Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD)

TpchíKhoahc-TrưngĐi hcMHàNi66(4/2020) 115-24  
15  
LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG - NỀN TẢNG ĐỂ  
XÂY DỰNG PHÁT TRIỂN CÁC TÁC PHẨM MỸ THUẬT  
ỨNG DỤNG (MTƯD)  
TRADITIONAL VILLAGE - FOUNDATION FOR BUILDING AND  
DEVELOPING APPLICABLE ART WORKS  
Nguyn Lan Hương*  
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 310/2019  
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/04/2020  
Tóm tt: Vào nhng thp niên đầu ca thế kXX, riêng vùng châu thBc Bcó ti  
108 ngh. Nhiu làng còn gn tên mình vi tên ngh, hay gn địa danh ca mt vùng vi  
ngh, nhng làng nghnày ít nhiu đó ni danh tlâu, có quá khttrăm ngàn năm, tên  
làng đó đi vào lch s, ca dao, tc ng... trthành di sn văn hóa dân gian như các làng  
ngh: làng chm gLa Xuyên, làng sơn HThái, làng gm Bát Tràng, làng mây tre đan Phú  
Vinh, làng tranh Đồng H, làng sơn quang Cát Đằng, làng la Hà Đông, làng thêu Qut  
Động... Như vy, làng chính là nơi bo lưu giá trvăn hóa truyn thng ca dân tc và cơ sở  
văn hóa ca MTƯD chính là nhng nét văn hóa truyn thng đó. Có thnói cơ svăn hóa  
ca MTƯD là nhng nét văn hóa truyn thng ca dân tc, mà nơi bo lưu, gìn gichúng là  
nhng làng quê Vit Nam. Vì thế, lch shình thành MTƯD nước ta không thtách ri vi  
quá trình hình thành các làng ngh.  
Tkhóa: Làng ngh, truyn thng, nn tng, mthut ng dng  
Abstract: In the early decades of the twentieth century, the northern delta alone had 108  
jobs. Many villages also associate their names with the trade names, or place names of a region  
with jobs, these villages are more or less famous for a long time, with a history of hundreds  
of thousands of years, that village name goes down in history, folk songs, proverbs... become  
folklore heritage such as craft villages: La Xuyen wood carving village, Ha Thai painting village,  
Bat Trang pottery village, Phu Vinh rattan and bamboo village, Dong Ho painting village, Cat  
Dang optical painting village., Ha Dong silk village, Quat Dong embroidery village... Thus,  
the village is the place to preserve the traditional cultural values of the nation and the cultural  
foundations of applied art are those traditional cultural features. It can be said that the cultural  
foundations of applied art are traditional cultural traits of the nation, where the preserved and  
preserved places are Vietnamese villages. Therefore, the history of forming ne arts in our  
country cannot be separated from the process of forming craft villages.  
Keywords: Craft villages, traditions, foundations, applied art  
* Trường Đại học Mở Hà Nội  
16  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
với thị trường trong nước và tiến tới mở  
rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.  
1. Đặt vấn đề  
Trong suốt chiều dài lịch sử phát  
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm  
chính thống về “làng nghề”. theo giáo sư  
Trần Quốc Vượng thì “Làng nghề là một  
làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu  
nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số  
nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm  
mây tre, làm sơn, làm tranh... Trong đó nổi  
trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một  
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay  
bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ  
chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số  
thợ và phú nhỏ, đã chuyên tâm, có quy  
trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử  
ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”,  
sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản  
xuất ra những mặt hàng thủ công, những  
mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở  
thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp  
thị với một thị trường là vùng rộng xung  
quanh và với thị trường đô thị, tiến tới mở  
rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả  
nước ngoài”.  
triển của dân tộc, xã hội Việt Nam luôn  
gắn liền với đời sống nông thôn. Làng  
là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ  
chức xã hội quan trọng của nông thôn Việt  
Nam cùng với hoạt động nông nghiệp và  
các nghề phụ. Làng là một hạt nhân của  
văn hoá, là nơi cụm cư những người ở khu  
vực nào đó di chuyển đến hoặc ở nhiều  
nơi cụm lại với nhau theo nghề nông, nghề  
thủ công. Qua quá trình ấy hình thành nếp  
sống, thói quen thành văn hoá Làng.  
Trong quá trình hàng ngàn năm lao  
động cần cù, bên cạnh nghề trồng lúa nước  
là cơ sở kinh tế chính, cha ông ta còn tạo  
ra nhiều nghề thủ công tinh xảo. Tên vùng  
châu thổ Bắc Bộ, bên cạnh số đông các  
làng thuần nông, còn có nhiều làng nghề  
thủ công, tại đó dân cư sống chủ yếu bằng  
một nghề hoặc nhiều nghề, có khi chỉ bằng  
một công đoạn của nghề và tạo ra nhưng  
sản phẩm độc đáo, mang tính đặc trưng  
của nghề, của làng nghề, của vùng nghề,  
trong đó có các làng thủ công mỹ nghệ.  
2.2. Đặc đim ca làng nghề  
Đặc điểm nổi bật nhất của các làng  
nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ  
với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện  
trong từng làng - xã ở nông thôn sau đó  
các ngành nghề thủ công nghiệp được tách  
dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản  
xuất nông nghiệp và sản xuất - kinh doanh  
thủ công nghiệp trong các làng nghề đan  
xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước  
hết và đồng thời là người nông dân.  
2. Làng nghề truyền thống  
2.1. Khái nim làng nghề  
Làng nghề Việt Nam, làng nghề thủ  
công, làng nghề truyền thống hoặc làng  
nghề cổ truyền thường được gọi ngắn gọn  
là làng nghề, là những làng mà tại đây hầu  
hết dân cư tập trung vào làm một nghề duy  
nhất nào đó, nghề của họ làm thường có  
tính chuyên sâu cao và mang lại nguồn thu  
nhập cho dân làng.  
Hai là, công nghệ kỹ thuật sản xuất  
sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là  
các làng nghề truyền thống thường rất thô  
sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là  
chủ yếu. Công cụ lao động trong các làng  
Làng nghề truyền thống sản xuất  
ra những mặt hàng thủ công, những mặt  
hàng có tính mỹ nghệ, từ đó trở thành sản  
phẩm hàng hóa có quan hệ thông thương  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
17  
nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ  
sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại  
sản phẩm có công nghệ - kỹ thuật hoàn  
toàn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của  
người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí  
hoá và điện khí hoá từng bước trong sản  
xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều  
nghề có khả năng cơ giới hoá được một số  
công đoạn trong sản xuất sản phẩm.  
nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa  
dạng và phong phú hơn.  
Năm là, sản phẩm làng nghề, đặc  
biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc,  
có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc  
văn hoá dân tộc. Các sản phẩm làng nghề  
truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa  
có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản  
phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa  
là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công  
sở nhà nước... Các sản phẩm đều là sự kết  
giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo  
với sự sáng tạo nghệ thuật. Cùng là đồ  
gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân  
biệt được đâu là gốm sứ Bát Tràng (Hà  
Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Đông Triều  
(Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm  
trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các trống  
đồng và các họa tiết trên đồ gốm sứ đến  
những nét chấm phá trên các bức thêu...  
tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê  
hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá  
tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín  
ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.  
Ba là, đại bộ phận nguyên vật liệu  
của các làng nghề thường là tại chỗ. hầu  
hết các làng nghề truyền thống được hình  
thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn  
nguyên liệu sẵn có tại chỗ, trên địa bàn  
địa phương, cũng có thể có một số nguyên  
liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước  
ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc  
nhuộm... song không nhiều.  
Bn là, phần đông lao động trong  
các làng nghề là lao động thủ công, nhờ  
vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn  
tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của  
người thợ, của các nghệ nhân. Trước kia,  
do trình độ khoa học và công nghệ chưa  
phát triển thì hầu hết các công đoạn trong  
quy trình sản xuất đều là thủ công, giản  
đơn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của  
khoa học - công nghệ, việc ứng dụng khoa  
học - công nghệ mới vào nhiều công đoạn  
trong sản xuất của làng nghề đã giảm bớt  
được lượng lao động thủ công, giản đơn.  
Tuy nhiên, một số loại sản phẩm còn có  
một số công đoạn trong quy trình sản xuất  
vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công  
tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu  
theo phương thức truyền nghề trong các  
gia đình từ đời này sang đời khác và chỉ  
khuôn lại trong từng làng. Sau hòa bình  
lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác  
xã làm nghề thủ công truyền thống ra đời,  
làm cho phương thức truyền nghề và dậy  
Sáu là, thị trường tiêu thụ sản phẩm  
của các làng nghề hầu hết mang tính địa  
phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời  
của các làng nghề, đặc biệt là các làng  
nghề truyền thống, là xuất phát từ việc  
đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ  
của các địa phương. Ở mỗi một làng nghề  
hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ  
dùng làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ  
sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay,  
thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là các  
thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh  
và một phần cho xuất khẩu.  
By là, hình thức tổ chức sản xuất  
trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô  
hộ gia đình, một số đã có sự phát triển  
18  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp  
tư nhân.  
những công trình kiến trúc, như: cung  
điện, đình chùa, lăng tẩm... Có thể phân  
loại thành các nhóm ngành nghề chủ yếu:  
2.3. Phân loi làng nghề  
- Nghchế tác kim loi (chạm bạc  
Đồng Xâm, chế tác kim hoàn Định Công,  
vàng bạc Châu Khê...)  
Làng nghề là một trong những nét  
đặc sắc của quá trình phát triển tiền tư  
bản phương Đông ở Việt Nam, các nghề  
nổi tiếng và lâu đời nhất như nghề đúc  
đồng, dệt vải, làm giấy, làm gốm, chạm  
gỗ... đều xuất phát và tồn tại ở các làng. Ở  
Việt Nam, nghề và làng nghề thủ công đã  
trở thành một bộ phận không thể tách rời  
trong di sản văn hóa dân tộc.  
- Nghmc, chm khc g(Chàng  
Sơn, điêu khắc gỗ Dư Dụ, La Xuyên, chạm  
gỗ Phù Khê, chạm khắc gỗ Đông Giao...)  
- Nghkhm trai (Chuyên Mỹ,  
Chuôn Ngọ...)  
- Nghgm (Phù Lãng, Thổ Hà,  
Để duy trì các hoạt động nghề  
nghiệp, mỗi làng nghề do đặc trưng nghề  
nghiệp đều có cách thức tổ chức và phân  
công lao động khác nhau. Tri thức nghề  
không chỉ thể hiện trong khuôn khổ một  
nghề truyền thống mà còn thể hiện qua sự  
phối hợp đồng bộ và hài hòa giữa nhiều  
nghề khi cùng làm nên một sản phẩm là  
Cậy, Bát Tràng, Chăm Bầu Trúc...)  
- Nghề Đúc Đồng (Phú Lộc, Đồng  
Qũy, Trà Đông, Đại Bái...)  
- Nghrèn st (Đức Thắng, Vân  
Chàng, Bảo Ngũ, Bản Phya Chang...)  
- Nghề đan lát; nghề thêu, dệt; nghề  
làm giấy; đồ mã và nghề làm tranh dân gian...  
Một số làng nghề và sản phẩm nghề truyền thống của Việt Nam  
Hình 1. Sn phm chm bc, đng thcông ca làng Đồng Xâm  
Hình 2. Nhng sn phm bc được làm tmlàng đu bc Đnh Công  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
19  
Hình 3. Sn phm làng nghtruyn thng Chàng Sơn  
3. Xây dựng phát triển các tác  
phẩm mỹ thuật ứng dụng  
hthng kthut và cũng không phi là  
công tác thiết kế mthut biu thnim  
hưng phn ca ha sĩ, nó là vic làm mà  
thông qua đó sn xut được ni lin vi  
thtrường” [6]. Hiện nay, theo nhu cầu  
của xã hội nhiều trường tập trung đào  
tạo các chuyên ngành thuộc lĩnh vực  
Mỹ thuật ứng dụng như Thiết kế Kiến  
trúc (architech design), Thiết kế Nội thất  
(interior design), Thiết kế Đồ họa (graphic  
design) thông tin truyền thông, Thiết kế  
Thời trang (fashion design) và Thiết kế  
tạo dáng sản phẩm (product design).  
3.1. Thc trng đào to MTƯD  
hin nay  
Việt Nam đang trong quá trình hội  
nhập quốc tế toàn cầu, sự phát triển của  
cuộc cách mạng công nghệ thông tin cùng  
những phát minh khoa học trên thế giới đã  
tác động sâu rộng và làm thay đổi mạnh  
mẽ nhiều phương diện và mở ra hàng loạt  
vấn đề cần được giải quyết. Đó cũng là  
những cơ hội cho các ngành học nắm bắt  
thời cơ và bắt nhịp xu hướng phát triển  
trên thế giới và khu vực. Đào tạo Mỹ thuật  
nói chung và mỹ thuật ứng dụng nói riêng  
là yêu cầu đặt ra từ thực tiễn cũng như từ  
phương diện lý luận chuyên ngành mỹ  
thuật ứng dụng hiện nay.  
Trước những năm 1985, đào tạo  
Mỹ thuật ứng dụng chủ yếu là bản thiết  
kế vẽ tay các sản phẩm (mang tính chất  
thủ công) và gần như không quan tâm đến  
thị trường tiêu thụ, thị hiếu người dùng,  
địa chỉ nhận sản xuất... Sau năm 1986,  
khi Việt Nam chuyển đổi mô hình kinh tế  
đã tạo cơ hội cho Mỹ thuật ứng dụng có  
cơ hội phát triển. Nhưng phải từ thập kỷ  
90 trở đi, các cơ sở đào tạo Mỹ thuật ứng  
dụng bắt đầu bắt nhịp với cuộc cách mạng  
công nghiệp lần thứ 3 (3.0), sử dụng công  
nghệ thông tin, máy vi tính kết nối mạng  
internet. Hiện nay có gần 40 cơ sở đào tạo  
công lập và dân lập trong cả nước về Mỹ  
thuật ứng dụng [2].  
“Mỹ thuật ứng dụng” hay “Mỹ  
thuật công nghiệp” bắt nguồn từ thuật ngữ  
“Design” được sử dụng ở Việt Nam từ  
những thập kỷ 70 của thế kỷ XX, khi mỹ  
thuật nước nhà tiếp cận với nền Design  
của Cộng hòa dân chủ Đức và Liên Xô  
cũ [6]. Mỹ thuật ứng dụng là một lĩnh vực  
thuộc phạm vi Nghệ thuật - Kinh tế - Kỹ  
thuật [6]. “Thiết kế Design không phi là  
thiết kế kthut đơn thun, nhm mc  
đích hoàn thin hoc vn hành thun túy  
20  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
Phần lớn các cơ sở đào tạo Mỹ  
được các hợp đồng thiết kế theo nhu cầu  
xã hội hay không còn phụ thuộc vào nhu  
cầu tự thân của các họa sĩ.  
thuật ứng dụng đều có những điểm tương  
đồng trong việc thiết kế chương trình đào  
tạo đặc biệc về tin học gồm tin học cơ  
bản và tin học chuyên ngành (các phần  
mềm Photoshop, CorelPainter, Autocad,  
IIIustrator, 2D, 3Dmax) với thời lượng  
môn học từ 45 tiết đến 90 tiết cho chương  
trình đào tạo 5 năm “Cuc cách mng  
công nghip thtư (4.0) mra nhiu cơ  
hi nâng cao trình độ công ngh, nâng  
cao năng lc sn xut và cnh tranh trong  
chui sn phm; to ra sthay đi ln  
vhình thái kinh doanh dch v; to ra  
nhiu cơ hi cho các doanh nghip khi  
nghip sáng to... to cơ hi đu tư hp  
dn và đy tim năng trong lĩnh vc công  
nghsvà Internet đng thi cũng là cơ  
hi ln cho sn xut công nghip vi trình  
độ khoa hc và công nghtiên tiến” [8].  
3.2. Xây dng phát trin các tác  
phm MTƯD  
MTƯD là một trong những ngành  
nghề quan trọng góp phần vào sự nghiệp  
phát triển của đất nước, góp phần trang bị  
một cách cơ bản, toàn diện một số kỹ năng  
cho con người. Vai trò MTƯD là:  
- Thiết kế kiu dáng sn phm.  
- Thúc đy tăng trưởng nn kinh tế  
hàng hóa.  
- To dng nn văn hóa thm mvà  
nhn thc xã hi.  
- To dng bn sc thương hiu  
dân tc.  
Từ 1985 về trước đào tạo MTƯD  
chủ yếu là sáng tác thiết kế vẽ tay, sáng tác  
ra các sản phẩm nhưng không quan tâm  
nhiều đến địa chỉ nhận sản xuất và ứng  
dụng. Sau năm 1986, nền kinh tế mở cửa,  
đây cũng là lúc chuyển đổi mô hình kinh  
tế, và tạo cơ hội cho MTƯD có cơ hội phát  
triển. Từ thập kỷ 90 trở đi, các cơ sở đào  
tạo MTƯD bắt đầu bắt nhịp với cuộc cách  
mạng công nghiệp lần thứ 3 (3.0), sử dụng  
công nghệ thông tin, máy vi tính kết nối  
mạng internet.  
Trong khi đó, công nghệ thông tin  
thay đổi đã phát sinh nhu cầu về nguồn  
nhân lực mỹ thuật đa phương tiện để phục  
vụ cho các công ty quảng cáo, Đài phát  
thanh, truyền hình, các tòa soạn, nhà xuất  
bản, công ty sản xuất phim, video, trò  
chơi, phần mềm, website... Mỗi một cuộc  
cách mạng công nghệ đều đem đến thay  
đổi về kỹ thuật, sản phẩm công nghệ phục  
vụ thị trường khác nhau. Điều này đòi hỏi  
các nhà thiết kế phải hiểu và có khả năng  
ứng dụng trong việc thiết kế sản phẩm.  
Trên thực tế, nhiều họa sĩ sử dụng các  
phần mềm kỹ thuật số như là một công cụ  
cần thiết để làm việc, khi sản phẩm thiết  
kế trên thị trường thay đổi như thiết kế  
game, app - ứng dụng (trên máy tính và  
điện thoại), sản phẩm mỹ thuật 3D... đã  
có sự phân cấp năng lực và thị trường từ  
nhân lực thiết kế. Do vậy, việc tự nâng cao  
chuyên môn, cập nhật các sản phẩm công  
nghệ và kỹ thuật mới để có thể thực hiện  
Bối cảnh đất nước đang đổi mới hội  
nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải chứng  
tỏ tài năng, tâm huyết của người nghệ  
sỹ, nghệ nhân, của nhà khoa học - cả dân  
tộc đang đòi hỏi những sản phẩm thiết  
kế MTƯD thể hiện đầy đủ cả trình độ tư  
tưởng, ý thức thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật...  
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học  
kỹ thuật hiện đại cũng góp phần thúc đẩy  
tương hỗ cho sự sáng tạo MTƯD.  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
21  
Việc định hướng đào tạo nguồn  
nhân lực MTƯD phải xuất phát từ những  
phân tích khoa học về xu thế phát triển  
kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ  
nói chung cũng như về sự phát triển của  
MTƯD nói riêng.  
để có thể đáp ứng yêu cầu luôn luôn mới  
và có khả năng vươn lên những trình độ  
học vấn cao hơn khi cần thiết.  
Để đạt được mục tiêu trên, các cơ sở  
đào tạo MTƯD phải được tổ chức theo mô  
hình mới, đa dạng hóa các loại hình đào  
tạo và chương trình học tập, bảo đảm cơ  
hội học tập mở rộng cho mọi người, ở bất  
cứ đâu, bất cứ lúc nào và với bất cứ hình  
thức nào trên cơ sở sử dụng rộng rãi và có  
hiệu quả công nghệ thông tin. Làm được  
điều đó thì nhận thức và thị hiếu thẩm mỹ  
của người học được trang bị một cách cơ  
bản, và ngày càng hướng tới mục tiêu đào  
tạo toàn diện.  
Hoạt động của MTƯD nói chung là  
một quá trình thể hiện sự kết hợp thống nhất  
và hài hòa các kiến thức kinh tế - xã hội -  
khoa học - kỹ thuật - văn hóa - nghệ thuật và  
tổ chức - quản lý. Người làm MTƯD phải  
hình dung được những ảnh hưởng về kinh  
tế - chính trị - xã hội, văn hóa và công nghệ  
chi phối vào sản phẩm của mình. Ngoài các  
cộng tác viên quen thuộc như các kỹ sư, các  
chuyên gia công nghệ, các nhà kinh tế, quản  
lý, các nghệ sĩ tạo hình, ngày nay MTƯD  
còn có quan hệ chặt chẽ với các chuyên gia  
xã hội học, tâm lý xã hội, văn hóa, tin học,  
bảo vệ môi trường v.v.  
Khác với mô hình nhà trường truyền  
thống, ngày nay nhà trường phải là nơi  
học tập của nhiều lứa tuổi khác nhau với  
nhiều ngành nghề, trình độ và thời gian  
khác nhau. Khi công nghệ thông tin tạo  
điều kiện hình thành một cách rộng rãi các  
hệ thống cung cấp thông tin - tri thức thì  
tính độc quyền của nhà trường sẽ không  
còn và thay vào đó là một môi trường cạnh  
tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo,  
các hình thức đào tạo, các phương pháp  
đào tạo v.v. nhằm một mục đích chung cao  
cả là nâng cao tri thức chung và tri thức  
chuyên ngành cho người học.  
Sản phẩm MTƯD được tạo nên và  
tồn tại trong thời gian dài. Thiết kế là yếu  
tố quyết định kiểu dáng của sản phẩm.  
Không những thế nó còn có tầm quan  
trọng trong chính sách thương mại, đóng  
vai trò quyết định sự lớn mạnh của công  
ty. Vì vậy sự khác biệt duy nhất của sản  
phẩm trong cạnh tranh được nhờ vào hoạt  
động của MTƯD. Người làm MTƯD phải  
biết phân tích, dự đoán xu thế phát triển để  
tổng hợp và đưa ra các giải pháp đáp ứng  
yêu cầu phát triển. Điều đó đòi hỏi trình  
độ kiến thức của những người làm MTƯD  
phải đi trước một bước, phải đón trước sự  
phát triển của xã hội một cách chủ động.  
Học tập đi đôi với thực hành là cách  
thực tế nhất từ trước đến nay nền giáo dục  
nước ta hướng đến. Trong đào tạo MTƯD,  
việc học và hành này càng trở nên quan  
trọng. Các cơ sở đào tạo luôn hướng đến  
việc mở các xưởng thực hành để sinh viên  
có thể thực tập ngay sau những giờ học lý  
thuyết.  
Như vậy, mục tiêu đào tạo nguồn  
nhân lực MTƯD là đào tạo con người có  
kiến thức và kỹ năng cao, có đạo đức, có  
kỷ luật, có trách nhiệm, có tư duy năng  
động, khả năng làm việc độc lập, có tinh  
thần hợp tác và khả năng tổ chức lao động,  
có thói quen tự học, tự nâng cao trình độ  
Trong quá trình tiếp thu lý thuyết  
tại xưởng, sinh viên có điều kiện để thấy  
người thầy thị phạm, thao tác trên máy  
móc, thiết bị. Đây là những bài học từ  
22  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
thực tế sinh động, giúp cho người học dễ  
nắm bắt kiến thức hơn là những bài giảng  
lý thuyết khô khan trên các giảng đường.  
Dạy và học hiện nay mang tính truyền bá  
kiến thức đại trà, do đó mô hình học tại  
xưởng hướng đến đào tạo từng con người  
về kỹ năng hành nghề. Trong quá trình  
học tại xưởng, các kỹ năng của sinh viên  
sẽ được bộc lộ và được tôi luyện. Được  
chứng kiến cách làm việc của các chuyên  
gia giúp cho sinh viên có những hứng thú  
trong công việc. Bởi lẽ, một hành vi sáng  
tạo nhiều khi gây nên niềm cảm hứng cho  
một hành vi sáng tạo khác.  
vào tăng cao. Công tác đào tạo cũng không  
thể thực hiện với quy mô lớn, bài bản;  
không có điều kiện mời các chuyên gia hay  
những người có thể hướng dẫn tổ chức sản  
xuất, kỹ năng làm thương mại. Cũng chính  
bởi thu nhập thấp, việc tìm kiếm thị trường  
của các làng nghề rất hạn chế.  
Điều cần quan tâm nhất hiện nay vẫn  
là nâng giá trị của sản phẩm làng nghề.  
Muốn vậy, phải tập trung vào cải thiện  
thiết kế sản phẩm, trong đó yếu tố công  
nghệ và thẩm mỹ giữ vai trò chủ chốt. Về  
yếu tố thẩm mỹ, mỹ thuật ứng dụng sẽ tác  
động tới hình thức của sản phẩm khi giúp  
khai thác được vẻ đẹp nguyên liệu, thậm  
chí là tạo ra sự độc đáo từ nguyên liệu rất  
đơn giản và tính toán sao cho hình dáng  
sản phẩm đẹp, tiện dụng, kết cấu kỹ thuật  
cũng bền chắc hơn.  
Học tập gắn với thực tiễn, kết hợp  
tại các làng nghề truyền thống sản xuất  
sẽ mang lại lợi ích thiết thực. Những kiến  
thức mà sinh viên thu được xuất phát từ  
thực tế cuộc sống. Đó là những bài học  
sống động, bổ ích mà họ mang theo trong  
hành trang của mình sau khi tốt nghiệp.  
Đặc biệt, các họa sĩ MTƯD sẽ giúp  
sản phẩm làng nghề bắt kịp xu hướng màu  
sắc của thế giới theo từng năm, thậm chí  
từng mùa và có thể tạo ra những hoa văn  
mới để đưa vào sản phẩm, thể hiện rất rõ  
trong sản phẩm gốm, thêu...[9].  
3.3. Mt sgii pháp phát trin  
MTƯD được xây dng tnn tng làng  
nghgm, nghmây tre đan  
Có thể nói, hiện nay để sản phẩm  
các làng nghề truyền thống bắt kịp với xu  
thế phát triển của xã hội, thì MTƯD được  
nhận định là cứu cánh của các làng nghề  
trong cải tiến mẫu mã, chất lượng sản  
phẩm; tuy nhiên, việc đưa ưu điểm của mỹ  
thuật ứng dụng vào sản phẩm làng nghề  
rất gian nan [9].  
Có thể nói, mỹ thuật ứng dụng có khả  
năng tạo ra bước cải tiến lớn cho sản phẩm  
làng nghề. Tuy vậy, việc đưa mỹ thuật ứng  
dụng vào sản phẩm rất khó khăn. Khả năng  
thuê họa sỹ, nhà chuyên môn để đưa thẩm  
mỹ vào nghề thủ công không phải quá khó  
khăn, thiếu tài chính chỉ là một phần, chủ  
yếu do nhận thức. Rất nhiều chủ doanh  
nghiệp, nhất là doanh nghiệp thương mại  
hiện vẫn kinh doanh theo lối “dìm giá” để  
được hưởng lợi nhuận cao nhất có thể, như  
vậy sẽ không bao giờ có được sản phẩm  
đẹp. Tại các làng nghề hiện nay, rất hiếm  
doanh nghiệp táo bạo kinh doanh mặt hàng  
đặc biệt, độc đáo. Chính vì vậy, làng nghề  
không có cơ hội tạo ra những sản phẩm đẹp  
cho thị trường [9].  
Khu vực làng nghề hiện có rất nhiều  
sản phẩm độc đáo, cung cấp một lượng lớn  
hàng hóa cho xuất khẩu sản phẩm thủ công  
mỹ nghệ. Tuy vậy, sản phẩm của làng nghề  
hiện mới chỉ chiếm được thị trường giá rẻ,  
nên thu nhập của người dân làng nghề rất  
thấp. Bên cạnh đó, còn một số khó khăn cho  
phát triển nghề như không dự trữ nguyên  
liệu, phụ thuộc vào thương lái, chi phí đầu  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
23  
Thông qua Triển lãm Mỹ thuật ứng  
dụng toàn quốc hay nhiều cuộc thi về  
thiết kế mẫu mã thủ công mỹ nghệ, có  
thể thấy khả năng của nghệ nhân ở làng  
nghề rất lớn. Mỗi năm, các nghệ nhân có  
thể tạo hàng nghìn mẫu mới, đẹp nhưng  
rất khó bán do không có khả năng tiếp  
cận những người có nhu cầu [9].  
Sn phm MTƯD được xây dng tnn tng làng nghgm, nghmây tre đan  
Hình 4. Sn phm MTƯD ca tác gibi viết Hình 5. Sn phm MTƯD ca ThS Bùi Văn  
được thc hin ti làng gm Phù Lãng  
Sn phm được trưng bày ti Trin lãm  
MTƯD toàn quc năm 2019  
Long, Khoa To dáng công nghip, được  
thc hin ti làng gm Phù Lãng năm 2019.  
Sn phm được trưng bày ti Trin lãm  
MTƯD toàn quc năm 2019  
Hình 6. Bài thiết kế MTƯD ca sinh viên Khoa To dáng công nghip, được thc hin tý  
tưởng mây tre làng nghPhú Vinh  
Sn phm được gii Khuyến khích gii thưởng SV ni tht năm 2019  
Hình 7. Bsn phm MTƯD ca sinh viên Khoa To dáng công nghip, được thc hin ti  
làng gm Phù Lãng  
Sn phm được trưng bày ti Trin lãm Nghiêng 3, Khoa TDCN năm 2019.  
24  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
4. Kết luận  
Cùng với tiến bộ khoa học - công  
hội để người làm nghề, dù đầu tư theo xu  
hướng nào cũng yên tâm hơn [10]./.  
nghệ sản phẩm vật chất ngày càng nhiều,  
thì văn minh tinh thần, giá trị truyền thống,  
đạo đức có thể sẽ ngày càng giảm dần,  
điều này rất ảnh hưởng đến các nhà thiết  
kế trẻ khi chạy theo công nghệ phát triển ý  
tưởng sáng tạo nhanh nhưng sản phẩm của  
họ không còn đảm bảo được các yếu tố:  
hữu dụng, thẩm mỹ cao, tính dân tộc. Như  
vậy, những sản phẩm đó không thỏa mãn  
các điều kiện hữu dụng toàn diện về giá trị  
cao về mặt sử dụng, tính nghệ thuật hấp  
dẫn - đây là xu thế thời đại, vì chỉ những  
sản phẩm nào bộc lộ được rõ nét bản sắc  
dân tộc, ghi được dấu ấn tài năng và phong  
cách độc đáo của người thiết kế và có tính  
hội nhập cao mới được thị trường hiện đại  
toàn cầu chấp nhận. “Nếu không bt kp  
nhp phát trin ca thế gii và khu vc,  
Vit Nam sphi đi mt nhng thách  
thc như: tt hu vcông ngh, suy gim  
sn xut, kinh doanh; dư tha lao đng có  
knăng và trình độ thp, gây phá vthị  
trường lao động truyn thng, nh hưởng  
ti kinh tế đất nước; mt an toàn, an ninh  
thông tin, xâm phm bn quyn, thiếu ht  
ngun nhân lc trình độ cao. Đẩy công  
nghlc hu tcác nước phát trin sang  
các nước chm phát trin” [8].  
Tài liu tham kho:  
[1]. Gigìn và phát huy bn sc văn hoá dân  
tc trong đào to văn hoá nghthut (2002),  
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.  
[2]. Hoàng Minh Phúc, Hp tác đào to và sử  
dng nhân lc gia cơ sgiáo dc và doanh  
nghip trong lĩnh vc mthut ng dng -  
Mt nhu cu tt yếu trong giai đon hin nay,  
Hội thảo Khoa học, Bộ Văn hoá, Thể thao và  
Du lịch và Trường Cao đẳng Mỹ thuật trang  
trí Đồng Nai, 2017, tr.76-82  
[3]. Lâm Tô Lộc (2001), Truyn thng nghệ  
thut và sphát trin ca nó vvăn hoá, Nxb  
Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.  
[4]. Lch sVit Nam, tập I (1971), Nxb Khoa  
học xã hội, Hà Nội.  
[5]. Nguyễn Lan Hương, Vai trò ca Mthut  
ng dng trong đời sng và trong đào to,  
Tạp chí khoa học và Đào tạo ĐH Công nghệ  
Sài Gòn, Số 01, 2018, tr.25-29.  
[6]. Nguyễn Ngọc Dũng (1984), “Ba mươi năm  
đào tạo họa sĩ Mỹ thuật Công nghiệp”, Tạp chí  
Mthut Công nghip, số 2/15, tr. 9-13.  
[7]. Nguyễn Ngọc Dũng, Bàn vthut ngữ  
Design, Tlđd, tr.12.  
[8]. Từ Mạnh Lương, Tác động ca cuc cách  
mng công nghip 4.0 đối vi lĩnh vc Văn  
hóa Nghthut, Hội thảo khoa học, Bộ Văn  
hóa, Thể thao và Du lịch, 2018.  
Những sản phẩm chất lượng cao,  
mang tính đặc trưng riêng, phục vụ hội họa  
cũng là một cách thức dù không hẳn giúp  
làng nghề phát triển đại trà trở lại. Ưu điểm  
của cách thức này là không cần phải phát  
triển ồ ạt, sản xuất ít, ít gây ô nhiễm môi  
trường nhưng mang lại giá trị kinh tế cao.  
[9]. Việt Nga (20190, “Mỹ thuật ứng dụng:  
Cải thiện mẫu mã sản phẩm làng nghề”, báo  
Công thương.  
Tuy nhiên, dù phát triển theo kiểu  
đại trà hay theo hướng sản xuất ít mà hiệu  
quả kinh tế cao thì không thể phát triển tự  
phát, mà cần có sự kết hợp một cách lâu  
dài, bài bản hơn và có sự tham gia tích cực  
hơn của cơ quan quản lý nhà nước, đoàn  
[10]. “Đánh thức” làng nghề truyền thống nhờ  
mỹ thuật (2019), báo Công an nhân dân, Hà Nội.  
Địa chtác gi: Khoa To dáng công nghip,  
Trường Đại hc MHà Ni  
Email: huongnguyentdcn@hou.edu.vn  
pdf 10 trang yennguyen 22/04/2022 360
Bạn đang xem tài liệu "Làng nghề truyền thống - Nền tảng để xây dựng phát triển các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng (MTƯD)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdflang_nghe_truyen_thong_nen_tang_de_xay_dung_phat_trien_cac_t.pdf