong cuộc sống có tính chất
biện chứng của một hiện sinh thể” [7].
[5] Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học hiện sinh, Nxb
Văn học, H.
[6] Huisman (2004), Mĩ học, Nxb Văn hóa thông tin, H.
[7] E. Mounier (1970), Những chủ đề triết hiện sinh,
Nhị Nùng xuất bản.
[8] Krishnamurti (2007), Đường vào hiện sinh, Nxb
Lao động, H.
[9] Krishnamurti (2005), Krishnamurti cuộc đời và tư
tưởng, Nxb Văn học, H.
[10] Vladimir Soloviev (2011), Siêu lý tình yêu, Nxb
Tri thức, H.
[11] Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lí luận -
phê bình văn học thế giới thể kỉ XX (tập 1), Nxb
Giáo dục, H.
[12] Lê Thành Trị (1974), Hiện tượng luận về hiện
sinh, Trung tâm học liệu xuất bản.
3. Kết luận
Mĩ học hiện sinh có sứ mệnh đưa ra một cái nhìn
khác về bản chất người. Con người hành trình đi kiếm
tìm nhân vị và khám phá năng lực ý thức nhân vị, cũng
là hướng tới khẳng định giá trị nhân vị. Theo đó, mĩ học
EXISTENTIAL AESTHETICS AND THE RISE OF PERSONALISM
Abstract: In view of the "migration" nature of the primitive man, existentialism regards humans as "immigrants" into a strange
place to find values in a living space. The focus of existentialism is to determine an existential subject - the performer of human acts.
130
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 5, số 4A(2015), 123-131
This is the resonance of personalist values to build up the haunting charm of existential aesthetics in the rise of personalism. This
means that from the perspective of existential aesthetics, people are engulfed in a reality whirlpool. Existential aesthetics is much
concerned with the role of humans as participants in the survival and death significance of each entity and in art rebellion. All these
form art functions which are deception and self - deception, resulting in the noble humanitarian purpose of art. This is also the
humanistic values of true art.
Key words: existential aesthetics; personalism; art; existentialism; subject.
131
Bạn đang xem tài liệu "Mĩ học hiện sinh và sự lên ngôi của nhân vị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- mi_hoc_hien_sinh_va_su_len_ngoi_cua_nhan_vi.pdf