Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
LIÊN KẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP
CHẾ BIẾN CHẾ TẠO VIỆT NAM
LINKS FOR SUSTAINABLE DEVELOPMENT OF VIETNAM'S
MANUFACTURING INDUSTRY
Ngày nhận bài: 01/09/2020
Ngày chấp nhận đăng: 28/09/2020
Vũ Thị Thanh Huyền
TÓM TẮT
Công nghiệp chế biến chế tạo được coi là ngành tạo động lực chủ yếu, có đóng góp lớn cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua thông qua thúc đẩy xuất khẩu, thu hút
FDI và tạo việc làm. Bên cạnh đó, quá trình phát triển bền vững của ngành còn tồn tại một số hạn
chế như: sản xuất phụ thuộc lớn vào nhập khẩu, quá trình sản xuất, chế biến gây ra nhiều tác
động xấu đến vấn đề bền vững về môi trường, … Để thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành,
thúc đẩy liên kết trong sản xuất, thương mại ngành CN CBCT được coi là giải pháp cơ bản, quan
trọng. Nội dung bài viết tập trung vào phân tích thực trạng liên kết trong phát triển CN CBCT Việt
Nam thời gian vừa qua, từ đó, đưa ra những đánh giá về ảnh hưởng của liên kết đến phát triển
bền vững ngành CN CBCT, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy phát triển bền vững ngành CN
CBCT trong những năm tiếp theo.
Từ khóa: Công nghiệp chế biến chế tạo (CN CBCT), liên kết, phát triển bền vững.
ABSTRACT
Manufacturing and processing industry is considered to be the major driving force, making a great
contribution to Vietnam's economic growth and development in recent years, through export
promotion, FDI attraction and job creation. In addition, the sustainable development of the industry
still has some limitations such as: production depends heavily on imports, the production process
causes many negative impacts on environmental sustainability, ... In order to promote the
sustainable development of the industry, promoting linkages in production and commerce in the
industrial sector is considered as a basic and important solution. The content of the article focuses
on analyzing the current state of linkages in the development of Vietnam's manufacturing and
processing industry in the past time, from there, giving assessment on the impact of links to the
sustainable development of the processing and manufacturing industry, proposing a number of
solutions to promote the sustainable development of the industry in the following years.
Keywords: Manufacturing and processing industry, linkages, sustainable development.
khẩu và thu hút FDI, ... nhưng ngành CN
1. Đặt vấn đề
CBCT Việt Nam thời gian qua vẫn trong tình
Liên kết trong sản xuất được coi là một
trạng giá trị gia tăng thấp, sự tham gia thực
trong những nhân tố quan trọng để giảm chi
chất của các DN nội địa Việt nam vẫn còn rất
phí sản xuất, nâng cao giá trị gia tăng cho
hạn chế. Những điều này đặt ra vấn đề cần
ngành/ sản phẩm. Đặc biệt, đối với các ngành
xem xét một cách nghiêm túc về thực trạng
sản xuất CN chế biến, chế tạo, liên kết trong
liên kết trong hoạt động sản xuất CN CBCT
sản xuất có ý nghĩa quan trọng trong đổi mới
Việt Nam thời gian qua, để đưa ra những giải
công nghệ, đổi mới tổ chức hoạt động sản
pháp cần thiết để thúc đẩy sự phát triển bền
xuất, từ đó thúc đẩy việc tăng năng suất, hiệu
vững của ngành CN CBCT Việt Nam những
quả cho ngành sản xuất và cho nền kinh tế.
năm tiếp theo.
Mặc dù được đánh giá là ngành có tốc độ
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao, chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất
Vũ Thị Thanh Huyền, Trường Đại học Thương mại
13
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
xuất hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc bán cho
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
hãng sản xuất khác. Theo nghĩa rộng, liên kết
công nghiệp bao gồm tất cả các hoạt động
hợp tác, bao gồm các luồng vật liệu và thông
tin, giữa các yếu tố riêng biệt và các chức
năng của hệ thống sản xuất. Liên kết sản xuất
là một sự kết hợp các sản phẩm chảy từ các
nhà máy, đến các nhà bán lẻ, bán buôn, công
chúng, cũng như các hãng sản xuất khác.
(Dobson, 1984))
2.1. Liên kết và vai trò của liên kết trong
phát triển bền vững công nghiệp CBCT
2.1.1. Khái niệm Liên kết
Theo (Ký and Duy, 2012) , liên kết kinh tế
là hình thức hợp tác và phối hợp thường
xuyên các hoạt động do các chủ thể kinh tế
tự nguyện tiến hành để cùng đề ra và thực
hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan
đến công việc sản xuất, kinh doanh của các
bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Mục
tiêu của liên kết kinh tế là tạo ra mối quan hệ
kinh tế ổn định thông qua các hợp đồng kinh
tế hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành
phân công sản xuất chuyên môn hóa, khai
thác tốt các tiềm năng của từng đơn vị tham
gia liên kết. Còn theo (Thanh, 2009), liên kết
kinh tế là một xu thế tất yếu của xã hội phát
triển, là một trong những hình thức hợp tác ở
trình độ cao của con người trong quá trình
sản xuất, kinh doanh. Ở cấp độ ngành, doanh
nghiệp, liên kết kinh tế bao gồm nhiều cấp độ
và loại hình đa dạng như: liên kết dọc, liên
kết nghiêng, liên kết hình sao, doanh nghiệp
liên doanh, tập đoàn kinh doanh. Các quan
điểm tương tự cũng được thể hiện trong một
số nghiên cứu của (Huân, 2012), (Tùng,
2018), …
Liên kết công nghiệp diễn ra giữa các
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp. Liên kết
công nghiệp có thể diễn ra theo chiều dọc và
theo chiều ngang. Trong đó, liên kết dọc diễn
ra theo dây chuyền sản xuất môt loại sản
phẩm, từ khâu cung cấp nguyên liệu, trang
thiết bị đến khâu cung ứng ra thị trường. Các
doanh nghiệp tham gia liên kết dọc nhằm tạo
ra chuỗi giá trị giúp nâng cao năng lực cạnh
tranh của cả một ngành công nghiệp. Liên
kết dọc bao gồm liên kết phía trước (forward
linkages), còn gọi là liên kết thượng du, khi
sản phẩm của doanh nghiệp này là đầu vào
của doanh nghiệp khác, và liên kết sau
(backward linkages) hay liên kết hạ du trong
khâu lưu thông, tiêu thụ. Liên kết ngang diễn
ra khi một số doanh nghiệp cùng hợp tác để
nhận thầu môt gói đặt hàng lớn vượt khả
năng của một doanh nghiệp.(Liêm)
Như vậy, khái niệm liên kết công nghiệp
có những cách hiểu khác nhau, nhưng ít nhất,
có thể được nhìn thấy theo cách sau: Thứ
nhất, liên kết quá trình. Điều này được xem
là để mô tả sự chuyển động của hàng hóa
giữa các công ty khác nhau như các giai đoạn
trong quá trình sản xuất. Thứ hai là một liên
kết dịch vụ; và điều này đề cập đến việc cung
cấp máy móc thiết bị và các bộ phận phụ trợ
cũng như các yêu cầu sửa chữa và bảo trì khi
được cung cấp bởi các công ty riêng biệt.
Thứ ba, liên kết tiếp thị liên quan đến những
mối quan hệ với các công ty khác hỗ trợ việc
bán và phân phối hàng hóa; Thứ tư, các liên
kết tài chính và thương mại mô tả mối quan
Theo (World Bank, 2017), quá trình liên
kết được điều chỉnh bởi mối quan hệ kinh tế
giữa các tập đoàn đa quốc gia (MNE)/ các
công ty hàng đầu với vai trò là người mua, và
các công ty trong nước là các nhà cung cấp
trong một chuỗi cung ứng nhất định.
Khái niệm liên kết công nghiệp: Theo
nghĩa hẹp, có thể đưa ra một định nghĩa giới
hạn về liên kết giữa các dòng cung ứng,
nguyên liệu thô, hàng hóa bán thành phẩm và
linh phụ kiện hoặc hàng hóa thành phẩm;
giữa các mối quan tâm thương mại. Nói cách
khác, liên kết công nghiệp có thể xảy ra khi
một hãng sản xuất mua các đầu vào để sản
14
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
hệ với các dịch vụ tài chính và tư vấn như
ngân hàng, công ty bảo hiểm và môi giới
chứng khoán...
sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế
hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng
đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai.
Ba trụ cột PTBV được xác định là: bền vững
về mặt kinh tế, bền vững về mặt xã hội, , bền
vững về sinh thái môi trường.
Trong phạm vi bài viết này, tác giả sẽ tiếp
cận liên kết theo nghĩa hẹp, chính là sự liên
kết diễn ra trong quá trình sản xuất, mô tả sự
chuyển động của các hàng hóa giữa các công
ty khác nhau trong các giai đoạn của quá
trình sản xuất và quá trình hình thành, phát
triển các vùng, khu, cụm liên kết.
Phát triển bền vững công nghiệp CBCT:
Khái niệm PTBVCN được UNIDO tiếp
tục phát triển như là: “Những mô hình
(pattern) công nghiệp hoá hướng vào các lợi
ích về kinh tế và xã hội của thế hệ hiện tại và
các thế hệ sau mà không làm tổn hại tới quá
trình sinh thái nền”. Có 3 tiêu chí quan trọng
của quá trình PTBVCN: Bảo vệ năng lực
sinh thái; Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
con người, nguyên vật liệu và năng lượng;
Công bằng trong chia sẻ gánh nặng về môi
trường, xã hội và các thành quả công nghiệp
hoá.
Như vậy, nội dung liên kết sẽ được thể
hiện qua các khía cạnh như sau:
Thứ nhất, liên kết trong quá trình sản
xuất giữa doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
với các doanh nghiệp lắp ráp, được thể hiện
thông qua chỉ tiêu năng lực cung ứng của
doanh nghiệp trong nước hay tỷ lệ nội địa
hóa. Nếu năng lực đáp ứng trong nước càng
lớn hay tỷ lệ nội địa hóa càng cao thì ngành
CN CBCT càng phát triển, nâng cao được giá
trị gia tăng và có đóng góp lớn vào tăng
trưởng kinh tế.
Phát triển bền vững công nghiệp là phát
triển một cách ổn định, lâu dài trên cơ sở
đảm bảo cân bằng giữa tăng trưởng, giải
quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường.(Bắc, 2020).
Thứ hai, sự hình thành và phát triển
của cụm, khu công nghiệp. Sự phát triển của
các cụm ngành công nghiệp sẽ giúp các
doanh nghiệp CN CBCT giảm chi phí sản
xuất, tăng cường chuyên môn hóa, tăng sức
mạnh thị trường.
Các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
là những ngành tham gia vào việc chuyển đổi
hàng hóa, vật liệu hoặc chất thành sản phẩm
mới. Quá trình biến đổi có thể là vật lý, hóa
học hoặc cơ học. Các nhà sản xuất thường có
cơ sở sản xuất, xưởng sản xuất hoặc nhà máy
sản xuất hàng hóa cho tiêu dùng. Máy móc
và thiết bị thường được sử dụng trong quá
trình sản xuất (Levinson, 2018). Từ đó, có
thể định nghĩa phát triển bền vững ngành CN
CBCT là sự phát triển các ngành sản xuất,
chế biến công nghiệp một cách ổn định, lâu
dài, đảm bảo sự bền vững cả 3 khía cạnh:
kinh tế, xã hội và môi trường.
Thứ ba, sự liên kết giữa các doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp, các Hiệp hội,
trung tâm hỗ trợ DN, cơ quan Quản lý Nhà
nước. Sự liên kết này càng chặt chẽ thì các
doanh nghiệp CN CBCT càng có điều kiện
phát triển nhanh và mạnh mẽ do nắm bắt
được kịp thời các thông tin chính sách, cũng
như sự hỗ trợ từ phía Nhà nước để phát triển
sản xuất và mở rộng thị trường.
2.1.2. Phát triển bền vững công nghiệp
Phát triển bền vững: năm 1992, Hội nghị
thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của
Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-
rô đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế
kỷ XXI, theo đó, PTBV được xác định là: Một
Nội dung của phát triển bền vững công
nghiệp CBCT bao gồm:
Thứ nhất, duy trì tăng trưởng công
nghiệp CBCT nhanh và ổn định trong dài hạn;
15
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
tăng trưởng việc làm, đặc biệt là các doanh
Thứ hai, thực hiện quá trình công
nghiệp nhỏ, vừa và nhỏ. Các nước phát triển
hoặc đang phát triển công nghiệp có chính
sách riêng để phát triển cụm công nghiệp.
nghiệp hóa theo hướng sạch, thân thiện với
môi trường, tích cực ngăn ngừa và xử lý ô
nhiễm công nghiệp;
Thứ ba, tổ chức và phân bổ sản xuất
Hai là, thúc đẩy tăng lợi thế cạnh tranh.
Theo (Tài, 2013) , vai trò của liên kết trong
hoạt động sản xuất CN và lý thuyết về cụm
CN được phát triển từ lý thuyết về lợi thế
cạnh tranh quốc gia của Michael Porter
(1990). Lý thuyết này đã chỉ ra rằng, mỗi
cụm liên kết ngành giống như chuỗi giá trị
trong sản xuất hàng hóa và dịch vụ, trong đó,
các ngành công nghiệp được liên kết với
nhau bởi dòng hàng hóa và dịch vụ. Các
CLKN được hình thành từ sự tập trung cao
độ các doanh nghiệp trong một số ngành và
lĩnh vực có liên quan khá chặt chẽ với nhau,
trong đó có liên quan chặt chẽ đến vai trò của
các doanh nghiệp hỗ trợ. Một CLKN được
hình thành sẽ tạo ra những yếu tố nền tảng
nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua một
số thành tố là: giúp DN có cơ hội tăng năng
suất; thúc đẩy quá trình sáng tạo và đổi mới;
tác động quan trọng đến việc hình thành các
DN mới trong ngành hoặc trong các ngành
có liên quan. Tương tự, theo (Ngọc and
Trang, 2011), CLKN tác động đến cạnh
tranh và tạo ra lợi thế cạnh tranh theo 3 cách:
Tăng năng suất của các DN nằm trong cụm
liên kết thông qua cải thiện khả năng tiếp cận
nhà cung cấp, kỹ năng và thông tin chuyên
môn; điều chỉnh hướng đi và tốc độ của sáng
tạo đến tăng trưởng năng suất trong tương
lai; và thúc đẩy việc hình thành những cơ sở
kinh doanh mới. Theo (Thành), việc phát
triển CLKN tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh
(thông qua việc giảm giá thành sản xuất, chia
sẻ thông tin và các nguồn lực khác), đổi mới
(công nghệ, quản lý,…), phát triển và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế địa phương. Mối liên kết
có thể được thể hiện trong quan hệ giữa các
DN thuộc các thành phần kinh tế trong các
ngành và quốc tế; giữa các DN có vốn đầu tư
nước ngoài và DN trong nước; giữa các DN
công nghiệp CBCT một cách hợp lý theo
hướng phát triển tập trung, tạo các liên kết
công nghiệp bền vững, di dời các cơ sở gây ô
nhiễm nghiêm trọng.
Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
công nghiệp CBCT. Căn cứ vào khái niệm và
nội dung của phát triển bền vững và phát
triển bền vững công nghiệp, tác giả đề xuất
một số tiêu chí cơ bản đo lường phát triển
bền vững công nghiệp CBCT bao gồm:
Thứ nhất, bền vững về kinh tế: các chỉ
tiêu đo lường bao gồm: tăng trưởng sản
lượng đầu ra của ngành và tỷ trọng đóng góp
vào GDP; chuyển dịch cơ cấu ngành; kim
ngạch xuất khẩu; thu hút FDI; mức độ liên
kết và tỷ lệ nội địa hóa.
Thứ hai, bền vững về xã hội: bao gồm số
lượng việc làm và chất lượng lao động CN
CBCT; năng suất lao động;
Thứ ba, bền vững về môi trường: mức độ
gây ô nhiễm môi trường do các hoạt động
sản xuất công nghiệp CBCT gây ra.
2.1.3. Vai trò của liên kết trong sản xuất và
phát triển công nghiệp CBCT theo hướng
bền vững
Do ý nghĩa quan trọng của vấn đề liên kết
trong hoạt động sản xuất của các ngành công
nghiệp trong nền kinh tế, đã có một số
nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này trên
thế giới và tại Việt Nam.
Thứ nhất, về mặt kinh tế:
Một là, thúc đẩy tăng trưởng, tăng thu
nhập và tạo việc làm. Theo (Abdin, 2016),
phát triển cụm được coi là một công cụ hiệu
quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các cụm
công nghiệp được coi là một trong những cơ
chế hiệu quả nhất để thúc đẩy thu nhập và
16
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
lớn và DNNVV trong các KCN, CCN; giữa
tin, kiến thức; là những tiền đề cho việc cải
tiến, đổi mới trong sản xuất và giảm chi phí
giao dịch.
các DN và cơ quan QLNN, cơ quan hoạch
định chính sách; giữa các DN sản xuất với
các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu, các hiệp
hội ngành hàng; ...
Thứ ba, về mặt môi trường, sự phân bổ
hợp lý giữa các khu, cụm công nghiệp, sự
liên kết chặt chẽ giữa các DN trong quá trình
sản xuất sẽ là thuận lợi cho việc thực hiện
các mục tiêu, chính sách bảo vệ môi trường,
thúc đẩy quá trình đổi mới công nghệ, đổi
mới quy trình sản xuất một cách đồng nhất
trong phạm vi toàn ngành công nghiệp, từ đó,
thúc đẩy công nghiệp hóa theo hướng sạch,
bền vững.
Ba là, tạo điều kiện tham gia các chuỗi
cung ứng, chuỗi sản xuất toàn cầu. Theo
nghiên cứu của (Colovic and Lamotte, 2014),
các cụm có thể tạo thuận lợi cho việc quốc tế
hóa các liên doanh quốc tế mới bằng cách
cung cấp các nguồn lực, cơ hội kết nối mạng
và tính hợp pháp để giúp họ tiếp cận thị
trường toàn cầu và bằng cách tăng tốc độ
quốc tế hóa;
Như vậy, liên kết có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc thúc đẩy các khía cạnh bền
vững trong phát triển công nghiệp. Do đó, để
thúc đẩy phát triển bền vững CN CBCT thì
một trong những giải pháp cơ bản, quan
trọng là cần thúc đẩy liên kết. Vì vậy, ở bài
viết này, tác giả sẽ tiếp cận, làm rõ các vai
trò của liên kết với phát triển bền vững
ngành CN CBCT của Việt Nam.
Thứ hai, về mặt xã hội:
Một là, tạo lợi thế cho các DNNVV, theo
nghiên cứu của (Nadvi and Barrientos,
2004), các cụm công nghiệp, hoặc sự tập
trung địa lý của các doanh nghiệp và các đơn
vị phụ trợ tham gia vào cùng lĩnh vực, có thể
tạo ra nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp
nhỏ. Mô hình cụm nhấn mạnh mối liên kết
nội bộ, nhờ đó mà các lợi ích của cụm được
tăng cường bởi sự hợp tác công ty địa
phương, các tổ chức địa phương và vốn xã
hội địa phương. Bằng chứng ngày càng tăng
về các cụm doanh nghiệp nhỏ ở các nước
đang phát triển cạnh tranh trên thị trường địa
phương và toàn cầu đã thúc đẩy phần lớn sự
nhiệt tình của chính sách trong việc thúc đẩy
các cụm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp định tính bao gồm các
phương pháp như thống kê mô tả, so sánh,
đối chiếu ... được sử dụng để phân tích khái
quát thực trạng hoạt động sản xuất, kinh
doanh của ngành CN CBCT Việt Nam; khái
quát tình hình liên kết giữa DN CNHT với
DN chính; từ đó, đưa ra các đánh giá về các
ảnh hưởng của thực trạng liên kết đến phát
triển bền vững ngành CN CBCT Việt Nam.
Hai là, tăng cường tính kinh tế địa
phương. Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Sơn
(Sơn, 2015) về cụm công nghiệp đã chỉ ra
rằng, với sự tập trung về mặt địa lý của các
công ty và các tổ chức có liên quan, liên kết
với nhau trong một lĩnh vực cụ thể, góp phần
tăng cường tính kinh tế địa phương và đô thị
hóa, tạo điều kiện cho tái cơ cấu công
nghiệp, cũng như khuyến khích liên kết giữa
các doanh nghiệp, cho phép các nguồn lực
công đầu tư tập trung hơn. Mặt khác, điều
này cũng tạo cơ hội cho việc tích tụ thông
Phương pháp định lượng sử dụng phương
pháp bảng cân đối liên ngành (I – O) của
Tổng cục Thống kê 2012 và 2016 để tính
toán các hệ số liên kết ngược và liên kết xuôi
của ngành CN CBCT và hệ số lan tỏa đến nhập
khẩu (NK), từ đó, làm rõ các tác động liên kết
của ngành CN CBCT. Trong đó, Bảng I – O
2012 được giả định là đại diện cho biến động
của nền kinh tế trong giai đoạn 2011 – 2015, I
17
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
n
– O 2016 đại diện cho giai đoạn 2016 – 2020.
ngành j;
(cộng theo cột
O(mul)
j
ij
164 mã ngành sản phẩm được nhóm lại thành
18 nhóm ngành để tính toán và so sánh hệ số
liên kết của ngành CN CBCT so với các ngành
còn lại trong nền kinh tế.
i1
của ma trận nghịch đảo Leontief).
Những ngành có chỉ tiêu liên kết ngược
lớn hơn 1 sẽ được xem là ngành có sức lan
tỏa lớn. Một sự tăng hoặc giảm về cầu cuối
cùng đối với sản phẩm của các ngành này sẽ
ảnh hưởng đáng kể đến các ngành khác và cả
nền kinh tế.
2.2.2. Quan hệ cơ bản:
(Ad Am ).X Y d Y m M X
Ad .X Y d Am .X Y m M X (1)
Trong đó:
- Liên kết xuôi:
Ad.X là véc tơ chi phí trung gian sản
phẩm được sản xuất ra trong nước;
Am.X là véc tơ chi phí trung gian là sản
phẩm nhập khẩu;
Yd là véc tơ nhu cầu cuối cùng sản phẩm
được sản xuất trong nước;
Ym là véc tơ nhu cầu cuối cùng sản phẩm
nhập khẩu (bao gồm nhu cầu tiêu dùng cuối
cùng của cá nhân, tiêu dùng cuối cùng của
Nhà nước, tích lũy tài sản và xuất khẩu).
Đo mức độ quan trọng của một ngành như
là nguồn cung sản phẩm vật chất và dịch vụ
cho toàn bộ hệ thống sản xuất. Mối liên kết
này được xem như độ nhậy của nền kinh tế
và được đo lường bằng tổng các phần tử theo
hàng của ma trận nghịch đảo Leontief so với
mức trung bình của toàn bộ hệ thống. Chỉ số
liên kết xuôi của một ngành được tính như
FLi
n
sau:
i
1
FL
n
i
i1
Nhu cầu nhập khẩu được chia thành 2
mục đích: cho sản xuất (Am.X) và cho tiêu
Trong đó: FLi là tổng giá trị mà ngành i
cung ứng cho các ngành khác trong toàn hệ
thống sản xuất của nền kinh tế khi giá trị cầu
cuối cùng ở mỗi ngành này tăng 1 đơn vị,
Am .X Y m M
dùng cuối cùng (Ym) hay:
,
Khi đó, phương trình (1) được viết lại là:
Ad .X Y d X
X (I Ad )1.Y d (2)
n
(Cộng theo hàng của ma trận
FL
i
ij
j1
Như vậy, quan hệ (2) trở về quan hệ
chuẩn của Leontief ở dạng phi cạnh tranh,
ma trận nghịch đảo Leontief (I – Ad)-1 phản
ánh tốt hơn rất nhiều về độ nhạy và độ lan
tỏa của các ngành trong nền kinh tế.
Leontief);
i chính là chỉ số liên kết xuôi
của ngành i. Những ngành có
lớn hơn 1
i
được xem là những ngành có độ nhạy cao
(tức là vai trò quan trọng với tư cách là nguồn
cung ứng đầu vào cho nền kinh tế). Những
ngành này cần được đảm bảo phát triển ổn định
để phục vụ cho sự phát triển các ngành khác
của nền kinh tế.
- Liên kết ngược:
Để xem xét sức lan tỏa tương đối của một
ngành trong nền kinh tế người ta so nhân tử
sản lượng của ngành này với giá trị trung
bình của nhân tử sản lượng của tất cả các
ngành trong nền kinh tế theo công thức sau:
Lan tỏa tới nhập khẩu
Trong dạng I/O phi cạnh tranh, ta có mối
quan hệ: (Ad + Am).X + Yd + Ym -M= X
O(mul) j
n
; Trong đó: µj được gọi là
j
1
Mặt khác quan hệ này cũng có thể được
viết: X- Am.X= Ad.X +Cd +Id+E+Cm+Im-
M=TDD -MP
O(mul)
n
i
i1
liên kết ngược (backward linkages) của
18
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
Trong đó tổng cầu trong nước (bao gồm
3.1. Khái quát thực trạng phát triển bền
vững ngành CN CBCT Việt Nam
tiêu dùng trung gian, tiêu dùng cuối cùng,
đầu tư và xuất khẩu) TDD = Ad.X +Cd
+Id+E; ta có:
3.1.1. Bền vững về kinh tế:
Trong những năm trở lại đây, CN CBCT
luôn là ngành đóng vai trò chủ đạo trong tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam, là ngành có
đóng góp hàng đầu trong tốc độ tăng trưởng
kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu và thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong giai đoạn
2015 – 2019, ngành CN CBCT chiếm bình
quân 15,15% GDP có xu hướng cao hơn so
với giai đoạn 2010 – 2014 (13,22%) nhưng
thấp hơn giai đoạn 2005 – 2010 (bình quân
17,9% GDP), tăng từ 13,69 % năm 2015 lên
16,48 % năm 2018. Khi xem xét về tốc độ
tăng trưởng của các ngành, CN CBCT đang
là ngành chiếm ưu thế. Trong 5 năm gần đây,
ngành CN CBCT có tốc độ tăng trưởng cao
trong nền kinh tế với mức tăng bình quân đạt
12,23 %/ năm, đứng vị trí thứ nhất. Điều này
cho thấy vai trò tích cực của ngành CN
CBCT đóng góp cho TTKT của Việt Nam.
X = (I-Am)-1.(TDD- Mp)
Hoặc:
X = (I-Am)-1.(TDD+ Cm+Im + E - Mp)
Ma trận (I-Am)-1 được gọi là ma trận nhân
tử về nhập khẩu.
IMi = ∑mij
(Cộng theo cột của ma trận (I-Am)-1)
Hệ số lan tỏa về nhập khẩu = n.IMi / ∑IMi
Hệ số này của ngành nếu lớn hơn 1 chứng
tỏ các ngành này kích thích đến nhập khẩu và
phụ thuộc lớn vào các yếu tố nhập khẩu. Hệ
số này nhỏ hơn 1 và càng nhỏ chứng tỏ sự phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngoài thấp và là các
ngành trong nước có lợi thế cạnh tranh hơn.
Nguồn số liệu được sử dụng trong bài
viết bao gồm các số liệu thống kê lấy chủ yếu
từ nguồn Tổng cục Thống kê.
3. Kết quả và thảo luận
Hình 1. Tốc độ tăng trưởng các ngành trong nền kinh tế
Nguồn: (Tổng cục Thống kê, 2020)
19
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
chủ yếu vào kim ngạch xuất khẩu của Việt
a) Về chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ
số tiêu thụ ngành công nghiệp,
Nam. Tính đến hết năm 2018, ngành CN
CBCT thu hút tới 57,5% tổng vốn FDI và
48,5 % số dự án (lũy kế các dự án còn hiệu
lực) của toàn nền kinh tế. Trong năm 2019,
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được
cấp phép mới đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn
nhất với số vốn đăng ký của các dự án đạt
12.093,1 triệu USD, chiếm 72,2% tổng vốn
đăng ký cấp mới. Tuy nhiên, một điều dễ
nhận thấy là FDI vào Việt Nam chủ yếu là
những ngành sử dụng nhiều lao động giản
đơn như: may mặc, giày dép. Các doanh
nghiệp (DN) FDI chủ yếu tập trung vào hoạt
động gia công, lắp ráp, nguyên vật liệu chủ
yếu nhập từ nước ngoài nên giá trị gia tăng
còn thấp (CIEM, 2017) và không tạo ra được
mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp
trong nước.
Công nghiệp chế biến, chế tạo hiện là
ngành có chỉ số sản xuất công nghiệp cao
nhất trong số các ngành công nghiệp và cao
hơn cả chỉ số sản xuất công nghiệp chung
của toàn nền kinh tế. Năm 2019, chỉ số sản
xuất ngành CN CBCT đạt 110,4% cao hơn
mức chung của toàn ngành (109,1%); trong
đó, một số ngành CN CBCT có chỉ số sản
xuất cao như: sản xuất kim loại tăng 28,6%;
khai thác quặng kim loại tăng 25,9%; sản
xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng
21%; in, sao chép bản ghi các loại tăng
15,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và
plastic tăng 14,3%; ...
Mặt khác, chỉ số tiêu thụ sản phẩm ngành
CN CBCT tiếp tục tăng lên trong những năm
gần đây, đến năm 2019, chỉ số tiêu thụ sản
phẩm toàn ngành đạt 109,5%, tập trung cao
vào một số ngành như: sản xuất kim loại; sản
xuất than cốc và sản phẩm dầu mở tinh chế;
in, sao chép bản ghi; sản xuất sản phẩm từ
cao su và plastic; ...
Bên cạnh đó, tính đến hết năm 2019, xuất
khẩu ngành CN CBCT chiếm tới 94,1 % tổng
giá trị xuất khẩu. Nhìn chung, tỷ trọng xuất
khẩu của một số mặt hàng chủ lực vẫn thuộc
về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
bao gồm: hàng điện tử, máy tính và linh kiện;
điện thoại các loại và linh kiện; giầy dép;
hàng dệt may và nguyên phụ liệu của ngành
dệt may; ...
b) Về thu hút FDI và đóng góp cho
xuất khẩu
Trong số các ngành kinh tế, CN CBCT là
ngành thu hút phần lớn vốn FDI và đóng góp
Bảng 1. Cơ cấu xuất khẩu theo ngành kinh tế
Đơn vị: Triệu đô la Mỹ
2010 2015
2016
100
4.5
1.7
93.3
0.5
2017
100
4.0
1.7
93.7
0.6
2018
100
3.5
1.2
93.2
2.1
2019
100
3.08
0.96
94.09
1.87
100
7.1
9.4
100
4.0
2.7
TỔNG SỐ
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
Khai khoáng
Công nghiệp chế biến, chế tạo
Ngành khác
82.6 92.5
0.9 1.8
Nguồn: (Tổng cục Thống kê, 2020)
Tuy nhiên, CN CBCT cũng hiện là ngành
đang chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị nhập
khẩu của nền kinh tế, chiếm xấp xỉ 89,0%
trong năm 2019. Điều này cho thấy sự phụ
thuộc lớn vào nhập khẩu trong hoạt động sản
xuất của ngành CN CBCT; đồng thời, cho
thấy sự kém phát triển của các ngành công
nghiệp hỗ trợ trong nước. Nhìn chung, CN
CBCT Việt Nam vẫn ở vị trí thấp trong chuỗi
giá trị toàn cầu; chỉ tham gia được ở các công
20
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
đoạn có GTGT thấp như gia công, lắp ráp;
chưa tương xứng. Tỷ lệ nội địa hóa thấp tác
động kìm hãm mức tăng trưởng và chất
lượng tăng trưởng của Việt Nam.(Viện Năng
suất Việt Nam, 2018)
không chủ động được nguồn cung cho sản
xuất, đặc biệt là đối với các ngành phải nhập
khẩu nguyên phụ liệu như dệt may, da giày,
điện tử, hóa chất, .... Chính vì vậy, CN
CBCT Việt Nam đạt thành tích lớn về quy
mô xuất khẩu, nhưng thực chất GTGT thu về
Bảng 2. Việc làm trong ngành CN CBCT Việt Nam
3.1.2. Bền vững về xã hội:
a) Về tạo việc làm
2010
49124.4
2015
53110.5
0.2
2016
53345.5
0.4
2017
53708.6
0.7
2018
54282.5
1.1
2019
54659.2
0.7
Tổng số LĐ
Tốc độ tăng
CN CBCT
Tốc độ tăng
Tỷ trọng
7051.3
14.4
8457.5
9.6
15.9
9049.2
7.0
17.0
9537.6
5.4
17.8
9999.8
4.8
18.4
11287.6
12.9
20.7
Nguồn: (Tổng cục Thống kê, 2020)
Tổng số việc làm trong ngành CN CBCT tăng liên tục trong những năm gần đây, đồng thời,
tốc độ tăng và tỷ trọng lao động đang làm việc trong ngành CN CBCT cũng tăng liên tục cho
thấy vai trò ngày càng quan trọng của ngành CN CBCT trong việc tạo ra sự bền vững về mặt xã
hội. Xét về tốc độ tăng, CN CBCT có tốc độ tăng số lượng việc làm lớn hơn nhiều so với tốc độ
tăng chung về tổng số việc làm trong nền kinh tế Việt Nam; xét về tỷ trọng, đây là ngành có tỷ
trọng lao động đang làm việc lớn thứ hai (sau ngành nông lâm, thủy sản), tuy nhiên quá trình
chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ nhìn chung vẫn còn
chậm, đòi hỏi cần có sự phát triển mạnh mẽ hơn từ phía ngành CN CBCT để thúc đẩy quá trình
chuyển dịch lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nền kinh tế.
b) Về trình độ lao động:
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong ngành CN CBCT có xu hướng tăng từ 2010 đến nay,
tuy nhiên, đến năm 2013, tốc độ tăng có xu hướng chững lại, đặc biệt, tỷ lệ lao động đã qua đào
tạo của CN CBCT từ 2014 đến nay có xu hướng thấp hơn so với tỷ lệ chung của cả nước. Điều
này cho thấy sản xuất CBCT trong thời gian qua vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc nâng cao
chất lượng lao động trong ngành.
Hình 2. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo ngành CN CBCT
Nguồn: (Tổng cục Thống kê, 2020)
21
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Tương tự, xét về năng suất lao động, mặc
Khu, Cụm Công nghiệp là sự tồn tại của
những dự án, cơ sở thuộc loại hình sản xuất
công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường như: luyện kim, khai thác khoáng sản,
phá dỡ tàu biển, sản xuất giấy, bột giấy, dệt
nhuộm, thuộc da, lọc hoá dầu, nhiệt điện, sản
xuất thép, hóa chất, phân bón hóa học, thuốc
bảo vệ thực vật, chế biến tinh bột sắn; chế
biến mía đường; chế biến thuỷ sản, giết mổ
gia súc, gia cầm... Nhiều cơ sở có nguồn phát
thải lớn như Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn,
Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp
Formosa Hà Tĩnh, các dự án nhiệt điện tại
trung tâm điện lực Vĩnh Tân, Dự án Nhà máy
Alumin Nhân Cơ, Dự án “Tổ hợp Bauxite-
Nhôm Lâm Đồng”... Đáng lo ngại, tính đến
tháng 12/2019, trên phạm vi cả nước còn 171
cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
chưa hoàn thành các biện pháp xử lý ô nhiễm
triệt để. Như vậy, sản xuất CN CBCT vẫn
chưa tạo ra những tác động tích cực đối với
việc bảo vệ và cải tạo môi trường. Đây cũng
là thách thức lớn trong phát triển CN CBCT
theo hướng bền vững về môi trường, đặc
biệt, trong bối cảnh tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, điều này sẽ gây
ra những cản trở lớn cho việc tận dụng các cơ
hội từ hiệp định.
dù CN CBCT có năng suất lao động cao gần
gấp đôi ngành Nông lâm nghiệp và thủy sản,
tuy nhiên, thấp hơn hầu hết các ngành khác
trong nền kinh tế. Đặc biệt, trong 2 năm gần
đây, năng suất lao động của ngành thấp hơn
cả mức chung của cả nước. Năng suất lao
động thấp sẽ cản trở việc tăng thu nhập, tăng
mức sống cho người lao động trong ngành
này, do đó, hạn chế tính bền vững về mặt xã
hội trong quá trình phát triển bền vững của
toàn ngành.
3.1.3. Bền vững về môi trường:
Theo Báo cáo về hiện trạng môi trường
quốc gia giai đoạn 2011 – 2015 (Bộ tài
nguyên và môi trường, 2015), tỷ lệ áp dụng
công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh còn khoảng cách khá xa so
với các quốc gia khác trong khu vực, do vậy,
để sản xuất các mặt hàng cần tiêu thụ nhiều
hơ nguyên liệu và năng lượng, thải ra nhiều
hơn chất thải, lại không được xử lý hoặc xử
lý không đảm bảo, gây ô nhiễm môi trường.
Điều này cũng dẫn đến giá trị gia tăng ngành
công nghiệp còn thấp, có xu hướng giảm, dẫn
đến hiệu quả đầu tư thấp.
Theo dự thảo Báo cảo công tác bảo vệ
môi trường năm 2019 (Chính phủ, 2020),
tính đến cuối năm 2019, cả nước có 372
KCN đã được thành lập (cả trong và ngoài
Khu Kinh tế (KKT) ven biển) trong đó có
280 KCN đã đi vào hoạt động (tăng 29 KCN
so với năm 2018) và 92 KCN đang trong giai
đoạn xây dựng cơ bản; 698 CCN đang hoạt
động (tăng 9 CCN so với năm 2018). Song
song với sự tăng lên về số lượng của các
3.2. Tình hình liên kết và ảnh hưởng liên
kết đến phát triển bền vững ngành CN
CBCT
Về hệ số liên kết ngược và liên kết xuôi
của ngành CN CBCT:
22
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
Bảng 3. Các hệ số tác động của ngành CN CBCT và các ngành còn lại trong nền kinh tế giai
đoạn 2011-2015 và 2016-2020
Liên
Liên
Hệ số
Liên
Liên
Hệ số
kết
kết
lan tỏa
kết
kết
lan tỏa
ngược xuôi đến NK ngược xuôi đến NK
1
Sản phẩm nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy sản
1,06
1,10
1,16
1,38
0,93
3,89
1,12
1,57
1,82
1,13
0,97
1,18
1,45
0,86
4,67
1,20
1,28
1,65
2
Sản phẩm khai khoáng
3
Sản phẩm công nghiệp chế
biến, chế tạo
4
5
Điện, khí đốt, nước nóng hơi
nước và điều hòa không khí
0,93
0,83
0,63
0,87
0,77
0,67
Nước tự nhiên khai thác; dịch vụ
quản lý và xử lý rác thải, nước
thải
0,91
1,10
0,88
0,69
0,77
0,98
0,96
1,46
0,57
0,94
1,20
0,95
0,62
0,71
0,96
1,04
1,48
0,75
6
7
Sản phẩm xây dựng
DV bán buôn và bán lẻ; dịch vụ
sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và
xe có động cơ khác
8
9
DV vận tải kho bãi
1,03
1,74
0,99
1,01
1,25
2,43
1,13
1,05
0,96
0,92
1,31
1,28
DV thông tin và truyền thông
10 DV tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm
0,93
0,80
1,02
0,85
1,03
0,82
0,81
0,68
0,52
0,31
0,93
0,58
0,96
0,89
1,00
1,03
0,99
0,81
0,83
0,62
0,64
0,52
0,93
0,92
11 DV kinh doanh BĐS
12 DV chuyên môn, khoa học và
công nghệ
13 DV hành chính và hỗ trợ
14 DV của Đảng cộng sản, tổ chức
chính trị - xã hội, quản lý nhà
nước, an ninh quốc phòng …
0,79
0,61
0,42
0,87
0,54
0,68
15 DV giáo dục và đào tạo
16 DV y tế và trợ giúp xã hội
0,80
0,94
0,63
0,62
0,36
1,52
0,84
1,00
0,56
0,54
0,54
1,43
17 DV nghệ thuật, vui chơi và giải
1,01
0,95
0,70
0,63
0,62
0,93
1,00
0,98
0,62
0,55
0,64
1,02
trí
18 DV khác
Nguồn: Xử lý và tính toán từ bảng I-O 2012, 2016, Tổng cục Thống kê
Một điểm nổi bật là, CN CBCT là ngành
có có hệ số liên kết xuôi lớn nhất trong số 18
nhóm ngành và hệ số liên kết ngược đứng vị
trí thứ hai. Đặc biệt, hệ số liên kết xuôi của
ngành CN CBCT có giá trị tương đối lớn
(3,89 trong giai đoạn 2011-2015 và tiếp tục
tăng lên 4,67 trong giai đoạn 2016-2020),
thể hiện vai trò cung ứng lớn của CN CBCT
cho toàn bộ các ngành sản xuất còn lại trong
nền kinh tế. Bên cạnh đó, hệ số liên kết
ngược của CN CBCT cũng lớn hơn 1 (tương
ứng với giá trị 1,16 và 1,18 trong hai giai
đoạn), những ngành có chỉ tiêu liên kết
ngược lớn hơn 1 sẽ được xem là ngành có
sức lan tỏa lớn, như vậy, một sự tăng hoặc
giảm về cầu cuối cùng đối với sản phẩm của
23
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
các ngành CN CBCT sẽ ảnh hưởng đáng kể
đến các ngành khác và cả nền kinh tế. Như
vậy, có thể đánh giá rằng, CN CBCT có tác
động liên kết lớn với các ngành trong nền
kinh tế, sự phát triển của CN CBCT có tác
động lớn đến hoạt động sản xuất của các
ngành còn lại trong nền kinh tế.
Bảng 4. Tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước
của các nhà lắp ráp tại Việt Nam
Lĩnh vực hạ nguồn
Tỷ lệ % cung ứng
trong nước
85-90%
15-40%
20%
Xe máy
Ô tô
Sản xuất thiết bị đồng bộ
Về tác động đến nhập khẩu, có thể thấy
rằng, CN CBCT hiện đang là ngành có hệ số
lan tỏa đến nhập khẩu tương đối lớn ( tương
ứng 1,82 và 1,65 trong hai giai đoạn), tuy
nhiên, xu hướng là giảm dần. Như vậy, sản
xuất CN CBCT của Việt Nam hiện nay vẫn
phụ thuộc lớn vào nhập khẩu tư liệu sản xuất
và nguyên vật liệu từ nước ngoài khiến cho
đóng góp của ngành vào GTGT của nền kinh
tế vẫn ở mức thấp, dẫn đến hạn chế việc tăng
thu nhập, tăng mức sống cho người lao động,
cản trở tính bền vững về xã hội trong quá
trình phát triển bền vững của ngành. Điều
này đặt ra yêu cầu cần thiết phải phát triển
các ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước để
nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, từ đó, nâng cao sự
đóng góp của CN CBCT vào GTGT của nền
kinh tế, cũng chính là đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam trong những
năm tiếp theo.
Sản xuất máy nông
nghiệp, máy động lực
40-60%
40%
Sản xuất máy công
nghiệp
Công nghiệp công nghệ
cao
10%
Nguồn: Bộ Công thương, 2017
Tỷ lệ cung ứng nội địa trong nước cho các
nhà lắp ráp thấp, thường do các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài đảm nhiệm. Sản phẩm
CNHT chủ yếu do doanh nghiệp FDI sản
xuất hoặc nhập khẩu. Các sản phẩm doanh
nghiệp nội địa sản xuất có chất lượng thấp,
giá thành cao (công nghệ lạc hậu, chậm đổi
mới (do hạn chế nguồn lực, qui trình sản xuất
kém…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ
các doanh nghiệp nội địa. Sự liên kết yếu
giữa các DN trong quá trình sản xuất của
ngành CN CBCT cũng gây ra những khó
khăn trong việc cải thiện môi trường sản
xuất, bảo vệ môi trường sinh thái, cản trở sự
cải thiện về tính bền vững trong môi trường
trong quá trình phát triển của ngành.
Về mối liên kết giữa các doanh nghiệp
trong chuỗi sản xuất, cung ứng CN CBCT:
Về cơ bản, sau hơn 30 năm phát triển, ngành
CN CBCT Việt Nam vẫn trong tình trạng lắp
ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các
doanh nghiệp trong nước vẫn gần như chỉ
khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và
giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5-10%/năm.
Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI đang
đứng trước sức ép phải giảm chi phí linh phụ
kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản
phẩm sản xuất trong nước. Do số doanh
nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít so với số lượng doanh
nghiệp lắp ráp, chất lượng linh phụ kiện chưa
đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI
phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước
xung quanh.
Về sự hình thành các cụm, khu CN, cụm
liên kết ngành (CLKN)
Trong những năm qua, một số CLKN,
cụm CNĐT cũng đã tồn tại và hiện hữu một
cách tự nhiên. Chẳng hạn như: KCN Thăng
Long (Nội Bài, Hà Nội) với sự tập trung của
nhiều DN đến từ Nhật Bản, KCN này liên kết
các DN lắp ráp cơ điện tử lớn như Canon,
Panasonic với các DN cung cấp phụ tùng
linh kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei,
Santomas, Yasufuku, ...; Tại miền bắc, cụm
CN bao gồm Hà Nội, Bắc Ninh, Thái
Nguyên, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hải Dương,
24
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
Hưng Yên, Bắc Giang với sự tập trung nhiều
bước phát triển nhanh chóng, đã có những
đóng góp đáng kể và được coi là động lực chủ
yếu cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, thúc
đẩy xuất khẩu và thu hút dòng vốn FDI. Tuy
nhiên, thực trạng quá trình phát triển của
ngành cũng cho thấy một số hạn chế lớn còn
tồn tại, đặc biệt là sự liên kết yếu trong quá
trình sản xuất khiến ngành CN CBCT khó có
thể nâng cao giá trị gia tăng và đóng góp thực
chất hơn vào quá trình phát triển bền vững của
ngành. Trong những năm tiếp theo, ngành CN
CBCT vẫn được coi là động lực chính cho
tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Để có thể thúc
đẩy sự phát triển bền vững của ngành CN
CBCT, cần có những giải pháp để thúc đẩy
liên kết trong ngành CN CBCT. Cụ thể là:
các Tập đoàn đa quốc gia như Canon,
Samsung, Nokia, LG, Panasonic, ... và nhiều
doanh nghiệp vệ tinh, chủ yếu là DN FDI;
trong đó, các tập đoàn đa quốc gia đóng vai
trò là DN chủ đạo để hình thành và phát triển
các cụm ngành. Tại miền nam, hiện cũng đã
bắt đầu hình thành cụm ngành công nghệ
cao, đặc biệt là vi mạch điện tử và công nghệ
thông tin ở TP Hồ Chí Minh; cụm ngành điện
tử tại Bình Dương; ... Tuy nhiên, sự tham gia
của DN CNHT nội địa vẫn còn rất hạn chế,
thể hiện sự liên kết yếu giữa các DN nội địa
với các công ty điện tử lớn, các tập đoàn đa
quốc gia.
Sự mở rộng liên tục về mặt quy mô các
KCN, cụm CN nhưng không được định
hướng một cách hợp lý cũng là nguyên nhân
chủ yếu dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi
trường ngày một nghiêm trọng ở các khu,
cụm công nghiệp, ảnh hưởng xấu đến quá
trình phát triển bền vững của toàn ngành.
Thứ nhất, các DN nội địa cần nỗ lực hơn
nữa trong việc nâng cao năng lực sản xuất để
đáp ứng các yêu cầu của DN FDI, các tập
đoàn đa quốc gia, tham gia vào các chuỗi
cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu, từ đó, nâng
cao giá trị gia tăng và thúc đẩy quá trình phát
triển bền vững cho toàn ngành CN CBCT. Để
làm được điều này, giải pháp nỗ lực đổi mới
công nghệ và đổi mới tổ chức hoạt động sản
xuất, chú trọng đến các vấn đề bảo vệ môi
trường sẽ có ý nghĩa lớn. Các doanh nghiệp
cần chủ động đổi mới, áp dụng tiến bộ công
nghệ vào hoạt động sản xuất; tăng cường kết
nối với các DN, tập đoàn đa quốc gia để học
hỏi, tiếp thu công nghệ và quá trình tổ chức
hoạt động sản xuất để tăng năng suất, giá trị
gia tăng của sản phẩm. Bên cạnh đó, cần chú
trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
trong DN để nắm bắt tốt công nghệ, các thông
tin về sản xuất, thị trường, ... Đồng thời, quy
trình sản xuất cần quan tâm đến các vấn đề
bảo vệ môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn về
môi trường trong quá trình sản xuất, điều này
là rất quan trọng để có thể tham gia vào các
chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu và
đáp ứng các yêu cầu ngày càng khắt khe khi
Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào quá
trình hội nhập kinh tế thế giới.
Về mối liên kết giữa DN với hệ thống hiệp
hội, trung tâm hỗ trợ DN: theo đánh giá của
CIEM (2016)(Viện Nghiên cứu Mitsubishi
and Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
Ương, 2016), chính quyền địa phương đang
vận hành trung tâm hỗ trợ DN và các trung
tâm khuyến công tại mỗi một tỉnh, thành phố,
tuy nhiên, nhận thức của các DN về sự tồn tại
của những cơ sở này có thể rất thấp. Chính vì
vậy, tần suất sử dụng các cơ sở này cũng rất
thấp. Điều này thể hiện tính liên kết yếu giữa
DN với các cơ quan, tổ chức hỗ trợ DN. Điều
này cũng gây ra khó khăn trong công tác
định hướng, triển khai các chính sách tác
động của Nhà nước theo hướng sản xuất bền
vững ngành CN CBCT.
4. Kết luận và đề xuất một số giải pháp
thúc đẩy liên kết để phát triển bền vững
ngành CN CBCT
Như vậy, có thể thấy rằng, trong những
năm vừa qua, ngành CN CBCT đã có những
25
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Thứ hai, Chính phủ cũng cần có các chính
tiến vào quá trình sản xuất để hạn chế tình
trạng ô nhiễm môi trường, cải thiện tính bền
vững về môi trường.
sách để phát triển các khu, cụm ngành công
nghiệp theo hướng chuyên sâu để tạo thành
các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng, từ đó,
thúc đẩy liên kết giữa các DN trong nước và
giữa DN nội địa với DN FDI, các tập đoàn đa
quốc gia; tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp
dụng các tiêu chuẩn về môi trường trong quá
trình sản xuất . Đồng thời, cần định hướng
dòng vốn FDI theo hướng tăng cường liên
kết với DN trong nước, tăng cường thu hút
FDI vào các các ngành công nghiệp hỗ trợ để
tăng tỷ lệ nội địa hóa, áp dụng công nghệ tiên
Mặt khác, cần tăng cường sự phối hợp và
liên kết giữa DN với các cơ quan quản lý
Nhà nước, các tổ chức, trung tâm, hiệp hội
hỗ trợ DN để có thể kịp thời trao đổi, cung
cấp các thông tin, quy định liên quan đến
việc thực thi các Hiệp định, các thông tin về
thị trường, các thông tin về chính sách ưu
đãi, chính sách hỗ trợ, chính sách liên quan
đến môi trường ... cho doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Abdin, J. 2016. Government’s role in industrial cluster development [Online]. Available:
joynal-abdin [Accessed 4-9 2018].
Bắc, N. H. 2020. Nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên. Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân.
Bộ Tài nguyên và Môi trường 2015. Báo cáo về hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011
– 2015 Hà Nội.
Chính phủ 2020. Dự thảo Báo cáo về công tác bảo vệ môi trường năm 2019. Hà Nội.
Colovic, A. & Lamotte, O. 2014. The role of formal industry clusters in the internationalization
of new ventures. European Business Review, 26, 449-470.
Dobson, S. M. 1984. An analysis of the role of linkages in peripheral area development: the
case of devon and cornwall. Universit y of Exeter.
Huân, N. V. 2012. Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn. Kỷ yếu diễn đàn kinh tế mùa thu. Hà Nội.
Ký, H. M. & Duy, L. M. N. 2012. Liên kết kinh tế vùng: Từ lý luận đến thực tiễn. Kỷ yếu diễn
đàn kinh tế mùa thu 2012. Hà Nội.
Levinson, C. 2018. Definition of the Manufacturing Industry. Available:
Liêm, P. S. Tăng cường liên kết công nghiệp giữa Hà Nội và các địa phương trong vùng thủ đô
[Online].Available:
CacTinh.pdf [Accessed 30/8 2020].
Nadvi, K. & BARRIENTOS, S. 2004. Industrial clusters and poverty reduction.
Ngọc, L. M. & TRANG, L. H. 2011. Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển các cụm liên kết
ngành tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Nghiên cứu kinh tế số 396, 41-50.
Sơn, N. N. 2015. Phát triển cụm ngành công nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Kỷ yếu hội thảo quốc gia: Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và
ngành ngân hàng trong bối cảnh Hội nhập. Hà Nội.
Tài, N. Đ. 2013. Hình thành và phát triển cụm liên kết ngành ở Việt Nam: Một lựa chọn chính
sách [Online]. Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - Viện quản lý kinh tế Trung Ương.
cum-lien-ket-nganh-o-Viet-Nam-Mot-so-lua-chon-chinh-sach.html [Accessed 20/7/2016 2016].
26
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(03) - 2020
Thanh, T. B. 2009. Liên kết kinh tế miền Trung và Tây Nguyên - Từ lý luận đến thực tiễn. Tạp
chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 1-5.
Thành, V. T. Phát triển mạng lưới cụm liên kết ngành ở Việt Nam.
Tổng cục thống kê 2020. Niên giám thống kê 2019. Hà Nội: NXB Thống kê.
Tùng, N. T. 2018. Xây dựng liên kết kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Luận án tiến
sỹ kinh tế, Học viện khoa học xã hội.
Viện năng suất Việt Nam 2018. Báo cáo năng suất Việt Nam 2017. Viện Năng suất Việt Nam.
Viện nghiên cứu Mitsubishi & Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương 2016. Báo cáo
Nghiên cứu về nâng cao năng lực các Ngành Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam. Hà Nội, Việt
Nam.
World Bank 2017. Việt Nam: Tăng cường năng lực cạnh tranh và liên kết của doanh nghiệp
vừa và nhỏ Bài học kinh nghiệm trong nước và quốc tế. Hà Nội.
27
Bạn đang xem tài liệu "Liên kết để phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến chế tạo Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- lien_ket_de_phat_trien_ben_vung_nganh_cong_nghiep_che_bien_c.pdf